Đăng bởi Vanachi vào 02/04/2007 20:38
Than rằng:
Chùa Phổ Cứu trăng dìu gió dặt ngỡ một ngày nên nghĩa trăm năm;
Doành Đào Nguyên nước chảy hoa trôi bỗng nửa bước chia đường đôi ngả.
Chữ chung tình nghĩ lại ngậm ngùi;
Câu vĩnh quyết đọc càng buồn bã.
Nhớ hai ả xưa:
Tính khí dịu dàng;
Hình dung ẻo lả.
Rạng làu làu gương đan quế vừa tròn;
Non mơn mởn đoá hải đường chưa nở.
Sắc lông mày, săn môi sáp ai chê rằng xấu mô mồ;
Thấp mài tóc cao đường ngôi ta khên đã đẹp cha chả.
Tiếng cười tiếng nói nghe cũng hữu tình;
Nước bước nước đi thật là vô giá.
Tiết dậy mẩy trong năm mười bảy, nghề thú quê giữ mực chân xa;
Cuộc làm vui vừa cợ giêng hai, bàn cờ tướng kén vào con mã.
Khó tột vời mà rất mực hẳn hoi;
Nghề làm ăn chẳng đến điều hèn hạ.
Cuốn song gấm một thềm hoa rụng, gieo thoi vàng dệt bức hồi văn;
Buông rèm sương nửa chái trăng soi, nắn quay sắt kéo dây nhân quả.
Rủ rê năm bảy chị em;
Cưu góp ba làng bốn xã.
Con người ta được một thì con gái được thì ăn được thì chơi;
Ở đất này khá hiếm chi đàn ông chẳng hề quen chẳng hề lạ.
Đêm đêm thường ví hát xôn xao;
Ai ai cũng trầu cau đãi đoã.
Ả nọ o này đông đúc, gái một thì gặp tuổi sang xuân;
Anh kia chú nọ rình mò, trai ba phủ quyết chơi mãn hạ.
Bướm ong phấp phới, thôi quan thì dân;
Oanh yến ra vào, rộng đường quang sá.
Nhất lịch sự là quân phường ngoài Chế, những vất ra túi thuốc bông đào;
Đội thế thần thì quan họ trong làng, cũng mang tới cân ngà quả đá.
Đi về thường nhiều kẻ hẳn hoi;
Ra vào cũng lắm người chằng chạ.
Trước chái thì tàng hình thuỷ phủ đứng lăm lăm ai biết mô mồ;
Trong nhà thì thiết phục long vương nằm trập trập hình như đống mả.
Trai trong làng rình bốn mặt chan chan;
Chó hàng xóm sủa năm canh ra rả.
Biết đó những ngày trong trứng, vui chi hơn liễu cợt hoa cười;
Vẻ chi một chút ngoài da, công đâu lại then cài cửa khoá.
Ngán đâu lời nói mà lo;
Được thế hãy chơi cho thoả.
Buông bè chuối giữa dòng nước chảy, mặc dù ai chống ngược chống xuôi;
Thả lá ngô trước trận gió nồm, đã lắm kẻ bổ nghiêng bổ ngả.
Họp chợ xuân nhiều khách vãng lai;
Dạo điếm nguyệt phải khi kinh quá.
Theo chúng bạn cũng ra điều bất ý, ai dám đâu vác chuông đánh đất Đai Minh;
Gặp chị em chẳng có lẽ vô tình, ta cũng phải gánh ngói rao làng Bùi Ngoã.
Yếm nhuộm điều che trước ngực loè loè;
Câu huê tình đọc bên tai xả xả.
Quây ngoài sân thì trong làng chín mười ả, ả ví, ả hát, ả kéo sợi, ả đưa thoi, lại có ả bưng trầu tận miệng, mỹ nữ như hoa;
Léo lên giường thì quan họ năm bảy ông, ông nói, ông cười, ông ngâm thơ, ông đọc truyện, lại có ông đắp áo trùm đầu, cao bằng mãn toạ.
Thoạt đến đây buổi mới lạ lùng;
Xem chẳng khác người quen suồng sã.
Tiếp đãi mấy đêm một mực, lòng bồ đề hỉ xả từ bi;
Xôn xao một khắc ngàn vàng, dàn chẩn tế ba la bát nhã.
Ba sinh đành một kiếp hẹn hò;
Hai năm được mấy lần chung chạ.
Sừng chuốt lược cũng trong đồng đạo, trai khôn thầy dái gái khôn bà nàng;
Đá tạc bia ai ở dị tâm, đất có thổ công sông có hà bá.
Đến vườn mong bẻ một cành cam;
Giải lòng ước chẻ hai thanh ná.
Quả cam chén rượu đãi đằng khi chơi cửa chơi nhà;
Túi vóc khăn là, dặn dò lúc buôn mành buôn giã.
Ân cần nhiều nỗi thư từ;
Hầu hạ chẳng khuây điếu lả.
Phụt ngọn đèn trước mặt, đếch sự đời chẳng phải đứa tiểu tâm;
Đùng tiếng lói sau nhà, đéo mẹ kiếp bỗng có thằng đại phá.
Ta đã đành rụt cổ như rùa;
Ả cũng chớ vật mình như sả.
Giải kết cho ả, mới đến đây ai dám đoạt gia tài;
Hú vía cho tôi, một chút nữa sinh ra ẩu đả.sinh ra ẩu đả.
Của thập phương mặc khách thừa lưa;
Tội nhất xá xin người xuý xoá.
Như có phải quýt làm cam chịu, đã trót thì trét, sợ chi điều nói tỏi nói hành;
Song cũng là cú kêu ma ăn, đi không về không, chi đến nỗi gieo tai gieo vạ.
Ta đã đành mắc tiếng thày lay;
Ả cũng hoá ra người đĩ thoã.
Mấy kẻ biết người biết của, gấm mặc đêm nghĩ lại cũng hoài;
Một chốc ra giận ra thù, bạc gần sáng thổ nào dám gá.
Khoán ước làng cứng nhắc ngô rang;
Nhân nghĩa cũ nát tươm chó nhả.
Của là của chó treo mèo đậy, phải giữ gìn cho lắm, mắt đỏ lòm nhắm tựa mắt lươn;
Công tiếc công cốc mò cò ăn, đi chơi nhởi làm chi, mặt trắng phủi trơ như mặt nạ.
Tiếng tăm chi đó mặc ai;
Ngày tháng còn dài đó đã.
Những ngỡ trăm năm trước hẹn hò đã chắc, để phụ phàng ba chốn bốn nơi;
Nào ngờ tháng sáu này tệ bạc làm sao, bỗng tống táng một tuần hai ả.
Ờ sao mà quên ta được cho đành;
Nói thế mà lấy chồng thực ru tá.
Công lênh ấy ai còn nhớ đến, cũng cầm bằng ruổi ngựa đường dài;
Mối manh kia ta đã biết rồi, thôi cũng chớ giấu voi ruộng rạ.
Thế thời mách chúng ta vậy ru;
Thôi kính hai ả cho rồi cả.
Hãy xem những của lạ lùng;
Chẳng trách chi ai một mả.
Một chú thì dắt mũi trâu từ thuở bé, tắc tắc hò rì;
Một anh thì cắt cỏ ngựa đến tận già, tùng tùng dạ á.
Ở làm chi một năm thêm một tuổi càng cao;
Khen lắm nhỉ hai ả được hai chồng cũng khá.
Thương chắc lấy nỏ được chắc, chúng bạn ta như nghé sổ ràn;
Chê tôm lại phải ăn tôm, lời nói trước như mèo liếm mỡ.
Cha kiếp mình đã ra kiếp lăng nhăng;
Thiệt lòng ta cũng ra lòng suồng sã.
Hựu hà ngôn tại, đã sao thì vậy, lấy ai cũng đã lấy rồi;
Như tư nhi dĩ, đã thế thì thôi, nói mãi ra điều nói chạ.
Mình ở bạc đã ra Dương Tố chi gian;
Ta cũng đen chẳng biết Quan Kiệt chi trá.
Bầu bạn củ rũ đi ngoay ngoảy, chẳng nhớ câu bất diệc lạc hồ;
Nợ nần xưa vỗ sạch sành sanh, quên mất chữ vi chiếu dụng giả.
Đã biết trước yên túc quái tai;
Xem về sau như chi hà dã.
Được đó hãy hay rằng đó, mâm son bát sứ mà ăn cơm với nước cà;
Chắc đâu đã hẳn hơn đâu, chăn tằm hái dâu vẫn mặc quần nâu áo vá.
Nhất bạc tình là thói o Uy;
Chẳng nhân nghĩa ai bằng ả Sạ.
Những ngỡ đứt võng nảy xuống giường bịch cái, chẳng lấy năm thì cũng lấy ba;
Nào ngờ trèo cao sa xuống thấp ôi cha, tưởng mất một hoá ra mất cả.
Đã làm chi thế vội vàng;
Thôi chẳng lo gì thong thả.
Chi những thói cọc cằn lửa khắc, chó cậy nhà gà cậy chuồng;
Tới khi nhà hơi hởi bén mùi, trâu ăn ló bò ăn má.
