1994.50
Nước: Việt Nam (Nguyễn)
275 bài thơ
2 bình luận
97 người thích
Tạo ngày 12/06/2005 17:20 bởi Vanachi, đã sửa 2 lần, lần cuối ngày 21/07/2010 02:53 bởi Admin
Nguyễn Du 阮攸 (13/1/1766 - 16/9/1820) tự Tố Như 素如, hiệu Thanh Hiên 清軒, quê gốc làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh và trải qua thời niên thiếu ở Thăng Long. Cha là Nguyễn Nghiễm đã làm tới chức tể tướng triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, người xứ Kinh Bắc (Nguyễn Nghiễm có tám vợ, hai mươi mốt người con). Mười tuổi, Nguyễn Du mồ côi cha, mười ba tuổi mồ côi mẹ. Vì thế tiếng là con quan đại thần nhưng ngay từ thời thơ ấu Nguyễn Du đã phải sống vất vả thiếu thốn. Truyện KiềuVăn chiêu hồn, hai kiệt tác chữ Nôm của Nguyễn Du, rộng xin được giới thiệu riêng vào dịp khác. Tập sách này chỉ chọn lựa một số bài thơ chữ Hán tiêu biểu của ông.

Thơ chữ Hán Nguyễn Du cho thấy phần sâu kín trong tâm trạng ông. Nó như một thứ nhật ký, giãi…

 

Thanh Hiên thi tập - 清軒詩集

Mười năm gió bụi (1786-1795)

Dưới chân núi Hồng (1796-1802)

Làm quan ở Bắc Hà (1802-1804)

Nam trung tạp ngâm - 南中雜吟

Bắc hành tạp lục - 北行雜錄

  1. Long thành cầm giả ca
    13
  2. Thăng Long kỳ 1
    11
  3. Thăng Long kỳ 2
    15
  4. Ngộ gia đệ cựu ca cơ
    7
  5. Quỷ Môn quan
    9
  6. Lạng thành đạo trung
    6
  7. Lưu biệt cựu khế Hoàng
    4
  8. Trấn Nam Quan
    6
  9. Nam Quan đạo trung
    6
  10. Mạc phủ tức sự
    4
  11. Giáp Thành Mã Phục Ba miếu
    5
  12. Minh giang chu phát
    5
  13. Ninh Minh giang chu hành
    3
  14. Đề Đại Than Mã Phục Ba miếu
    5
  15. Hoàng Sào binh mã
    5
  16. Vọng Quan Âm miếu
    5
  17. Tam Giang khẩu đường dạ bạc
    6
  18. Vãn há Đại Than, tân lạo bạo trướng, chư hiểm câu thất
    4
  19. Há than hỷ phú
    4
  20. Thái Bình thành hạ văn xuy địch
    5
  21. Thái Bình mại ca giả
    3
  22. Chu hành tức sự
    6
  23. Sơn Đường dạ bạc
    6
  24. Thương Ngô tức sự
    4
  25. Thương Ngô mộ vũ
    4
  26. Ngũ nguyệt quan cạnh độ
    3
  27. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 01
    5
  28. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 02
    4
  29. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 03
    5
  30. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 04
    5
  31. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 05
    5
  32. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 06
    5
  33. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 07
    5
  34. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 08
    5
  35. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 09
    4
  36. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 10
    4
  37. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 11
    4
  38. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 12
    4
  39. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 13
    4
  40. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 14
    4
  41. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 15
    4
  42. Dương Phi cố lý
    5
  43. Triệu Vũ Đế cố cảnh
    8
  44. Bất tiến hành
    3
  45. Tam Liệt miếu
    4
  46. Quế Lâm Cù Các Bộ
    3
  47. Quế Lâm công quán
    4
  48. Đề Vi, Lư tập hậu
    3
  49. Quá Thiên Bình
    3
  50. Vọng Tương Sơn tự
    4
  51. Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch
    3
  52. Tương giang dạ bạc
    7
  53. Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu kỳ 1
    5
  54. Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu kỳ 2
    5
  55. Phản chiêu hồn
    8
  56. Biện Giả
    4
  57. Trường Sa Giả thái phó
    3
  58. Sơ thu cảm hứng kỳ 1
    5
  59. Sơ thu cảm hứng kỳ 2
    6
  60. Sở vọng
    7
  61. Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ kỳ 1
    5
  62. Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ kỳ 2
    3
  63. Tương Âm dạ
    3
  64. Đăng Nhạc Dương lâu
    3
  65. Hoàng Hạc lâu
    13
  66. Hán Dương vãn diểu
    4
  67. Nhiếp Khẩu đạo trung
    4
  68. Lý gia trại tảo phát
    3
  69. Vũ Thắng quan
    5
  70. Tín Dương tức sự
    3
  71. Ngẫu hứng
    5
  72. Độ Hoài hữu cảm Hoài Âm hầu tác
    4
  73. Độ Hoài hữu cảm Văn thừa tướng
    5
  74. Hà Nam đạo trung khốc thử
    4
  75. Cựu Hứa Đô
    7
  76. Âu Dương Văn Trung Công mộ
    3
  77. Bùi Tấn Công mộ
    4
  78. Hoàng hà
    4
  79. Hoàng Hà trở lạo
    3
  80. Tỉ Can mộ
    4
  81. Trở binh hành
    4
  82. Kê thị trung từ
    4
  83. Nhạc Vũ Mục mộ
    3
  84. Tần Cối tượng kỳ 1
    3
  85. Tần Cối tượng kỳ 2
    3
  86. Vương thị tượng kỳ 1
    3
  87. Vương thị tượng kỳ 2
    3
  88. Đồng Tước đài
    3
  89. Thất thập nhị nghi trủng
    4
  90. Lạn Tương Như cố lý
    3
  91. Hàm Đan tức sự
    3
  92. Hàn Tín giảng binh xứ
    3
  93. Liêm Pha bi
    3
  94. Tô Tần đình kỳ 1
    3
  95. Tô Tần đình kỳ 2
    2
  96. Dự Nhượng kiều chuỷ thủ hành
    3
  97. Dự Nhượng kiều
    3
  98. Kinh Kha cố lý
    3
  99. Đế Nghiêu miếu
    4
  100. Lưu Linh mộ
    5
  101. Kỳ lân mộ
    4
  102. Yển Thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ
    5
  103. Đông lộ
    3
  104. Quản Trọng Tam Quy đài
    3
  105. Kê Khang cầm đài
    6
  106. Đông A sơn lộ hành
    3
  107. Sở Bá Vương mộ kỳ 1
    3
  108. Sở Bá Vương mộ kỳ 2
    3
  109. Liễu Hạ Huệ mộ
    3
  110. Từ Châu đạo trung
    5
  111. Nhị Sơ cố lý
    3
  112. Từ Châu đê thượng vọng
    4
  113. An Huy đạo trung
    5
  114. Á Phụ mộ
    3
  115. Chu Lang mộ
    3
  116. Tổ Sơn đạo trung
    3
  117. Quảng Tế ký thắng
    4
  118. Đồ trung ngẫu hứng
    5
  119. Hoàng Châu trúc lâu
    4
  120. Vinh Khải Kỳ thập tuệ xứ
    3
  121. Mạnh Tử từ cổ liễu
    4
  122. Từ Châu dạ
    4
  123. Tiềm Sơn đạo trung
    3
  124. Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích
    3
  125. Đào Hoa dịch đạo trung kỳ 1
    3
  126. Đào Hoa dịch đạo trung kỳ 2
    4
  127. Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài
    5
  128. Tây Hà dịch
    7
  129. Sở kiến hành
    4
  130. Hoàng Mai sơn thượng thôn
    4
  131. Hoàng Mai đạo trung
    4
  132. Chu phát
    5

Truyện Kiều

Tuyển tập chung

 

 

Ảnh đại diện

Đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Du

Truyện Kiều là một kiệt tác của Nguyễn Du, là linh hồn của văn học Việt Nam, điều đó hẳn không ai dám phủ nhận. Cũng bởi giá trị có một không hai của nó mà khi nói đến Nguyễn Du, người ta nói ngay đến Truyện Kiều. Do vậy ít người để ý đến phần còn lại trong văn nghiệp của ông. Thực ra, Truyện Kiều là tác phẩm diễn nôm, nói theo cách của một nhà nghiên cứu, “lỡ tay” mà thành kiệt tác, còn thơ chữ Hán mới đích là sáng tác, nên xem nó là phát ngôn viên chính thức của Nguyễn Du.

Học giả Mai Quốc Liên có lần viết: “Thơ chữ Hán Nguyễn Du là những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc nữa”. (1)

Quả đúng như vậy. Người viết bài này đã có may mắn được đọc hết gần 250 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, trong lòng bội phần kính phục. Xin góp nhặt đôi vần để phát hoạ vài nét về nhân cách, tấm lòng và tư tưởng của bậc Đại thi hào dân tộc.

1. Nhân cách của một kẻ sĩ:

Nguyễn Du sinh ra trong thời đại nhiễu nhương, chứng kiến bao nhiêu cảnh bọt bèo dâu bể. Triều Lê sụp đổ, 11 tuổi mồ côi cha, 13 tuổi mất mẹ, suốt thời trai trẻ ăn nhờ ở đậu, có lúc làm con nuôi người ta, “Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán”, Nguyễn Du trải qua 10 năm gió bụi. Sau ra làm quan với triều Nguyễn, tâm hồn chàng trai xứ Nghệ đã thuộc về những con người đáng thương trong xã hội. Với một tấm lòng mẫn cảm, dào dạt yêu thương và vô cùng tinh khiết, những vần thơ chữ Hán của cụ Tiên Điền như những giọt lệ đầy bi tráng nhỏ xuống lòng đời trái đắng, vọng lên những âm thanh thống thiết mà vẫn hiên ngang một nhân cách phi thường.

Độc Tiểu Thanh ký có lẽ là bài thơ phát hoạ rõ nét nhất giọt lệ và nụ cười của một trang chí sĩ. Hãy đọc những câu cuối:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tại cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khốc Tố Như?
Nỗi hận xưa nay trời khó hỏi, nỗi oan ức của những người phong nhã “ta tự nai lưng ra cán đáng” (2). Chẳng biết 300 năm sau thiên hạ còn ai khóc cho Tố Như chăng? Hương hồn Tố Như Tử nếu linh thiêng trở lại, chắc ông chẳng bận tâm làm gì cái chuyện “tam bách dư niên hậu”! Điều đáng ray rức là thân phận con người, ta nên oán nó hay không nên oán nó?

Thân phận như bèo trôi giữa ba đào thế thái, Nguyễn Du không tự đánh mất mình hoặc ngồi ôm tay bó gối. Ông nhập thế một cách trọn vẹn, lòng hướng về những bậc tài danh kim cổ. Mỗi lúc gặp lại hình ảnh người xưa, ông luôn liên hệ đến mình, soi rọi lại chính mình để gọi về một chút niềm kiêu hãnh. Về văn chương, ông luôn xem Đỗ Phủ là bậc thầy thiên cổ. Niềm kính trọng ấy chưa từng thôi nghỉ:
Thiên cổ văn chương thiên cổ sư,
Bình sinh bội phục vị thường ly.
(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ 1)
Hay:
Mỗi độc nho quan đa ngộ thân,
Thiên niên nhất khốc Đỗ Lăng nhân.
(Mỗi lần đọc câu “Mũ áo nhà Nho thường làm luỵ thân mình”,
Lại một lần khóc thương người đất Đỗ Lăng sống nghìn năm trước.

Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ 2)
Khi nghĩ về Giả Thái Phó ở Trường Sa, Nguyễn Du có ý cho rằng mình là người nghìn năm sau hiểu lòng Khuất Nguyên hơn Giả Nghị. Tương Đàm với đây gần nhau chỉ trong gang tấc, sống cách nhau nghìn năm, gặp nhau mà hai bên không có gì trái nhau:
Tương Đàm chỉ xích tương lân cận
Thiên cổ tương phùng lưỡng bất vi.
(Trường Sa Giả Thái Phó)
Khi đi sứ sang Trung Quốc, đến thăm mộ của Liễu Hà Huệ, ông viết:
Bi tàn một tự mai hoang thảo
Thiên cổ văn phong nhất há xa.
(Bia tàn chữ mất vùi trong cỏ
Ngàn năm nghe tiếng xuống xe chào. (3)

Liễu Hà Huệ mộ)
Xuống xe để tỏ lòng tôn kính trước mộ của một tịnh nhân như Liễu Hà Huệ, đối với một vị sứ thần nhà Nguyễn như Nguyễn Du phỏng có mấy người?

Cũng với niềm kính trọng ấy, ông trách người đời không để tâm đến những bậc chí nhân ưu thời mẫn thế. Và ông cảm thương cho tấm lòng cô trung tiết liệt của Tam Lư Đại Phu Khuất Nguyên, khi những cái đỏm dáng bên ngoài đã gượng gạo bắt chước người xưa:
Thiên cổ thuỳ nhân lân độc tỉnh
Tứ phương hà xứ thác cô trung
Cận thời mỗi hiếu vi kỳ phục
Sở bội tiêu lan cánh bất đồng.
(Nghìn xưa ai xót người thức tỉnh
Khắp chốn gửi đâu một tấm lòng
Thời nay kẻ thích trang phục lạ
Tiêu lan họ mặc chẳng giống ông

Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu)
Đọc những câu thơ trên, thoạt nghe, ta ngỡ Nguyễn Du chỉ là người đa sầu đa cảm. Chính bạn bè ông cũng nghĩ như thế. Nhưng ngẫm cho cùng, cuộc đời là cuộc mộng, ai sống trong cõi đời này mà chẳng mộng. Ông tự bạch:
Tri giao quái ngã sầu đa mộng
Thiên hạ hà nhân bất mộng trung.
(Ngẫu đề)
Điều đáng nói là giữa chốn huyễn hoá tám vạn khói sương này, người mộng tự tìm cho mình một đời sống thanh tao, thoát tục, dẫu biết rằng cảnh phù sinh khó mà dứt đoạn.
Tiễn nhĩ dã âu tuỳ thuỷ khứ
Phù sinh lao lục kỷ thời hưu.
(Giá được như đàn âu lội nước
Cõi đời lao nhọc lúc nào thôi

Đồng Lung giang)
Hay:
Ná đắc khiêu ly phù thế ngoại
Trường tùng thọ hạ tối nghi nhân.
(Ước gì nhảy khỏi ra vòng tục
Dưới bóng cây tùng thích biết bao

Sơn thôn)
Có lúc, hình ảnh Đào Tiềm thong dong vô sự làm ông thèm thuồng ao ước:
Tiễn sát bắc song cao ngoạ giả
Bình cư vô sự đáo hư linh.
(Thèm được như người bên cửa Bắc (4)
Ngày ngày chẳng việc bận đến tâm

Ký hữu)
Khác với người đồng thời và đồng hương với mình, Nguyễn Công Trứ thường nói:
Làm trai đứng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
Đáng mặt anh hùng lắm! Thì Nguyễn Du cũng chẳng ra làm quan đấy thôi! Nhưng Nguyễn Công Trứ sau bao nhiêu năm “Xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên” lại thốt ra một câu vô cùng chua chát:
Trên trường danh lợi vinh liền nhục
Giữa cuộc trần ai khóc lộn cười.
Nguyễn Du thì “Giữa đường ngẫu hứng” đã ý thức rõ sự phù phiếm của cuộc đời. Cái nhìn của ông thật là tinh tế và sâu sắc:
Phục lạp tử tôn không loại tửu
Thế gian phú quý đẳng phù vân
Bách niên đáo để giai như thị
Hồi thủ mang mang nhất phiến trần.
(Lễ bày rượu tưới phiền con cháu
Chức trọng tiền nhiều mây hợp tan
Kết cục trăm năm đều thế cả
Ngoảnh trông một áng bụi mơ màng).

Đồ trung ngẫu hứng)
Ý thức sâu sắc cõi đời là giả tạm, Nguyễn Du tự vạch cho mình một lối về, một chốn về mà ở đó không còn những oái oăm phiền muộn, đơn sơ với hoa tùng quả bách, với mây trắng nước trong:
Tùng hoa bách tử khẳng hứa thực
Bạch đầu khứ thử tương an quy.
(Hoa tùng quả bách mà ăn được
Đầu bạc về đây chứ về đâu?

Hoàng Mai Sơn Thượng thôn)
Còn biết bao nhiêu câu thơ nói về con người hồn hậu, trong sáng này. Những tưởng như bao nhiêu sĩ phu bất đắc chí giữa “Vạn lý lợi danh khu bạch phát”, vay mượn một chữ Nhàn có vẻ rất trữ tình để thoa dịu những đớn đau thất bại trên đường đời. Nhưng Nguyễn Du khác họ nhiều lắm. Ông thèm được như Đào Tiềm, thương cảm Khuất Nguyên và kính trọng Đỗ Phủ, nhưng tư tưởng của ông thì không như họ. Ông có một niềm tin vững chắc ở bản tâm mình, và đó là niềm vui lớn nhất khi ông mang tất cả chí nam nhi trở về với những phút giây yên tĩnh. Thỉnh thoảng vụt lên trong thi ca những dòng chữ siêu thoát và thiền vị đến không ngờ:
Vô ngôn độc đối đình tiền trúc
Sương tuyết tiêu thời hợp hoá long.
(Lặng lẽ trước sân nhìn khóm trúc
Tan tuyết rồi xem trúc hoá rồng

Ký hữu)
Cao Bá Quát một đời chỉ cúi đầu trước hoa mai (Nhất sinh đê thủ bái mai hoa). Còn Nguyễn Du thì có lần suốt 3 tháng chống chọi với cái rét ghê người để được nhìn thấy hoa mai nở trên đỉnh núi:
Nhương tận khổ hàn tam duyệt nguyệt
Lĩnh đầu lạc đắc khán mai hoa.
(Từ Châu đạo trung)
Tôi đã vô tình liệt kê quá nhiều, hẳn có thể làm bạn khó chịu. Nhưng thiển nghĩ, mấy trăm bài thơ, bài nào cũng hay, câu nào cũng đẹp, tôi chỉ sợ để rơi rớt bao nhiêu châu ngọc khi vẽ lại một nhân cách, một tấm lòng... Đôi vần vụng dại, ngâm lên cùng khói hương tưởng niệm, cung chiêu “Người cha tóc trắng” của văn học Việt Nam.

2. Nhân sinh quan của Nguyễn Du:

Nếu đặt vấn đề Nguyễn Du và Phật giáo, hẳn có người sẽ lên tiếng dị nghị: Suốt mấy trăm bài thơ, có chỗ nào Nguyễn Du nói đến Phật đâu? Rồi người ta sẽ viện dẫn bao nhiêu từ ngữ trong thơ ông để cho rằng ông đã tìm đến Lão Trang, nào là “hạc hĩnh”, “mã đề”, nào là “hoạn hữu thân”, “dưỡng chuyết”, nào là “ngoạ thính tùng phong hưởng bán vân”, “sài môn trú tĩnh sơn vân bế”... Thực ra Nguyễn Du không muốn quên đời, Lão Trang trong ông chỉ là cốt cách của một Nho sĩ thức thời, và thường thì tư tưởng Lão Trang được thi nhân mượn để tỏ bày cái nội tâm trong sáng, thanh khiết giữa cuộc đời ô trược mà thôi. Làm sao một kẻ tự xưng là “Hồng sơn liệp hộ” (phường đi săn ở núi Hồng Lĩnh) lại có thể là đồ đệ Lão Trang? Có chăng ông là một Nho sĩ. Ở thời đại Nho giáo độc tôn, ở thời đại mà cái học chỉ toàn là lý học, Nguyễn Du sẽ nói gì? Viết gì? “Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên, hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên”. Hùng tâm và sinh kế, cả hai cái ấy hẳn đã làm ray rức hồn người lắm lắm! Sau THANH HIÊN THI TẬP và NAM TRUNG TẠP NGÂM, Nguyễn Du viết BẮC HÀNH TẠP LỤC. BẮC HÀNH TẠP LỤC là đỉnh cao nghệ thuật trong văn nghiệp của ông. Trên đường đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du đã đến viếng hết di tích của các danh nhân kim cổ. Ông gửi gắm tâm sự mình qua những vần thơ, xẻ chia và cảm thông cũng những “người ngàn năm trước”. Ông đã đánh giá nền văn hoá Trung Hoa cổ đại, từ Tiên Tần cho đến Đường Tống. Ông viết về Khuất Nguyên đến Đỗ Phủ, từ Tam Hoàng đến Tào Tháo... Tất cả là một sự kính thương nhưng buồn giận, kính nhi viễn chi, rồi khái quát cuộc đời với những nhận định vô cùng bi tráng, vô cùng lạ lẫm:
Đại địa xứ xứ giai Mịch La (5)
Khi đến thăm mộ Kỳ lân, một vật thiêng được người Trung Hoa xem là điềm báo Thánh nhân xuất thế, ông bảo nếu vậy thì thời ấy sao Kỳ lân không lượn chơi đất phương Nam:
Nhược đạo năng vị Thánh nhân xuất
Đương thế hà bất Nam du tường.
(Kỳ lân mộ)
Rõ ràng, Nguyễn Du cũng thao thức với nỗi đau thế sự, cũng xót xa cùng đất nước nhiễu nhương. Nhưng ông tự nghĩ: Sao ta lại đem trong sạch hay tỉnh táo để nhìn đời, để phải như cánh bèo trôi dạt rất đáng thương:
Hà dĩ thanh tỉnh khan thế sự
Phù bình nhiễu nhiễu cánh kham ai.
(Lưu Linh mộ)
Ngôn ngữ là cửa ngõ của tâm hồn, nhưng chưa hẳn là chính tâm hồn ấy. Nói một cách khác, thi ca Nguyễn Du phơi bày một nhận thức sâu sắc về cuộc đời; và ẩn nấp sau những vần thơ mẫn cảm ấy là một chữ “Tâm” vô cùng sâu rộng, một tư tưởng vừa siêu thoát vừa hiện thực, vừa tích cực vừa khoan hoà, thấm đẫm vị Thiền Phật giáo.

Ngôn ngữ thiên tài bao giờ cũng khiến người ta ngộ nhận. Nguyễn Du tự xưng mình là Hồng sơn liệp hộ, nhưng có phường săn nào lại có cái buồn và nỗi đau man mác đến dường ấy. Bi kịch và bi kịch cứ trùm lên bầu không khí thi ca Nguyễn Du, nhưng nỗi niềm riêng vẫn canh cánh bên lòng trang lữ thứ:
Vô cùng kim cổ thương tâm xứ
Nhất phiến hàn thanh tống cổ kim.
Văn thiêng không ở trong lời (Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa), Nguyễn Du không hề nói đến Phật giáo, nhưng thái độ, quan điểm của ông luôn nhuốm đầy nhân sinh quan Phật giáo. Trước hết là nhận thức về Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã. Đâu đâu trong thơ ông cũng toát lên cái nhìn chín chắn, không hư dối về cuộc đời. Đó là sự thật về cái Khổ (Khổ đế), sự thật thứ nhất trong bốn sự thật mà một hành giả tu tập Phật giáo phải ý thức rõ ràng. Nguyễn Du hay nói về cái đầu bạc, ông có vẻ bị ám ảnh bởi sương tuyết thời gian phủ lên mái tóc xanh trai trẻ của mình. Lúc mới 30 tuổi Nguyễn Du đã viết: “Hư danh vị phóng bạch đầu nhân” (Mạn Hứng). Rồi suốt ba tập thơ, chỗ nào cũng thấy ông nói về mái đầu tóc trắng. Thảo nào đã có người gọi ông là “Người cha tóc trắng của thi ca và tư tưởng Việt Nam, ngồi im lặng trên mây núi Hồng, già với gió thu...” (6). Nhìn mình, nhìn người, nhìn đời, chỗ nào Nguyễn Du cũng thấy vô thường chi phối, toàn thể nhân sinh thế thái qua cái đầu bạc:

“Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên”...
“Nại hà đầu dĩ bạch như ngân”...
“Bạch phát thu phong không tự ta”...
“Vạn lý lợi danh khu bạch phát”...
“Nhất lộ giai lai duy bạch phát”...
“Bạch đầu khứ thử tương an quy”...
“Bạch đầu vô lại chuyết tàng thân”...
“Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long”...

Còn rất nhiều những câu có chữ “bạch đầu”, “bạch phát” như thế. Khỏi cần phải luận bàn, ta cũng đủ thấy nhận thức về vô thường trong ông như thế nào. Tôi chợt nhớ một câu thơ của Đỗ Phủ: “Người đầu bạc giữa lớp sóng bạc” (Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân). Đi giữa lớp sóng bạc của cuộc đời, mái đầu xanh cũng bạc trắng, bạc trắng như chính nỗi lòng người cô lữ.

Bước đi trong cuộc đời như thế khác nào bước đi trong đêm tối, Nguyễn Du hướng về hình ảnh những bậc xuất thế, xuất thế giữa lòng thế tục. Bài “Dạ Hành” là bài thơ tôi thích nhất của Nguyễn Du. Ông mô tả hình ảnh vị Sư già ngủ trên mây núi Hồng Lĩnh giữa đêm tối:
Lão nạp an miên Hồng Lĩnh vân
Phù âu tĩnh túc noãn sa tân
Nam minh tàn nguyệt phù thiên lý
Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân
Hắc dạ hà kỳ mê thất hiểu
Bạch đầu vô lại chuyết tàng thân
Bất sầu cửu lộ triêm y duệ
Thả hỷ tu mi bất nhiễm trần.
(Sư già ngủ giữa mây Hồng Lĩnh
Bãi ấm âu nằm lặng giấc say
Biển rộng trăng trôi ngàn dặm thẳm
Đường xưa gió quất một thân gầy
Đêm đen dường mãi quên không sáng
Ẩn vụng xui thêm tóc bạc đầy
Vạt áo dầm sương đâu ngại ướt
Mày râu mừng chẳng bụi trần ray)
(Ngô Linh Ngọc dịch).
Hai câu cuối thật thần tình, thật ý vị. Không ngại sương đêm thấm ướt vạt áo, chỉ mừng là mày râu không dính bụi. Ô hay! Vị Sư già nằm giữa mây núi, mày râu Sư chắc bạc trắng như mây, trinh tuyền lắm lắm, vì có bụi trần hồng nào mà nhuộm đỏ? Chỉ có sương đêm làm ướt áo đôi chút. Lạnh chút thôi, mà thanh thản biết dường nào! Hình ảnh đẹp, ngôn từ cũng cực kỳ đẹp, hẳn cái nhìn kia cũng xuất phát từ một tấm lòng rất đẹp.

Chúng ta còn bắt gặp hình ảnh này trong bài Vọng Quan Âm miếu:...Tăng yên ngủ khi mây ngừng trôi khắp chốn, tiếng vượn kêu khi trời lặn trên những ngọn đồi. Đốt một nén hương để tiêu tuệ nghiệp, quay đầu nhìn lại đã cách muôn lớp núi:
Đình vân xứ xứ tăng miên định
Lạc nhật sơn sơn viên khiếu ai
Nhất chú đàn hương tiêu tuệ nghiệp
Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai
Lạ nhất trong bài này là câu thứ bảy: “Nhất chú đàn hương tiêu tuệ nghiệp”. Sao lại là tiêu tuệ nghiệp? Có phải tác giả muốn nói đến cái nghiệp do trí tuệ gây ra? Tức Sở tri chướng, Thế trí biện thông? Quả là ít ai dám dịch chữ này.

Đi trong cuộc đời, trái tim của “Người tóc bạc” luôn hướng về những mảnh đời bèo dạt mây trôi, về người đẹp gảy đàn vô danh ở thành Thăng Long, về nàng Tiểu Thanh, hay cả nàng Thuý Kiều bạc mệnh. Nói chung, Nguyễn Du thường nói đến những người tầm thường, những điều mà ta đã biết. Nhưng đó lại là cái vĩ đại, vĩ đại nhờ ông vừa đau khổ vừa nói. “Nhất phiến tài tình thiên cổ luỵ” (Phạm Quý Thích), ông đau khổ, nhưng là cái đau khổ thánh thiện. Ông nói về những người đau khổ, nhưng thực ra ông đã khơi mở một chủ nghĩa nhân đạo đặc thù cho cả hồn Việt. Chỉ có tâm lượng của người con đất Việt, thụ bẩm một cách toàn triệt nền tảng Từ bi mới có được những tuyệt tác như thế. Đúng như lời của Mộng Liên Đường chủ nhân đã nói: “... nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy...” (7)

Đôi lúc, ông cũng muốn gán chiếc áo màu lông chim túc sương để đổi lấy một cuộc say, nhưng tóc trên đầu đã bạc trắng thì biết làm thế nào:
Dục điển túc sương mưu nhất tuý
Nại hà đầu dĩ bạch như ngân.
(Quảng Tế ký thắng)
Chính vì không thể đổi lấy một cuộc say, nên Nguyễn Du đã thao thức. Phải có một lối thoát, duy tại con người không biết lấy mà thôi, ông buồn trông áng bụi hồng mờ mịt không bờ bến mà tự trách ngày ngày mình vẫn đi lại trong ấy mà không biết:
Trướng vọng hồng trần diễu vô tế
Bất tri nhật nhật thử trung hành.
(Từ Châu đê thượng vọng)
Cũng với ý ấy, có một câu thơ vô cùng đặc sắc, hệt như lời vịnh của một Thiền sư:
Niên niên thu sắc hồn như hử
Nhân tại tha hương bất tự tri
(Hồn thu vẫn tự bao giờ
Người xa quê cũ chẳng ngờ đó thôi

Giang đầu tản bộ)
3. Kim Cang Bát Nhã - Tư tưởng chủ đạo trong thi ca Nguyễn Du:

Điều đáng ghi nhận là ở thời đại Nguyễn Du, Phật giáo Việt Nam không còn chiếm địa vị độc tôn như thời Lý Trần, thậm chí có thể nói là hết mức suy đồi. Khi nhà Minh sang xâm lược nước ta, tướng Trương Phụ đã đem toàn bộ kinh điển Phật giáo về Kim Lăng hoặc thiêu đốt hết. Nho giáo cùng với chế độ thi cử đã lấn át hết tư tưởng của giới trí thức đương thời, ít người có điều kiện nghiên cứu kỹ Phật giáo. Và, Phật giáo trong lòng nhân sĩ chỉ là một mớ tư tưởng chán đời, yếm thế.

Khi đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Du, tôi lại vô cùng ngạc nhiên trước những câu thơ đầy hào khí:
Nhân liễu thử tâm nhân tự độ
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu.
Hay:
Mãn cảnh giai không hà hữu tướng
Thử tâm thường định bất ly thiền.
Nguyễn Du chưa bao giờ tự xưng mình là Phật tử. Nhưng người học Phật có thể xem ông là “Đạo hữu”. Người cha của thi ca Việt Nam lại là người từng đọc Kinh Kim Cang đến hơn 1000 lần (Ngã độc Kim Cang thiên biến linh), hẳn toàn bộ sự nghiệp thi ca của ông thấm đẫm tư tưởng Phật giáo.

Ta thử đọc một vài bài thơ nói về ý đạo, để xem sự thâm nhập kinh điển Phật giáo của Nguyễn Du sâu thẳm dường nào:
Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh
Tỉnh thuỷ vô ba đào
Bất vị nhân khiên xả
Thử tâm chung bất giao
Túng bị nhân khiên xả
Nhất giao hoàn phục chỉ
Trạm trạm nhất phiến tâm
Minh nguyệt cổ tỉnh thuỷ.
(Trăng sáng soi giếng xưa
Nước giếng không gợn sóng
Không bị người khuấy động
Tâm này chẳng giao động
Nếu bị người khuấy động
Lay động rồi lại dừng
Một chữ Tâm lóng lặng
Như trăng soi giếng xưa

Đạo ý)
Trong bài nói về ý đạo trên, Nguyễn Du đã xác định Tâm chính là Đạo. Nghĩa chữ Tâm ở đây chỉ có trong kinh điển Phật giáo. Tâm thể thì thường hằng vắng lặng, dù sóng gió ba đào có làm mặt nước tâm giao động chút ít, nhưng rồi mặt nước cũng trở về trạng thái nguyên uỷ của mình.

Trong bài Tạp thi, ông viết:
Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự
Tứ thời tâm kính tự như như.
(Hoa rơi lá rụng chỉ là việc trước mắt,
Bốn mùa gương tâm vẫn chẳng có gì thay đổi)
Tâm, Phật, chúng sanh đồng nhất thể. Tất cả các pháp đều lưu xuất từ nhất tâm này. Phật và chúng sanh, mê và ngộ, giải thoát và trói buộc... tất cả đều ở Nhất tâm. Người liễu đạt được Tâm này thì tự mình độ thoát. Tam tạng kinh điển Phật thuyết ở Linh Thứu sơn cũng ở tại tâm người mà thôi:
Nhân liễu thử tâm nhân tự độ
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu
Khi chưa liễu ngộ được tâm này thì vạn tượng sum la đều khởi, phàm thánh chia hai, núi là núi, sông là sông. Khi liễu ngộ được tâm này rồi thì gương Tâm sáng rỡ như ánh trăng - Đại viên cảnh trí - gặp nhân chiếu nhân, gặp vật chiếu vật, không phân biệt, thực tại vẫn là thực tại. Núi không phải là núi nên núi là núi. Chẳng rõ người chưa thực ngộ lý này có thể viết một cách tự nhiên được một câu thơ thế này chăng:
Đạt nhân tâm kính quang như nguyệt
Xử sĩ môn tiền thanh giả sơn.
(Tâm người đạt ngộ ngời gương nguyệt
Trước sân ẩn sĩ núi xanh rờn

(Tạp ngâm 2)
Tất cả các pháp đều không. Không có nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng (KINH KIM CANG). Nguyễn Du viết:
Mãn cảnh giai không hà hữu tướng
Thử tâm thường định bất ly Thiền.
Đại sư vô ý diệc vô tận
Phủ thán thành trung đa biến thiên.
(Đề Nhị Thanh động)
Tâm này thường ở trong Định và chẳng xa rời việc chứng ngộ của Thiền. Các cụ thâm nho ở Hà Nội đã không hiểu nên dịch quá xa nghĩa của nguyên tác: “Lòng khăng khăng chỉ hướng về Thiền” (8). Chẳng hề có “khăng khăng” hay “hướng về”, “thường định” ở đây là “thường ở trong Định” và “bất ly Thiền” tức ngay nơi tâm là Thiền. Có lẽ Nguyễn Du cũng nhiều lần đọc Pháp Bảo Đàn mới có cái khẩu khí của Huệ Năng như thế.

Khi đi sứ sang Trung Quốc, đến “Đài chia kinh” của Thái tử Chiêu Minh nhà Lương, Nguyễn Du cảm tác một bài thơ khá dài, khá lạ so với toàn bộ thơ chữ Hán của ông (hầu hết thơ chữ Hán của ông gồm 8 câu). Ông cười chê việc làm của Chiêu Minh Thái tử, cho rằng việc chữ nghĩa có dính dáng gì đến sự vắng lặng của Tâm đâu mà phân kinh với chiết tự. Trong bài có đoạn viết:
Phật bản thị không bất trước vật
Hà hữu hồ kinh, an dụng phân?
Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa
Thục vi Kim Cang vi Pháp Hoa
Sắc không cảnh giới mang bất ngộ
Si tâm quy Phật Phật sinh ma
Nhất môn phụ tử đa giao tế
Nhất niệm chi trung ma tự chí...

(Tạm dịch: Phật vốn là không, không dính mắc mọi vật, có dính dáng gì đến kinh đâu mà phải chia. Văn thiêng không phải ở ngôn ngữ, cái gì là Kinh Kim Cang, Kinh Pháp Hoa? Giữa “Sắc” và “Không” mờ mịt không nhận ra được. Quy y Phật với cái tâm si mê như thế thì Phật sinh ra ma. Cả nhà cha con đều mù quáng cả, thì chỉ trong một niệm là ma tự tìm đến ngay...)
Đặc biệt là đoạn cuối của bài thơ này:
Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn
Thuyết pháp độ nhân như hằng hà sa số
Nhân kiến thử tâm nhân tự độ
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu
Minh kính diệc phi đài
Bồ - đề bổn vô thụ
Ngã độc Kim Cang thiên biến linh
Kỳ trung áo nghĩa đa bất minh
Cập đáo phân kinh thạch đài hạ
Tài tri vô tự thị chân kinh.

(Tạm dịch: Ta nghe nói Đức Thế Tôn tại núi Linh Thứu, thuyết pháp độ hằng hà sa số người. Người liễu ngộ được tâm thì người tự độ thoát, Linh Sơn chỉ ở tại tâm người mà thôi. Không có đài gương sáng, nào có cây Bồ-đề. Ta đọc hơn ngàn biến Kinh Kim Cang, những ý nghĩa sâu kín trong đó phần nhiều ta không rõ. Đến hôm nay tới đài chia kinh này mới biết rằng Vô tự chính là Chân kinh).
Một bài thơ, cũng có thể xem là một ngữ lục Thiền. Vô hình trung, bài thơ hé mở thế giới tâm chứng của Nguyễn Du. Hay nói một cách khác - Kim Cang Bát Nhã đã là tư tưởng dẫn đạo trong đời sống và thi ca của Tố Như Tử.

Tôi đã trích dẫn khá nhiều, nhưng hoàn toàn chưa nói đến bút pháp đặc biệt trong thơ chữ Hán Nguyễn Du. Truyện Kiều đã làm cho Nguyễn Du được xem là 1 trong 5 hoặc 3 thi hào vĩ đại nhất của nhân loại, thì đối với thơ chữ Hán, quả là một kho tàng để chúng ta khai thác và học hỏi. Mùa Xuân nằm đọc thơ của người xưa mà thấy lòng rưng rưng muốn khóc. Ước gì các bậc thạc học thâm nho để tâm khai triển, phân tích và diễn giải thật nhiều, để hàng hậu tấn chúng tôi được nhuần ân học hỏi.


Nhất Thanh

(1) Lời nói đầu Nguyễn Du toàn tập, quyển 1, trang 7 - NXB Văn Học.
(2) Chữ của Bùi Giáng dùng để dịch câu này.
(3) Người viết không có ý dịch thơ, vì muốn diễn Nôm cho dễ hiểu, song cũng cố gắng dịch những câu nào thấy tiện. Nếu có bản dịch nào hay được trích dẫn vào đây thì sẽ đề tên dịch giả, còn lại là của người viết tạm dịch.
(4) Khi Đào Tiềm từ quan về vườn thường nằm khểnh ở cửa sổ phía Bắc hưởng thư nhàn, người đời gọi ông là “Bắc song xử xỉ”.
(5) Mịch La là tên dòng sông nơi Khuất Nguyên trầm mình.
(6) Im lặng và hố thẳm, Phạm Công Thiện, An Tiêm, 1967.
(7) Trích lại từ Vài nhận xét về Truyện Kiều... của Bùi Giáng - NXB Hội Nhà Văn, 1998.
(8) Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Hà Nội, 1978. Đoạn này lấy ý trong Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc, Phạm Công Thiện - Viện Triết lý Việt Nam và Triết học thế giới, California, Hoa Kỳ, 1996.
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
45.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Sự vận động trong tư tưởng nghệ thuật Nguyễn Du qua những bài thơ tự thuật

Nguyễn Du được xếp vào hàng những cây bút lớn nhất của văn học Việt Nam trung đại. Tác phẩm của ông được đưa vào giảng dạy với thời lượng đáng kể ở cả Trung học cơ sở và Trung học phổ thông. Cùng với kiệt tác Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du còn để lại ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâmBắc hành tạp lục. Các thi tập này không chỉ góp phần làm nên diện mạo thơ ca trung đại mà còn là nguồn tư liệu giúp chúng ta tìm hiểu thế giới nội tâm của chính tác giả. Vì vậy, tìm hiểu sáng tác chữ Hán của Nguyễn Du có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứu và giảng dạy tác gia này.

Có thể nói, Nguyễn Du sáng tác thơ chữ Hán trước hết là để gửi gắm nỗi niềm riêng. Cho nên, số lượng bài thơ, câu thơ có tính chất tự thuật trong các thi tập của Nguyễn Du rất lớn. Chúng vượt xa một số tác giả cùng thời: 107 bài (chiếm đến 43%) - trong khi Đoàn Nguyễn Tuấn, Ngô Nhân Tĩnh, Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức, Ngô Thì Nhậm... chỉ có từ 7 đến 25 bài (trên dưới 10% tác phẩm). Bộc lộ tâm trạng đã trở thành một yếu tố đặc trưng cho thơ chữ Hán Nguyễn Du. Những vần thơ tự thuật không chỉ phản ánh cách Nguyễn Du hình dung về bản thân mình mà còn cho thấy quá trình vận động trong tư tưởng nghệ thuật của một nghệ sĩ lớn. Quá trình này tương ứng với những biến động trên đường đời của tác giả. Đây cũng là một qui luật của thơ ca thời trung đại. Chỉ có điều với Nguyễn Du, sự biến đổi ấy không phụ thuộc vào những thăng trầm trên đường hoạn lộ mà chủ yếu bắt nguồn từ những trải nghiệm nhân sinh.

1. Thanh Hiên thi tập và những bi kịch cá nhân

Đây là tập thơ được sáng tác trong những năm tháng bi thương nhất của cuộc đời tác giả: Nơi non Hồng không còn nhà, anh em tan tác/ Cả hùng tâm lẫn sinh kế đều mờ mịt/ Đường dài, trời chiều, bạn mới ít... Nhu cầu tự bộc lộ mãnh liệt nên số lượng thơ tự thuật xuất hiện rất nhiều: 59 lần (76%). Thanh Hiên thi tập chủ yếu mang tính hướng nội và chất chứa buồn thương, u uất. Tâm trạng cô đơn, bế tắc được phản chiếu rất rõ nét qua hệ thống hình ảnh mà chúng tôi đã thống kê: 77 lần tả trạng thái cô độc, lẻ loi thì riêng tập thơ này đã chiếm 37 lần (48%); 45 lần tả mái đầu bạc thì ở đây là 23 lần (51%); 24 lần xuất hiện hình ảnh cùng đồ, tắc đồ thì ở đây là 15 lần (63%); 44 lần nói nỗi đau sống thừa thì Thanh Hiên thi tập đã chiếm đến 29 lần (66%). Hiện tượng ấy chứng tỏ cơn dâu bể của thời đại đã làm đổ vỡ mọi ước mơ, hi vọng, tước đoạt tất cả những điểm tựa tinh thần... khiến Nguyễn Du không thể không bàng hoàng, đau đớn. Vì những biến cố lịch sử dữ dội, nhà thơ luôn phải đối diện với những bi kịch cá nhân: gia đình tan tác, anh em chia lìa, tiền đồ bản thân mù mịt... Những mất mát, đổ vỡ liên tiếp, dồn dập ấy dội vào cuộc đời ông, làm nảy sinh trong tâm hồn bao nỗi buồn thương. Hiện lên trong các bài thơ tự thuật là hình ảnh một con người cô độc, mệt mỏi, u sầu. Nhà thơ như không dám tin tưởng vào điều gì ở phía trước, không tìm được cho mình chút hy vọng và niềm vui sống... Nhưng qua nỗi đau riêng của một tâm hồn lớn, ta vẫn thấy được nỗi đau chung của con người trong thời đại Nguyễn Du. Trái tim người nghệ sĩ ấy không chỉ tủi buồn cho thân phận của mình mà còn đau đớn trước những đổ vỡ, tan hoang của quê hương, đất nước:

Thập tải trần ai ám ngọc trừ,
Bách niên thành phủ bán hoang khư.
Yêu ma trùng điểu cao phi tận,
Trỉ uế càn khôn huyết chiến dư.
Tang tử binh tiền thiên lí lệ...
(Bát muộn)

(Bụi trần mười năm che tối thềm ngọc,
Thành phủ trăm năm một nửa thành gò hoang.
Những côn trùng, chim chóc nhỏ bé đều bay đi hết,
Đất trời nhơ nhớp sau cuộc huyết chiến.
Giọt lệ nơi nghìn dặm khóc cho cuộc binh đao ở quê hương) (1).
Nguyễn Du chán chường, thất vọng đâu chỉ vì sự dở dang của cuộc đời ông mà còn vì bao ngang trái, bất công của một xã hội đang thời hỗn loạn: “Bốn bể gió bụi, lệ rơi vì tình nhà nợ nước” (My trung mạn hứng), “Đêm tối sói hổ kiêu ngạo/ Trăng sáng chim hồng chim nhạn tản tác” (Biệt Nguyễn đại lang)... Ông bàng hoàng, tiếc nuối không chỉ vì sự đổ vỡ của gia đình, của dòng họ mà còn vì cảnh thương hải tang điền của cuộc đời:
Nhất tự y thường vô mịch xứ,
Lưỡng đề yên thảo bất thăng bi.
Bách niên đa thiểu thương tâm sự,
Cận nhật Trường An đại dĩ phi.
(Giang đình hữu cảm)

(Từ khi áo xiêm không còn tìm đâu thấy,
Khói trên ngọn cỏ hai bờ sông khiến lòng khôn xiết bi thương.
Trăm năm của cuộc đời biết bao việc thương tâm,
Ngày gần đây Tràng An đã khác xưa nhiều)
Như vậy, bao trùm Thanh Hiên thi tập là nỗi đau buồn của một con người bơ vơ, lạc lõng giữa dòng đời dâu bể. Tâm hồn Nguyễn Du chìm trong những bàng hoàng, day dứt, sầu muộn mênh mông. Song chính niềm thương thân ấy đã khơi nguồn cho sự cảm nhận sâu sắc của nhà thơ về những mất mát, khổ đau của con người trong thời đại mình.

2. Nam trung tạp ngâm và nỗi thất vọng về chốn quan trường

So với Thanh Hiên thi tập, thơ tự thuật ở Nam trung tạp ngâm tuy có giảm song vẫn chiếm số lượng khá lớn: 26 lần trên tổng số 40 bài thơ, chiếm 65% (ở Thanh Hiên thi tập là 59 bài chiếm 76%). Giờ đây, nhà thơ không còn chìm trong bế tắc, tuyệt vọng như trước. Song tác giả cũng chưa từng có được sự thanh thản khi bước chân vào chốn quan trường. Có đến 20 lần ông bày tỏ ước nguyện qui dư, qui cố hương (trên 45 lần của cả ba tập thơ chiếm 44%). Điều đó chứng tỏ Nguyễn Du luôn cảm thấy day dứt, ân hận, luôn bị giằng xé trong nhiều mâu thuẫn nội tâm. Dường như ông thấy mình đã chọn lầm đường- con đường mà càng dấn thân vào, con người càng mất dần đi thiên tính tốt đẹp: “Chiếc áo xanh đi khắp đường bụi hồng/ Con vượn, con hạc làm sao nhận ra được láng giềng cũ?” (Đồng Lư lộ thượng dao kiến Sài Sơn). Điểm nhìn nghệ thuật của Nam trung tạp ngâm vẫn mang tính hướng nội song cảm nhận của nhà thơ về bản thân đã có nhiều đổi khác. Ông không còn phải khóc thương cho sự cùng đường, bế tắc của một con người lỡ thời, thất thế nhưng lại phải đau xót, tủi thẹn vì nguy cơ đánh mất mình. Thơ tự thuật của Nguyễn Du thời kỳ này chất chứa những mệt mỏi, chán chường, thất vọng. Ông thất vọng về mình - vì đã không giữ vẹn được tấm tình thuỷ chung với non xanh, với tùng cúc, hươu nai. Ông thất vọng về chốn quan trường - vì những tưởng khi nhập thế sẽ làm nên sự nghiệp, sẽ giúp ích cho đời nhưng cuối cùng cũng chỉ là kẻ bị trói buộc bởi năm đấu gạo. Ông giống như một người không muốn trôi theo dòng chảy kia nhưng chẳng thể nào thoát khỏi được vòng xoáy dữ dội của nó nên đành chấp nhận. Điều đau xót nhất là, khi bước chân vào nẻo thanh vân cũng là khi hoài bão, ước mơ dần nguội tắt.

Nhưng trong chính khoảng thời gian này, tác giả Nam trung tạp ngâm bắt đầu có những nhận thức sâu sắc về bản chất xã hội đương thời. Đó không phải là nơi cho những con người có hùng tâm, tráng chí cất cánh bay cao. Người nghệ sĩ trong ông khi nhìn lại những biến động của thời đại đã không thể không đau đớn cho cuộc đời trong cảnh “Hán cướp Tần tranh”: Tạc giả đại khuy sinh vật đức (Trước kia đã thương tổn rất nhiều đến cái đức hiếu sinh của tạo hoá - Pháo đài), Tam quân cựu bích phi hoàng diệp/ Bách chiến tàn hài ngoạ lục vu (Trên luỹ cũ ba quân lá vàng bay lả tả / Xương tàn trăm trận đánh vẫn nằm trong bãi cỏ xanh - Độ Linh giang), Khoáng dã biến mai vô chủ cốt (Trên đồng ruộng khắp nơi vùi thân vô chủ - Ngẫu đắc), Phong xuy cổ trủng phù vinh tận/ Nhật lạc bình sa cốt chiến cao (Gió thổi vào nấm mồ xưa, vinh hoa hư ảo tan hết/ Mặt trời tà trên bãi cát, đống xương chiến trận đã cao - Ngẫu thư công quán bích)... Tâm sự của Nguyễn Du trong Nam trung tạp ngâm đã không còn giới hạn trong những bất hạnh, đổ vỡ riêng tư mà phản chiếu cách nhìn nhận, đánh giá về bản chất của một xã hội trong chiều đi xuống.

