25.00
Thể thơ: Lục bát
Thời kỳ: Nguyễn
1 người thích
Từ khoá: thơ sách giáo khoa (670) Văn học 10 [1990-2006] (49)

Đăng bởi Vanachi vào 29/06/2005 11:14, đã sửa 6 lần, lần cuối bởi Admin vào 27/10/2024 16:30

Bài thơ có 5 dị bản, hãy chọn bản muốn xem:

1 Bản quốc ngữ do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu đính

2 Bản Liễu Văn đường (1866), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm (thiếu câu 1537-1584)

3 Bản Liễu Văn đường (1871), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm

4 Bản Lâm Noạ Phu (1870), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm

5 Bản Kiều Oánh Mậu (1902), do Nguyễn Thế và Phan Anh Dũng phiên âm

Bao nỗi yêu thương, chia ly sao nỡ?
Tấm lòng ghen tức, bưng kín ai hay?


Mảng vui rượu sớm, cờtrà trưa,
Đào đà phai thắm, sen vừa nảy xanh.
1475. Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh,
E tình, nàng mới bày tình riêng chung:
“Phận bồ vừatừ vẹn chữ tòng,
Đổi thay nhạn yến đã hòngcùng đầy niên.
Tin nhà ngày một vắng tin,
1480. Mặn tình cát luỹ, nhạt tình tao khang.
Nghĩ ra thật cũng nên dường,
Tăm hơi, ai kẻdễ giữ giàng cho ta?
Trộm nghe kẻ lớncả trong nhà,
Ở vàoVào trongỞ trong khuôn phép, nói ra mối giường.
1485. E thay những dạ phi thường,
Dễ dò rốn bể, khôn lường đáy sông!
Mà ta suốtchót một năm ròng,
Thế nào cũng chẳng giấu xong được nào.
Bấy chầy nhưchưa tỏ tiêuâm hao,
1490. Hoặc là trong có làm sao chăng là?
Xin chàng liệu kípkíp liệu lại nhà,
Trước người đẹp ý, sau ta biết tình.
Đêm ngàyVí bằng giữ mực giấu quanh,
Rày lần, mai lữa, như hình chưa thông!”

1495. Nghe lời khuyên nhủ thong dong,
Đành lòng Sinhchàng mới quyết lòng hồi trang.
RạngSáng ra gửi đến xuân đườngđài,
Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia.
Tiễn đưa một chén quan hà,
1500. Xuân đình thoắt đã dạodọn ra cao đình.
Sông TầnTần Hoài một dải xanhtrong xanh,
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan.
Cầm tay dài ngắn thởthở ngắn than,
Chia phôi ngừng chén, hợp tan nghẹn lời.
1505. Nàng rằng: “Non nước xa khơi,
Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.
Dễ loà yếm thắm, trônmà ép xẩm luồn kim,
Làm chi bưngcho mắt bắt chim khó lòng!
Đôi ta chút nghĩa đèo bòng,
1510. Đến nhà, trước liệu nói sòngcùng cho minh.
Dẫu khi sóng gió bất tìnhbình,
LớnCả ra uy lớncả, tôi đành phận tôi.
Hơn điều giấu ngược, giấu xuôi,
Lại mang những việctiếng tày trời đến sau.
1515. Thương nhau xin nhớ lời nhau,
Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy!
Chén đưa nhớ bữa hôm nay,
Chén mừng xin đợi ngàybữađêm này năm sau.”
Người lên ngựa, kẻ chia bào,
1520. Rừng phong, thu đã nhuốm màu quan san.
Dặm hồngvương bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
1525. Vầng trăng ai xẻ làm đôi?
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trườngdài.