Lời thề nguyền dĩ trục thuỷ lưu;
Bức thư vãn dụng bằng hoả hoá.
Người đến gốc mong bồng quả bưởi, há phải điều chúng bạn vô tình;
Con sãi chùa lại quét lá đa, thôi mặc kiếp nhà bay bất khả.
Gỗ trôi sông không trở lại Lường Dà;
Muối bỏ bể cũng thiệt công Lữ Xá.
Ả về đó bén duyên phải kiếp, chẳng quản điều mặt muội dầu gio;
Ta bây giờ quá lứa lỡ đôi, thôi chẳng khác mình trần trôn trạ.
Ôi! Nước sông Giang Đình;
Nương khoai Phan Xá.
Dải sông Cài văn vắt nước trong;
Đỉnh ngàn Hống đùn đùn mây toả.
Gương công chúa phá tan từ trước, làm chi những nỗi tá ơm;
Nhịp ngọc tiêu đành để lại sau, khôn ước những điều hú hoạ.
Nương song cúc sắp hỏi han ả Tố, vì đâu mà phận hẩm duyên ôi;
Dạo đường Hoè vừa gặp gỡ chàng Tiêu, từ đây đã người dưng nước lã.
Giận nỗi xưa mồ hôi muối đầm đìa;
Tưởng nghĩa cũ nước mắt gừng lã chã.
Thương vì nỗi mưa dầm rỉ rỉ, chận chắc với con trâu đực, ả cầm đèn, ả đi trước dẫn đường;
Đau vì khi lửa cháy phừng phừng, tím gan cho cái gà toi, ả vác búa, ả đứng ra lấp sá.
Tưởng công phu mà chưa đáng đồng tiền;
Nhớ nhân duyên muốn đi cầu ông Tá.
Nhớ những lúc tắt đèn dạy chuyện, dứt câu này nối câu khác trăng ngoài hiên khi tỏ khi mờ;
Tưởng những khi thắp đuốc chơi đêm, ở nhà ngoài vào nhà trong giọt bên chái như tầm như tã.
Rầm rì thay điếu thuốc trao tay;
Gắn bó mấy hạt cơm dính má.
Xẩy nhớ đến lời ăn tiếng nói, cám buồn mặt lợn, tóc trên đầu đếm chẳng hay cùng;
Sực tưởng khi đua sức đua tài, trơ tráo đầu trâu, gan trong bụng gãi khôn đã ngá.
Có công kể mấy nhật trình;
Lúc ấy ghép vào niên phả.
Nói sao được đường xa dặm ngái, bắt chim trời chi những sự éo le;
Cực những điều kẻ ngược người xuôi, vẻ cò đất vẫn ra điều dối trá.
Hay chi điều con gái chê chồng;
Chẳng có ai đàn ông ở goá.
Ả sang đó bồng con cho sớm, mẹ nằm võng cha nằm giường;
Ta về đây kiếm chút kẻo già, bà ăn nem ông ăn chả.
Sang chợ Vịnh rắp than cùng ả Út, đường đông ăm ắp, thấy mà kinh khăn nhiễu quần điều;
Lên chùa Hương toan tu với sư Viên, rũ sạch làu làu, mua chưa được mũ ni áo vá.
Ở nhà lâu nghĩ cũng bần thần;
Viếng cảnh cũ muốn làm khuây khoả.
Đường cửa Trẹm mỗi ngày một ngại, bóng cây tiếng suối, núi giăng giăng con mắt đã mòn;
Chòm bên làng càng tối càng buồn, ngọn khói hạt mưa, trời thâm thẩm mặt người đã nhoá.
Hắt hiu gió trúc mưa mai;
Quạnh quẽ bóng chim tăm cá.
Vì quan họ nên chúng ta mộ đức, bạn hữu quen còn được bao nhiêu;
Vào trong làng hỏi đôi ả Sạ Uy, lứa tác cũ hãy còn bao nả?
Thăm tận nhà thì chẳng thấy người quen người thuộc, chua cay thay ăn khế với gừng;
Hỏi đến tên thì đã gọi mụ nọ mụ kia, may mắn bấy trồng sung ra vả.
Cửa nhà mình đã bưng kín như buồng;
Tiếng tăm ta cũng rửa sạch như đá.
Nghĩ cũng phải ăn hơn hờn thiệt, có con có cái, ai nói chi những sự nguyệt hoa;
Toan kiếm nơi đứt nối tối nằm, lạ mặt lạ mày, ai chẳng biết lại chê cỏ dã.
Dẫu có ai trẻ mỏ mới lên;
Là những chốn xưa nay chằng bạ.
Thú ngưu mã chú xuôi anh ngược, khăn dì Sàng trầu thuốc đến đâu phần;
Vườn yến oanh cảnh đó người đâu, của ông Đấu gió trăng còn đóng khoá.
Nhân duyên xưa bẻ ngó lìa tơ;
Phong cảnh cũ vàng cây héo lá.
Tìm những chốn tre già măng mọc, hàng thịt nguýt hàng cá, dễ mấy ai cho đáng cải kim;
Dốc một bài xỉ bỏ thủ cầm, trâu cột ghét trâu ăn, sợ hàng xóm lại kêu thuỷ hoả.
Bẽ bàng mong hỏi ả Kiều;
Thương hại sẽ lừa con Sá.
Đầu sông cho đến cuối sông, ở chẳng vừa lòng roi mây đánh chết, gươm thư hùng tuy rẽ đôi nơi;
Đứt dây thì lại nối dây, thế nào tát được giếng này mới thôi, hoa tỉ muội hãy còn một đoá.
Áo đơn đà lây dấu hoa thơm;
Bình không hãy ngát mùi hương xạ.
Vào đất văn vật mang hư danh thì phải dự phòng;
Nổi phép võ biền cứ bản tộc âu là truy nã.
Tiếng tăm kia từ trước chẳng mang;
Duyên nợ ấy về sau khôn trả.
Nếu trước những trồng bông trồng đậu, hết chuyện trò chó chết thì thôi;
Từ rày đừng yêu trái yêu hoa, mất công ấy voi đâu mà tạ.
Nay:
Một nén hương thừa;
Ba tuần rượu hả.
Kể chi những đường kia nỗi nọ, đi thì đi cho thoát, kẻ đã về kiếp ấy thì thôi;
Dù chẳng nên nghĩa trước tình sau, chờ thì chờ cho xong, ai đâu có con hoài mà gả.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Như mọi người đều biết, cuối thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII ở vùng Nghệ An có hai làng khá nổi tiếng là làng Tiên Điền (nay thuộc huyện Nghi Xuân, Nghệ Tĩnh) và làng Trường Lưu (nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Nghệ Tĩnh) với các nhà văn, nhà thơ của hai họ Nguyễn. Ở làng Tiên Điền có Tiến sĩ Nguyễn Huệ (1705-1733), Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm (1708-1775), Tiến sĩ Nguyễn Khản (1734-1786), các nhà thơ Nguyễn Du (1765-1820), Nguyễn Thiện (1763-1786) v.v… Ở làng Trường Lưu có Thám hoa Nguyễn Huy Oánh (1713-1789), Tiến sĩ Nguyễn Huy Quýnh (1734-1785), các nhà thơ Nguyễn Huy Tự (1743-1790), Nguyễn Huy Hổ (1783-1841) v.v… Các nhà văn, nhà thơ của hai làng này đã sớm có quan hệ về gia đình và văn học với nhau, Nguyễn Huy Tự là con trai Nguyễn Huy Oánh và là con rể Nguyễn Khản. Hai bà vợ của Nguyễn Khản là hai chị em ruột, chị là Nguyễn Thị Bành (1750-1773); em là Nguyễn Thị Đài (1752-1819). Đặc biệt sự giao du về văn học đã có sớm, được thể hiện khá rõ ở ba bài Thác lời gái phường vải của Nguyễn Huy Quýnh [3, 4], Thác lời trai phường nón và Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu của Nguyễn Du. Về thời gian sáng tác của hai bài sau có nhiều ý kiến không thống nhất [1, 2, 3, 4]. Sau một thời gian sưu tầm, khảo cứu, chúng tôi xin mạnh dạn trình bày một số ý kiến về ba bài trên.
Trước hết về ba bài này - trong các tài liệu đã dẫn đều khẳng định là của Nguyễn Du và Nguyễn Huy Quýnh, và các anh Hoàng Hữu Yên, Nguyễn Lộc [2], ông Hoàng Xuân Hãn [1], đều cho là được Nguyễn Du sáng tác trước lúc Nguyễn Du 19-25 tuổi. Theo ông Trương Chính [3], các bài đó được Nguyễn Du sáng tác vào lúc Nguyễn Du đã ngoài ba mươi (1796-1804). Cả hai ý kiến trên đều chưa được xác đáng. Muốn hiểu rõ thêm về thời gian sáng tác của hai bài của Nguyễn Du, ta hãy xem Nguyễn Huy Quýnh đã tặng Nguyễn Du bài Thác lời gái phường vải vào lúc nào.
Nguyễn Huy Quýnh sinh năm 1734 niên hiệu Long Đức thứ 3 đời vua Lê Thuần Tông (1732-1735) tại làng Trường Lưu, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, trấn Nghệ An, nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Nghệ Tĩnh.
Viễn tổ của Nguyễn Huy Quýnh là Nguyễn Uyên Hậu đậu khoa Ngũ kinh bác sĩ đời Lê Hồng Đức (1470-1497). Ông tổ chín đời là Nguyễn Hàm Hằng đậu Hương cống (Cử nhân) năm 15 tuổi, các đời sau đời nào cũng có người đỗ đạt.
Ông tổ bốn đời là Nguyễn Công Ban đậu khoa Hoành từ đời Lê Chính Hoà (1680-1705) làm tới Giám sát ngự sử, lúc mất được thờ ở đình làng. Cha là Nguyễn Huy Tựu đậu Hương giải (đỗ đầu kỳ thi Hương) làm tới chức Tham chính Thái Nguyên lúc chết được phong hàm Công bộ Thượng thư. Anh là Nguyễn Huy Oánh đậu Đình nguyên Thám hoa khoa Mậu Thìn (1748) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 đời vua Lê Hiển Tông (1740-1786) làm tới chức Hộ bộ Thượng thư, từng đi sứ Trung Quốc và có trứ tác nhiều sách Hán văn (Quốc sử toát yếu, Phụng sứ Yên đài tổng ca, Tiêu Tương bách vịnh, Thạc Đình di cảo v.v…). Nhà thơ Nguyễn Huy Tự tác giả Truyện Hoa tiên gọi Nguyễn Huy Quýnh là chú, Nguyễn Huy Quýnh cũng là ông chú của nhà thơ Nguyễn Huy Hổ tác giả Mai đình mộng ký. Như vậy về mặt quan hệ gia đình Nguyễn Huy Quýnh và Nguyễn Du đều là bậc chú của Nguyễn Huy Tự, tức là Nguyễn Huy Quýnh ngang hàng với Nguyễn Du, mặc dù ông hơn Nguyễn Du 31 tuổi.
Về cuộc đời riêng của ông, qua một ít tài liệu như sách Nguyễn thị gia tàng, Hoàng Lê nhất thống chí, Việt sử thông giám cương mục ta biết: lúc còn nhỏ, ông nổi tiếng văn hay chữ tốt, 13 tuổi đầu Tú tài (hiệu sinh), 16 tuổi đậu Hương cống, sau đó thi Hội sáu lần, lần thứ sáu mới đậu Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1772) năm Cảnh Hưng thứ 33 (cùng khoa với Hội nguyên, Đình nguyên Hoàng giáp Hồ Sĩ Đống người xã Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu). Sau đó ông lĩnh chức Hàn lâm thị giảng. Năm Giáp Ngọ (1774) - Ất Mùi (1775) ông cùng anh là Nguyễn Huy Oánh đều dự việc bình Nam theo chúa Trịnh Sâm (1739-1782). Sách Cương mục chép lúc đóng quân ở Hà Trung, Trịnh Sâm sai ông đem thơ, 100 lạng vàng, 5000 lạng bạc vào cho Hoàng Ngũ Phúc ở Thuận Hoá [5]. Sau đó ông chuyển sang ngạch võ, làm Đốc thị Thuận Hoá.
Ngày 15 tháng 5 năm Canh Tý (1780), trước hôm xảy ra vụ án Canh Tý, Trịnh Sâm sai ông làm Tả tư giảng cho Thế tử Trịnh Tông (1763-1786). Hôm sau, Tông bị giam lỏng ở kinh đô, còn phe đảng của Tông mỗi người lẩn trốn mỗi nơi [6]. Ông cũng như Nguyễn Điều (1748-1786) Trấn thủ Sơn Tây. Nguyễn Khản sau này đều về quê, chỉ có điều là ông về quê ngay sau khi xảy ra vụ án Canh Tý, còn Nguyễn Khản và Nguyễn Điều mãi đến bốn năm sau (1784) mới về quê.
Ông mất năm 1785, thọ 52 tuổi. Tác phẩm ông còn lại Quảng Thuận đạo sử tập (có ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm [10], ký hiệu VHv.1375) gồm 88 trang có bản đồ, về lịch sử, địa lý của hai tỉnh Thuận Hoá và Quảng Ngãi, gồm phủ huyện, kho tàng v.v… Ngoài ra còn một số như: 4 tập Dân phong thi ca, 3 tập Văn phong thi ca, 1 tập Nam phương dư địa chí, 1 tập Lục thứ đình vi, bài ca Hi Tổ Nhân vương (Trịnh Cương, 1709-1729) v.v…
Năm 1924, cụ Phó bảng Ba Sĩ và cụ Giải nguyên Lê Thước đã giới thiệu bài thơ Thác lời gái Phường Vải của ông gởi tặng Nguyễn Du. Vậy ông viết vào lúc nào, chắc chắn là sau vụ án Canh Tý ông đã về quê, và đi lại với Nguyễn Du chính là ở giai đoạn này.
Vả lại Trường Lưu bấy giờ rất nổi tiếng với nghề chăn tằm dệt lụa, và do đó văn nhân tụ tập hát ví, hát phường vải. Vào thời gian ấy, từ Giáp Ngọ (1774), trấn Nghệ An dưới quyền cai trị của Hoàng Đăng Bảo rất thịnh vượng (Cương mục trang 18, tập 1,6). Tại làng Trường Lưu, Nguyễn Huy Oánh đã cáo quan về quê năm 1777 (Đinh Dậu) dựng thư viện chứa sách tới vạn quyển, trước sau dạy học trò mấy nghìn người [7, 8]. Học trò của Nguyễn Huy Oánh đỗ đại khoa hơn ba mươi vị, làm quan tại triều hơn 50 vị, còn Cử nhân, Tú tài, Tri phủ, Tri huyện không kể xiết [8]. Lúc đó Trường Lưu thật là thịnh vượng, ở đây có chợ, có thư viện, là nơi tụ tập qua lại của nhiều văn nhân.
Vả lại ai cũng rõ theo tiểu sử Nguyễn Du, sinh năm 1765, năm 11 tuổi cha mất (1775), năm 13 tuổi mẹ mất (1777) và năm Quí Mão (1783) Nguyễn Du đã ra thi ở trường Sơn Nam và đậu Tam trường lúc 19 tuổi. Chỉ từ sau năm 1784, sau vụ kiêu binh nổi lên phá nhà của Nguyễn Khản, Khản với em là Nguyễn Điều mưu tính trừ kiêu binh không được, mới rút về quê. Năm sau Tây Sơn kéo quân ra Bắc, Nguyễn Khản tự mình đem người nhà vượt biển ra Bắc để cứu viện. Đến tháng 9 Nguyễn Khản cảm bệnh ốm chết ở kinh đô. Còn Nguyễn Điều ở nhà xem xét tình thế trong hạt, rồi mất ở huyện Thanh Chương, Nghệ An vào tháng 7 năm 1786. Chắc lúc này Nguyễn Du không ở Nghệ An. Còn như từ 1786 đền 1789, Nguyễn Du đã kế chân cha nuôi giữ chức quan võ và cuối cùng chạy về quê vợ ở Sơn Nam. Mãi đến năm 1796, Nguyễn Du mới dời về Hồng Lĩnh và ở đây sáu năm, đến năm 1802 thì ra làm quan với nhà Nguyễn. Và Nguyễn Huy Quýnh cũng đã mất trước đó lâu rồi.
Mà thời gian lui tới Trường Lưu của Nguyễn Du lại không phải là ít, đến những gần hai năm:
Ba sinh dành một kiếp hẹn hò,Vả lại, theo bài thơ của Nguyễn Huy Quýnh tặng Nguyễn Du:
Hai năm được mấy lần chung chạ.
Tảng mai Hầu trở về nhà,“Hầu” đây là Nguyễn Du, lúc nhỏ tập tước của cha là Xuân quận công Nguyễn Nghiễm, thường gọi là Du Đức Hầu. Vậy thì rõ ràng Nguyễn Du đã lên chơi và hát ví ở Trường Lưu lúc còn niên thiếu và được Nguyễn Huy Quýnh tặng bài thơ trên thông qua cô gái hát phường vải - hoặc cô phường vải đã tặng Nguyễn Du bài thơ trên dựa theo lời kể chuyện của Nguyễn Huy Quýnh, trước lúc Nguyễn Du ra Sơn Nam. Vậy thì ở đây ta thấy rõ Nguyễn Huy Quýnh làm bài thơ tặng Nguyễn Du chỉ có thể trước năm 1783, chính xác hơn là vào khoảng từ 1780-1783 trước lúc Nguyễn Du đậu tam trường và tập tước quan võ của cha nuôi.
Hồn tương tư hãy còn mê giấc nồng.