3. Bắc hành tạp lục và niềm trăn trở trước số phận con người

Hệ thống thơ tự thuật ở Bắc hành tạp lục cho ta thấy những biến đổi lớn trong tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Du. Số lần tự thuật đã giảm đi rất nhiều so với hai tập thơ đầu: 132 bài thơ mà chỉ có 22 câu, đoạn tự thuật xen giữa các đề tài vịnh sử, vịnh cảnh (chiếm 16,7%). Đặc biệt, ở đây không có bài nào nhà thơ chỉ viết riêng về mình. Các hình ảnh thơ phản chiếu bi kịch trong tâm hồn ông cũng giảm đi đáng kể so với hai tập thơ đầu: bế tắc, tuyệt vọng chỉ còn 3 lần, đầu bạc 14 lần, mong về 11 lần. Còn lại, hầu hết là các bài thơ viết về con người và cuộc sống bên ngoài - tái hiện và bình luận vạn sự cổ kim. Tâm hồn Nguyễn Du giờ đây đã rộng mở để “đón nhận những vang động của đời”. Hình tượng “tự hoạ” trong Bắc hành tạp lục gắn liền với những biến đổi sâu sắc trong cái nhìn của nhà thơ khi đối diện với bản thân, với cuộc đời. Hiện lên dưới ngòi bút Nguyễn Du vẫn là người lữ khách mang nặng mối sầu tha hương song không nhuốm tủi hờn, đau đớn như ở Thanh Hiên thi tập mà nghiêng về nỗi nhớ nhung da diết... Nhưng hành trình ấy còn mang đến cho Nguyễn Du một cơ hội quí giá để mở rộng tầm nhìn. Bao nhiêu kiến thức thu nhận từ sách vở và những số phận con người từng ám ảnh tâm hồn nhà thơ- giờ đây đang hiện lên ngay trước mắt: “Dấu cũ từ nghìn năm trước xa xôi/ Điều sách chép rành rành nay hiện rõ trước mắt” (Thương Ngô tức sự).

Cũng trên con đường đi sứ, Nguyễn Du đã phát hiện nhiều điều mới mẻ về thiên nhiên, con người và cuộc sống trên đất nước Trung Hoa. Có lúc nhà thơ không khỏi bàng hoàng trước cảnh sóng thác gầm thét dữ dội: “Mọi người đều nói đường trên đất Trung Hoa bằng phẳng/ Hoá ra đường Trung Hoa lại thế này/ Sâu hiểm quanh co giống lòng người” (Ninh Minh giang chu hành). Có lúc, ông thảng thốt trước những điều trông thấy hoàn toàn tương phản với những gì mình hằng nghe nói: “Thường chỉ nghe ở Trung Nguyên ai cũng no ấm/ Ngờ đâu Trung Nguyên cũng có người như thế này” (Thái Bình mại ca giả), “Ai cũng bảo nước Trung Hoa trọng tiết nghĩa/ Sao ở đây hương khói lạnh lẽo thế này?” (Quế Lâm Cù các bộ)... Đặc biệt, Nguyễn Du đã tìm thấy trên những nẻo đường đầy cố cảnh, cựu tích kia lời giải đáp cho nhiều câu hỏi lớn về cuộc đời, về thân phận con người từng khiến ông day dứt... Ông không ngợp mắt trước phồn hoa, không đắm mình vào cảnh đào hồng, liễu lục nơi xứ lạ mà thường kiếm tìm dấu cũ, bia xưa... của những con người có phẩm cách phi thường, có số phận bất hạnh. Dường như với Nguyễn Du, Trung Hoa trước hết là đất nước của những Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Dự Nhượng, Nhạc Phi... Cho nên, cái nhìn của người nghệ sĩ trong ông đã xuyên qua lớp vỏ của thực tại kia để thấu suốt bản chất của hiện thực - một hiện thực được phản chiếu rõ nét qua từng dấu tích đau thương, oan trái từ quá khứ. Để rồi từ đó, nhà thơ cất lên tiếng nói cảm thương, đau đớn, phẫn uất cho thân phận con người trên suốt dòng thời gian kim cổ. Cái tôi trữ tình Nguyễn Du luôn xuất hiện với trái tim mang nhiều cung bậc của niềm thương cảm: liên, sầu, bi, cảm, ai, thán, trướng, bồi hồi, thương tâm, kham ai... Vì vậy, khả năng khái quát hiện thực của Bắc hành tạp lục là rất to lớn - vượt xa tất cả các tập thơ đi sứ thời trung đại. Đồng thời, tập thơ này còn thể hiện cảm hứng nhân đạo độc đáo, cao cả của tác giả Đoạn trường tân thanh. Nguyễn Du đã đi từ cõi lòng ngổn ngang những thất vọng, khổ đau của riêng mình để đến với bao nhiêu khắc khoải của nhân sinh và cõi người. Trong đó, cung bậc buồn thương, đau đớn nhất chính là nỗi tiếc hận muôn đời trước số phận của những kiếp tài hoa, trung nghĩa.

Có thể nói, các bài thơ tự thuật đã lưu giữ lại cho chúng ta diện mạo tâm hồn của chính Nguyễn Du. Ông đã “tự hoạ” chân dung như một con người lẻ loi, nếm trải nhiều cay đắng, thất vọng song cũng thật cứng cỏi, kiêu hãnh khi gìn giữ sự trong sạch, thanh cao của lòng mình. Và giữa bao nhiêu ngổn ngang, bế tắc vẫn thấy ngời lên ánh sáng của một trái tim chưa bao giờ nhầm lẫn trong yêu thương, đau đớn, phẫn nộ... Hình tượng “tự hoạ” của Nguyễn Du không chỉ thể hiện thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn mà còn có khả năng phản ánh và khái quát hiện thực sâu sắc. Bởi vì, ông đã không hề tách rời cuộc đời mình khỏi số phận của một lớp người, một thời đại. Trái lại, mọi đau buồn, phẫn uất mà Nguyễn Du bộc lộ đều gắn liền với những nỗi đau thương bao trùm lên thân phận con người lúc bấy giờ. Chúng bắt nguồn từ bao nhiêu biến cố của lịch sử. Trong những giọt lệ âm thầm thấm trên trang thơ chữ Hán có nước mắt Nguyễn Du khóc cho Tố Như, có nước mắt Tố Như khóc cho con người, cho cuộc đời trong cơn hưng phế: Trải trăm năm đã bao phen nương dâu biến thành ruộng muối, Đất trời nhơ nhớp sau cuộc huyết chiến, Những ngôi nhà lớn nghìn xưa nay thành đường cái quan/ Một toà thành mới xoá đi cung điện cũ... Trong “điệu thanh thương” bao trùm các thi tập của Nguyễn Du có dư âm của tiếng nói người trồng dâu, trồng gai, tiếng khóc nơi đồng nội, có nỗi đau Tiếng đàn sáo nhất loạt thay đổi chen vào những âm điệu mới... Bằng cách cảm nhận và thể hiện chân thành, sâu sắc những nỗi khổ đau, day dứt của mình, người nghệ sĩ ấy đã trở thành “khí quan của xã hội và đại biểu của thời đại, của nhân loại” (Biêlinxki). Đồng thời, hình tượng tự hoạ trong thơ chữ Hán Nguyễn Du còn là bằng chứng về sự xuất hiện của con người cá nhân trong văn học thời trung đại. Nguyễn Du đã góp phần không nhỏ trong việc làm nên thành tựu của một giai đoạn rực rỡ nhất trong lịch sử văn học dân tộc- bằng chính cái tôi “tự ý thức về nỗi đau khổ của mình, cái tôi đòi quyền sống cho mình...”(2).


NCS. Nguyễn Thị Nương - Đại học Sư phạm Hà Nội

(1) Xin xem: Nguyễn Du toàn tập, tập I (Mai Quốc Liên chủ biên), Nxb Văn học, H, 1996. Các trích dẫn thơ trong bài đều theo sách này.
(2) Nguyễn Đình Chú, “Vấn đề ngã và phi ngã trong văn học Việt Nam trung cận đại”, Tạp chí Văn học, số 5-1999, tr.31.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
24.50
Chia sẻ trên Facebook