Kể chi những nỗisự dọc đường,
Buồng trong, này nỗi chủ trương ở nhà.
Vốn dòng họ Hoạn danh gia,
1530. Con quan Lại bộ, tên là Hoạn Thư.
Duyên Đằng thuận nẻosớm thuận gió đưa,
Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.
Ở ăn, thì nết cũng hay,
Nói điều ràngtróidàm buộc, thì tay cũng già.
1535. Từ nghe vườn mới thêm hoa,
Miệng người đã lắm, tin nhà thìcòn không.
[...]
Lửa tâmlòng càng dậplấp càng nồng,
TráchGiận người đen bạc ra lòng trăng hoa:
“Ví bằng thú thật cùng ta,
1540. CũngCùng dung kẻ dưới mới là lượngbựcngười trên.
Dại chi chẳng giữ lấy nền,
Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình?
Lại còn bưng bít giấu quanh,
Làm chi những thói trẻ ranh nực cười!
1545. TínhNhững rằng cách mặt, khuất lời,
Giấu ta, ta cũng liệu bài giấu cho.
Lo gì việc ấy mà lo,
Kiến trong miệng chén lại bò đi đâu?
Làm cho nhìn chẳng được nhau,
1550. Làm cho đầy đoạ cất đầu chẳng lên!
Làm cho trông thấy nhãn tiền,
Cho người thămtham ván, bán thuyền biết tay!”
Nỗi lòng kínlòng nhìnnhẫn kín chẳng ai hay,
Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.
1555. Tuần sau bỗng thấy hai người,
Mách tin, ýrắpấy cũng liệutoan bài tâng công.
Tiểu thư nổi giận đùng đùng:
“Gớm tay thêu dệt, ra lòng trêu ngươi!
Chồng tao nào phải như ai,
1560. Điều này hẳn miệng những người thị phi!”
Vội vàngChưng lừng xuống lệnhlàm dữ ra uy,
Đứa thìThằng đồng vả miệng, đứa thìcòn tì bẻ răng.
Trong ngoài kín mít như bưng,
Nào ai còn dám nói năng một lời!
1565. Buồng đàothêu khuya sớm thảnh thơi,
Ra vào một mực nói cười như không.

Đêm ngày lòng những giậndặnnhủ lòng,
Sinh đà về đến lầu hồng, xuốngdưới yên.
Lời tan hợp, nỗi hàn huyên,
1570. Chữ tình càng mặn, chữ duyên càng nồng.
Tẩy trần vui chén thong dong,
Nỗi lòng, ai ở trong lòng mà ra?
Chàng về xem ý tứ nhà,
Sự mìnhlòng cũng rắp lân la giãi bày.
1575. Mấy phen cười nói tỉnhtỉnh nói say,
Tóc tơ bấtchẳng động mảy may sự tình.
Nghĩ: “Đà bưng kín miệng bình,
Nào ai có khảo mà mình lạiđã xưng?”
Những là e ấp dùng dằng,
1580. Rút dây sợ nữa động rừng, lại thôi.
Có khi vui miệngchuyện mua cười,
Tiểu thư lại giở những lờiđiều đâu đâu.
Rằng: “Trong ngọc đá vàng thau,
Mười phần ta đã tin nhau cả mười.

1585. KhenGớm cho những miệng dông dàitiện,
Bướm ong, lại đặt những lời nọ kia.
Thiếp dầu vụng,bụng chẳng hay suy,
Đã dơ bụng nghĩ, lại bia miệng cười!”
Thấy lời thủng thỉnh như chơi,
1590. Thuận lời, chàng cũng nói xuôi đỡ đòn.
Những là cười phấn, cợt son,
Đèn khuya chungchong bóng, trăng tròn sánh vai.


Đoạn này ứng với Hồi 13 trong nguyên truyện: “Biệt tâm khổ hà nhẫn phân ly; Thố ý thâm toàn bất thuyết phá” 別心苦何忍分離;醋意深全不說破 (Biệt ly đau khổ, sao nỡ chia phôi; Ghen tuông sâu cay, không hề nói hộ).

Trích đoạn của phần này (từ câu “Người lên ngựa, kẻ chia bào” đến câu “Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”) được sử dụng trong chương trình SGK Văn học 10 giai đoạn 1990-2006.

[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]