Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Du » Truyện Kiều
Bài thơ có 5 dị bản, hãy chọn bản muốn xem:
1 Bản quốc ngữ do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu đính
2 Bản Liễu Văn đường (1866), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm
3 Bản Liễu Văn đường (1871), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm
4 Bản Lâm Noạ Phu (1870), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm
5 Bản Kiều Oánh Mậu (1902), do Nguyễn Thế và Phan Anh Dũng phiên âm
Thân thiếp đành liều, cho trọn đạo hiếu;
Duyên em mong cậy, để trọn chữ tình.
Một lời cậy với Chung công,
Khất từ tạm lĩnh Vương ông về nhà.
655. Thương tình con trẻ, cha già,
Nhìn nàng, ông những máu sa, ruột dàurầu:
“Nuôi con những ước về sau,
Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi.
Trời làm chi cực bấy trời!
660. Này ai vu thác, cho người hợp tan?
Búa rìuBúa daoPhủ cân bao quản thân tàn,
Nỡ đày doạ trẻ, càng oan khốcthác già.
Một lầnlời sau trước cũng là,
Thôi thìthà mặt khuất, chẳng thà lòng đau!”
665. Theo lời càngnhư chảy dòng châu,
Liều mình, ông đãrắp gieo đầu tường vôi.
Vội vàng kẻ giữ, người coi,
Nhỏ to, nàng lại tìm lời khuyên can:
“Vẻ chigì một mảnhđoátấm hồng nhan,
670. Tóc tơ chưa chútchút chửa đền ơn sinh thành.
Dâng thư đã thẹn nàng Oanh,
Lại thua ả Lý bán mình hay sao?
Cỗi xuânThôi xuânChồi xuânXuân huyên tuổi hạc càng cao,
Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.
675. Lòng tơLượng trên dù chẳng dứt tình,
Gió mưamây âu hẳn tan tành nước non.
Thà rằng liều một thânmình con,
Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây.
Phận saođành đành vậy cũng vầy,
680. Cầm như chẳng đỗđậu những ngày còn xanh.
Cũng đừng tính quẩn, lotoan quanh,
Tan nhà là một, thiệt mình là hai.”
Phải lời, ông cũng êm tai,
Nhìn nhau giọt ngắn, giọt dài ngổn ngang.
685. Mái ngoàisau họ Mã vừa sang,
Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao.
Trăng già độc địa làm sao!
Cầm dây chẳng lựanghĩ, buộc vào tự nhiên!
Trong tay đã sẵn đồng tiền,
690. Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì!
Họ Chung ra sức giúp vì,
Lễ tâm đã đặt, tụng kỳ đãcũng xong.
Việc nhà đãmới tạm thong dong,
Tinh kỳ giục giã đã mong trởđộ về.
695. Một mình nàng,nương ngọn đèn khuya,
Áo dầm giọt lệtủi, tócmây sechia mái sầu:
“Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,
XótChút lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!
Công trình kể biết mấy mươi,
700. Vì ta khắngkhăng khít cho người dở dang.
Thề hoa chưa ráo chén vàng,
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa!
Trời Liêu non nước bao xa,
Nghĩ đâu rẽ cửa, chia nhà tự tôi!
705. Biết bao duyên nợ thề bồi,
Kiếp này thôi thế thìlà thôi còn gì?
Tái sinh chưa dứt hương thề,
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
Nợ tình chưa trả cho ai,
710. Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan!”
Nỗi riêng, riêng những bàn hoàn,
Dầu chong trắng đĩa, lệgiọt tràn thấmthắm khăn.
Thuý Vân chợt tỉnh giấc xuân,
Dưới đèn ghéthì đến ân cần hỏi han:
715. “Cơ trời dâu bể đa đoan,
Một nhà để chị riêng oan một mình.
Cớ gìchi ngồi nhẫn tàn canh,
Nỗi riêng còn mắc vớivướng mốimắc mối tình chi đây?”
Rằng: “Lòng rồn rãđương thổnrộn rã thức đầy,
720. Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.
Hở môi ra cũng thẹn thùng,
Để lòng thìắt phụ tấm lòng với ai!
CậyQuên em, em cócũng chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa:
725. Giữa đường đứt gánh tương tư,
GiaoKeo loan chắp mối tơduyên thừa mặc em.
KểNhớ từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
730. Hiếu tình cókhôn lẽ hai bề vẹn hai?
NgàyThì xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
735. Chiếc vànhthoa với bức tờ mây,
Duyên này thìphải giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ, nên chồng,
XótNghĩ người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
740. Phím đàn với mảnhtấm hươnggương nguyền ngày xưa.
Mai sau, dầu cóđến bao giờ,
Đốt lò hương ấy, solựa tơ phím này,
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thìrằng hay chị về.
745. Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đềntrả nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt, khuất lời,
Rảy xin chéngiọt nướclệ cho người thác oan.
Bây giờ trâm gãy, gươnggương vỡ, người tan,
750. Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạylại tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủivắn vủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng.
755. Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Cạn lời, hồn ngất, máu sayhồn dứt, máu sayphách tán, hồn bay,
Một hơi lạnhlặng ngắtngất, đôi tay lạnhgiá đồng.
Xuân huyên chợt tỉnh giấc nồng,
760. Một nhà tấp nậpvây lớp, kẻ trong người ngoài.
Kẻ thang, người thuốc bời bời,
Mới giầu cơndầu cơndầu thiên vựng, chưa phai giọt hồng.
Hỏi: “Sao ra sự lạ lùng?”
Kiều càng nức nở, mở không ra lời.
765. Nỗi nàng, Vân mới rỉ tai:
“Chiếc vànhthoa nàyđây với tờ bồi ở đây...”
“Này cha làm lỗi duyên mầy,
Thôi thìthôi nỗi ấy sau này đã em!
Vì ai rụng cải, rơi kimtrâm,
770. Để còn bèo nổi, mây chìm vì ai?
Lời con dặnnhủ lại một hai,
Dẫu mòn bia đá, dám sai tấc vàng!”
Lạy thôi, nàng lạimới rénthưa chiềng:
“Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi.
775. SáThốtThứ chi thân phận tôi đòi,
Dẫu rằng xương trắng quê người, quản đâubao!”
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Hà Như ngày 21/07/2010 10:28
1- Chữ Giao, có gốc Hán, chữ Nôm đọc là Keo (Từ điển Đào Duy Anh). Có bản chép: Keo loan chắp nối tơ thừa mặc em.
2- Bản trên chú thích Giao loan: Do chữ loan giao, tức thứ keo chế bằng máu chim loan. Tương truyền người xưa thường dùng để nối dây đàn và dây cung.
3- Xin nói thêm, chú thích của Từ ngữ điển cố văn học của NXB Văn Học 1999, chú thích có kỹ hơn, xin tóm tắt trích dẫn có liên quan:
Keo loan: Thứ keo có độ dính cao dùng nối dây cung đứt. Tây Vương mẫu sai sứ giả đem dâng cho Hán Vũ đế bốn lạng linh giao. Keo này nấu từ mỏ con phượng và sừng con kỳ lân, đặt tên là "tập huyền giao", còn gọi là "liên kim nê".
Phàm dây cung đứt, sắt đá vỡ đôi, keo này gắn chặt mãi mãi.
Xin nêu ra cùng tham khảo.