Khi lên để rối cho nhau,Sau đó, Nguyễn Du đã đáp lại, cùng là một bài thơ lục bát, bài Thác lời trai phường nón, tức là trai làng Tiên Điền, làng này vốn có nghề làm nón, trả lời bài Thác lời gái phường vải là gái Trường Lưu. Đó cũng là bức thư tình và chan chứa tình cảm. Những câu:
Khi về trút một gánh sầu về ngay.
Xua buồn từ nớ lại hay
Nào ai mó đến xa quay xin thề.
Hồng Sơn cao ngất mấy tầng,đều là xuất phát tự đáy lòng của những người đang yêu, đang đợi chờ, đang mong nhớ.
Đò Cài mấy trượng thì lòng bấy nhiêu.
Làm chi cắc cớ lắm điều,
Mới đêm hôm trước lại chiều hôm nay.
Khi xa xa hỡi thế này,
Tiếng xa nghe vẫn rù rì bên tai.
Quây ngoài sân thì trong làng chín mười ả, ả ví, ả hát, ả kéo sợi, ả đưa thoi, lại có ả bưng trầu tận miệng, mỹ nữ như hoa.“Quan họ” ở đây là con em họ Nguyễn Huy bạn bè của Nguyễn Du, “Đội thế thần quan họ trong làng, cũng mang tới cân trà quá đá” và những cảnh:
Léo trên giường thì, quan họ năm bảy ông, ông nói, ông cười, ông ngâm thơ, ông đọc truyện, lại có ông lấy áo trùm đầu, cao bằng mãn toạ.
Đêm đêm thường hát ví xôn xao,Sau những đêm hát ví Nguyễn Du ra về, O Uy, O Sạ đã gởi gắm tình cảm của mình qua bài của Nguyễn Huy Quýnh và Nguyễn Du cũng đáp lại bằng tình cảm chân thành:
Ai ai cũng trầu cau đãi đoạ
Kéo dài những hai năm:
Ba sinh dành một kiếp hẹn hò,
Hai năm được mấy lần chung chạ
Hồng Sơn cao ngất mấy tầng,Ấy thế mà rồi, trai trong làng phá đám, cũng là trâu buộc ghét trâu ăn, cho nên tối đến là:
Đò Cài mấy trượng thì tình bấy nhiêu.
Trai trong làng rình bốn mặt chan chan,Một hôm họ thổi tắt đèn, rồi đốt lói, một thứ pháo làm bằng ống tre, tộng thuốc súng vào và suýt nữa xảy ra ẩu đả:
Chó làng xóm sủa năm canh xa xả.
Phụt ngọn đèn trước mắt, đếch sự đời chẳng phải đứa tiểu tâm;Nếu không có sự phá đám của trai làng thì Nguyễn Du - cậu ấm con quan ở trong hoàn cảnh xã hội phong kiến thời bấy giờ cũng không thể lấy những cô gái hát ví được...
Đùng tiếng lói sau nhà, đù mẹ kiếp bỗng có thằng đại phá.
Ta đã đành mắc tiếng thày layvà sau đó, vào dịp tháng sáu, cả hai O Uy, O Sạ đều lấy chồng, cũng không có gì là lạ, nơi hỏi cũng xứng đáng, một người là nông dân, một người là lính và Nguyễn Du tất nhiên lại trở về với con đường công danh, học hành của mình. Trong mấy câu tiếp, Nguyễn Du có ý hờn dỗi, trách móc hai cô và không ít thì nhiều cũng có ý châm biếm hai người chồng của hai cô: “tiếc người ấy gieo mình vào đồng lúa, túc túc gà; gẫm thằng kia là tướng giữ nương dưa, đùng đùng quạ”.
Ả cũng hoá ra người đĩ thoã
Một đứa thì dắt mũi trâu từ thuở bé, tắc tắc hò rì,và Nguyễn Du về dùi mài kinh sử, đi thi và học ở phương Bắc cho một đến mười mấy năm sau:
Một đứa thì cắt cỏ ngựa đến tận già, tùng tùng dạ há.
Mười mấy năm sau, bên Tiên Điền:Ở đây Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Huệ, Nguyễn Khản, Nguyễn Điều đã mất cả, một số lưu lạc đi nơi khác, một số chống lại Tây Sơn và bị giết như Nguyễn Quýnh (1759-1791), một số theo Tây Sơn như Nguyễn Nễ (1751-1805) (anh cùng mẹ với Nguyễn Du).
Hồng Lĩnh vô gia, huynh đệ tán,
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên (Ở Hồng Lĩnh không có nhà, anh em tan nát, đầu bạc thường bực vì ngày tháng trôi mau).
Ở nhà lâu nghĩ cũng bần thần,Nhưng còn đâu là cái cảnh tình đẹp đẽ hồi xưa nữa, mà cũng con đường đó, lúc trước hăm hở bước đi bao nhiêu thì nay:
Viếng cảnh cũ muốn làm khuây khoả.
Đường cửa Trẹm mỗi ngày một ngái, bóng câu tiếng suối, núi giăng giăng, con mắt đã mòn;Nhưng Nguyễn Du vẫn lên thăm, vì dẫu sao cũng còn ít nhiều bạn bè cũ:
Điếm trên làng càng ngắm càng buồn, ngọn khói hạt mưa, trời thăm thẳm mặt người đã nhoá.
Hắt hiu gió trúc mưa mai,
Quạnh quẽ bóng chim tăm cá.
Vì quan họ nên chúng ta mộ đứa, bạn hữu quen còn đến rủ bao nhiêu.Và Nguyễn Du đã bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người, tìm đến thăm người cũ thì:
Nói đến tên thì đã gọi mụ nọ mụ kia, may mắn bấy trồng sung ra vả.Gần 20 năm rồi còn gì nữa (1780-1783 đến 1896-1802); O Uy, O Sạ nay đã thành mụ nọ, mụ kia (ở đây cần lưu ý bạn đọc là ở vùng Trường Lưu, Can Lộc tiếng “mụ” dùng để chỉ người đàn bà có con lớn gần thành vợ thành chồng chứ chưa lên đến chức bà). Và tiếng tăm “thày lay” của Nguyễn Du cũng chẳng còn vương lại bao nhiêu, nhà cửa của các O đã:
Cửa nhà mình đã bưng kín như buồng,Phong cảnh ở đây chả khác gì phong cảnh cũ, nhưng người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, người xưa còn đâu:
Tiếng tăm ta cũng rửa sạch như đá.
Nhân duyên xưa, bẻ ngó lìa cành,và Nguyễn Du nhớ lại:
Phong cảnh cũ, vàng cây héo lá.
Tưởng những lúc tắt đèn dạy chuyện, dứt câu này nối câu khác, trăng ngoài hiên khi tỏ khi mờ;Nguyễn Du nhớ lại, hồi tưởng lại, Nguyễn Du làm bài văn này để nhớ lại O Uy, O Sạ kể chuyện tình cảm xảy ra gần hai mươi năm về trước lúc Nguyễn Du chưa tới hai mươi tuổi, và qua đó gửi gắm ít tâm sự. Đó là nội dung bài Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu.
Nhớ đến khi thắp đuốc chơi đêm, ở nhà ngoài vào nhà trong, giọt bên chái như tầm như tã.
Trai trong làng rình bốn mặt chan chan;“Trai trong làng” đối với “chó hàng xóm” Nguyễn Du đã làm cho trai làng Trường Lưu (ngoài “quan họ”) tức giận và hò hẹn nhau nếu Nguyễn Du còn lên chơi sẽ đón đánh. Vậy bài văn này được sáng tác vào quãng 1796-1902, sau hai bài trước gần 20 năm.
Chó hàng xóm sủa năm canh xa xả.
Về thiời gian | Về câu chuyện | Về tác giả | |||||
Trương Chính | 1796-1802 (cả 3 bài) | Hư cấu | Nguyễn Du và Nguyễn Huy Quýnh | ||||
Hoàng Xuân Hãn | Trước 1789 (cả 3 bài) | Có thực | |||||
Hoàng Hữu Yên, Nguyễn Lộc | Trước 1783 (cả 3 bài) | Có thực | |||||
Chúng tôi | Bài 1,2: 1780-1783; Bài 3:1796-1802 | Có thực |
Họ Nguyễn Tiên Điền | Họ Nguyễn Huy Trường Lưu | ||
Nguyễn Huệ (1705-1733) Tiến sĩ (dạy học) | Nguyễn Nghiễm (1708-1775) Tiến sĩ, Quận công, Tả tướng | Nguyễn Huy Oánh (1713-1789) Thám hoa, Thượng thư (Phúc Giang thư viện, dạy học) | Nguyễn Huy Quýnh (1734-1785) Tiến sĩ, Đốc thị |
Nguyễn Du (1765-1820) (Truyện Kiều) | Nguyễn Khản (1734-1786) Tiến sĩ, Quận công | Nguyễn Huy Tự (1743-1791) (Hoa tiên) | |
Nguyễn Thị Đài (1752-1819) | Nguyễn Thị Bành (1750-1773) | ||
Nguyễn Huy Hổ (1783-1841) (Mai đình mộng ký) | Nguyễn Huy Vịnh (1786-1838) (Nguyễn thị gia tàng) |