Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Du » Truyện Kiều
Bài thơ có 5 dị bản, hãy chọn bản muốn xem:
1 Bản quốc ngữ do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu đính
2 Bản Liễu Văn đường (1866), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm (thiếu câu từ 1913)
3 Bản Liễu Văn đường (1871), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm
4 Bản Lâm Noạ Phu (1870), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm
5 Bản Kiều Oánh Mậu (1902), do Nguyễn Thế và Phan Anh Dũng phiên âm
Nhờ cha đền trả nghĩa chàng, hở môi nhưng thẹn;
Nghĩ phận càng căm nỗi khách, chữ tiết bỏ đi!
Xiết bao kể nỗi thảm sầu!
Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi.
Kiệu hoa đâu đã đến ngoài,
780. Quản huyền đâu đã giục người sinh ly.
Đau lòng kẻ ở, người đi,
Lệ rơi thấm áo , tơ chia rũ tằm.
Trời hôm, mây kéo tối rầm,
Dàu dàu ngọn cỏ, đầm đầm cành sương.
785. Rước nàng về đến trú phường,
Bốn bề xuân toả, một nàng ở trong.
Ngập ngừng thẹn lục, e hồng,
Nghĩ lòng, lại xót xa lòng đòi phen.
“Phẩm tiên rơi đến tay hèn,
790. Hoài công nắng giữ, mưa gìn với ai!
Biết thân đến bước lạc loài,
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung!
Vì ai ngăn đón gió đông,
Thiệt lòng khi ở, đau lòng khi đi.
795. Trùng phùng dầu hoạ có khi,
Thân này thôi có còn gì mà mong!
Đã sinh ra số long đong,
Còn mang lấy kiếp má hồng được sao?”
Trên yên sẵn có con dao,
800. Giấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn:
Phòng khi nước đã đến chân,
Dao này thì liệu với thân sau này.
Đêm thu một khắc một chầy,
Bâng khuâng như tỉnh, như say một mình.
805. Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh,
Vẫn là một đứa phong tình đã quen.
Quá chơi lại gặp hồi đen,
Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa.
Lầu xanh có mụ Tú Bà,
810. Làng chơi đã trở về già hết duyên.
Tình cờ chẳng hẹn mà nên,
Mạt cưa, mướp đắng, đôi bên một phường.
Chung lưng mở một ngôi hàng,
Quanh năm buôn phấn, bán hương đã lề.
815. Dạo tìm khắp chợ thì quê,
Giả danh hầu hạ, dạy nghề ăn chơi.
Rủi may, âu cũng sự trời,
Đoạn trường lại chọn mặt người vô duyên.
Xót nàng chút phận thuyền quyên,
820. Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn.
Mẹo lừa đã mắc vào khuôn,
Sính nghi rẻ giá, nghinh hôn sẵn ngày.
Mừng thầm: “Cờ đã đến tay,
Càng nhìn vẻ ngọc, càng say khúc vàng.
825. Đã nên quốc sắc, thiên hương,
Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa!
Về đây nước trước bẻ hoa,
Vương tôn, quý khách, ắt là đua nhau.
Hẳn ba trăm lạng kém đâu,
830. Cũng đà vừa vốn, còn sau thì lời.
Miếng ngon kề đến tận nơi,
Vốn nhà cũng tiếc, của trời cũng tham.
Đào tiên đã bén tay phàm,
Thì vin cành quít cho cam sự đời.
835. Dưới trần mấy mặt làng chơi,
Chơi hoa, đã dễ mấy người biết hoa!
Nước vỏ lựu, máu mào gà,
Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên.
Mập mờ đánh lận con đen,
840. Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền, mất chi?
Mụ già hoặc có điều gì,
Liều công mất một buổi quỳ mà thôi.
Vả đây đường sá xa xôi,
Mà ta bất động, nữa người sinh nghi.”
845. Tiếc thay một đoá trà mi,
Con ong đã mở đường đi, lối về.
Một cơn mưa gió nặng nề,
Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương.
Đêm xuân một giấc mơ màng,
850. Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ.
Giọt riêng tầm tã tuôn mưa,
Phần căm nỗi khách, phần nhơ nỗi mình:
“Tuồng chi là giống hôi tanh,
Thân nghìn vàng để ô danh má hồng!
855. Thôi còn chi nữa mà mong,
Đời người thôi thế là xong một đời!”
Giận duyên, tủi phận, bời bời,
Cầm dao, nàng đã toan bài quyên sinh.
Nghĩ đi nghĩ lại một mình:
860. “Một mình thì chớ, hai tình thì sao?
Sau dầu sinh sự thế nào,
Truy nguyên, chẳng kẻo luỵ vào song thân.
Nỗi mình âu cũng giãn dần,
Kíp chầy thôi cũng một lần mà thôi!”
865. Những là đo đắn ngược xuôi,
Tiếng gà nghe đã gáy sôi mái tường.
Lầu mai vừa rúc còi sương,
Mã Sinh giục giã vội vàng ra đi.
Đoạn trường thay, lúc phân kỳ,
870. Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh.
Bề ngoài mười dặm trường đình,
Vương ông mở tiệc tiễn hành đưa theo.
Ngoài thì chủ khách dập dìu,
Một nhà huyên với một Kiều ở trong.
875. Nhìn càng lã chã giọt hồng,
Rỉ tai, nàng mới giãi lòng trước sau :
“Hổ sinh ra phận thơ đào,
Công cha, nghĩa mẹ kiếp nào trả xong?
Lỡ làng nước đục, bụi trong,
880. Trăm năm để một tấm lòng từ đây.
Xem gương trong bấy nhiêu ngày,
Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già:
Khi về , bỏ vắng trong nhà,
Khi vào đôi đoá, khi ra vội vàng.
885. Khi ăn, khi nói lỡ làng,
Khi thầy, khi tớ, xem thường, xem khinh.
Khác màu kẻ quý, người thanh,
Ngắm ra cho kỹ, như hình con buôn.
Thôi con, còn nói chi con,
890. Sống nhờ đất khách, thác chôn quê người!”
Vương bà nghe bấy nhiêu lời,
Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên.
Vài tuần chưa cạn chén khuyên,
Mái ngoài, nghỉ đã giục liền ruổi xe .
895. Xót con lòng nặng chề chề,
Trước yên ông đã nằn nì thấp cao:
“Chút thân liễu yếu , thơ đào,
Dớp nhà đến đỗi giấn vào tôi ngươi.
Từ đây góc bể bên trời,
900. Nắng mưa thui thủi, quê người một thân.
Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân,
Tuyết sương che chở cho thân cát đằng.”
Cạn lời khách mới thưa rằng:
“Buộc chân, thôi cũng xích thằng nhiệm trao.
905. Mai sau dầu đến thế nào,
Kìa gương nhật nguyệt, nọ dao quỷ thần!”
Đùng đùng gió giục, mây vần ,
Một xe trong cõi hồng trần như bay.
Trông vời, gạt lệ, phân tay,
910. Góc trời thăm thẳm, ngày ngày đăm đăm.
Nàng thì dặm khách xa xăm,
Bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây.
Vi lô san sát hơi may,
Một trời thu để riêng ai một người.
915. Dặm khuya ngất tạnh mù khơi,
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông.
Rừng thu từng biếc chen hồng,
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn.