Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Du » Truyện Kiều
Bài thơ có 5 dị bản, hãy chọn bản muốn xem:
1 Bản quốc ngữ do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu đính
2 Bản Liễu Văn đường (1866), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm (thiếu câu 1633-1680)
3 Bản Liễu Văn đường (1871), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm
4 Bản Lâm Noạ Phu (1870), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm
5 Bản Kiều Oánh Mậu (1902), do Nguyễn Thế và Phan Anh Dũng phiên âm
Đổi xác trao thây, quân Ưng Khuyển lộn xòng lắm kế;
Đang bà hoá tớ, kiếp hồng nhan đày đoạ thăm đường.
ThúNon quê thuần hức bén mùi,
Giếng vàng đã rụngkhổn một vài lá ngô.
1595. Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
Một niềmmàu quan tái, mấy mùa gió trăng.
Tình riêng chưa dám rỉhở răng,
Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:
“Cách năm, mây bạc xa xa,
1600. Lâm Chuy cũng phải tính mà thần hôn.”
Được lời như cởimở tấc son,
Vó câu thẳng ruổi nước non quê người.
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.
1605. Roi câu vừa gióng dặm trườngdài,
Xe hương nàngThư cũng thuận đường quy ninh.
Thưa nhà huyên hết mọi tình,
Nỗi chàng ở bạc, nỗi mình chịu đen.
Nghĩ rằng: “NgứaGiận ghẻ hờn ghen,
1610. Xấu chàng mà có ai khen chi mình!
Vậy nên ngoảnh mặt làm thinh,
Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày.
Lâm Chuy đường bộmột tháng chầy,
Mà đường hải đạo sang ngay thìlà gần.
1615. Dọn thuyền lựa mặt gia nhân,
Hãy đem dây xíchthắm buộc chân nàng về.
Làm cho, cho mệtdại, cho mê,
Làm cho đau đớn, ê chềtòng cho coi!
Trước cho bõ ghét những người,
1620. Sau cho để một trò cười về sau!”
Phu nhân khen chước rất mầu,
Chiều con, mới dạy mặc dầu ra tay.
Sửa sang buồm gió, lèo mây,
Khuyển, Ưng lại lựachọn một bầyvài côn quang.
1625. Dặn dò hết các mọinẻo đường,
Thuận phong một lá, vượt sang bênbiểnbểbến Tề.
Nàng từ chiếc bóng song the,
Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu.
Bóng dâu đã xế ngang đầu,
1630. Biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi.
Tóc thề đã chấm ngang vai,
Nào lờingười non nước, nào lờingười sắt son?
[...]
Sắn bìm chút phận con con,
KhuônNhân duyên biết có vuông tròn cho chăng?
1635. Thân sao nhiều nỗi bất bằng,
Liều như cung Quảng ả Hằng, nghĩ naoả Tố cung trăng nghĩ nào!
Đêm thu gió lọt song đào,
Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời.
Nén hương đến trước thiênPhật đài,
1640. Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vânvi.
Dưới hoa dậy lũ ác nhân,
Ầm ầm khốc quỷ, kinh thần mọcnhảy ra.
Đầy sân gươm tuốt sáng loà,
Thất kinh nàng chửa biết là làm sao.
1645. Thuốc mê đâu đã tướirẩy vào,
Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì!
VựcDảyĐặt ngay lên ngựa tức thìkỳ,
Phòng đàothêu viện sách, bốntư bề lửa dong.
Sẵn thây vô chủ bên sông,
1650. Đem vào để đóđánh, lận sòng ai haythay.
Tôi đòi phách lạc, hồn bay,
Pha cànTung phaXông pha bụi cỏ, gốc cây ẩn mình.
Thúc ông nhà cũng gần quanh,
Chợt trông ngọn lửa, thất kinh rụng rời.
1655. Tớ thầy chạynhảy thẳng đến nơi,
Tơi bời tưới lửa, tìm người lao xao.
Gió cao, ngọn lửa càng cao,
Tôi đòi tìm đủ, nàng nào thấy đâu!
Hớt hơ, hớt hãihải, nhìn nhau,
1660. Giếng sâu, bụi rậm, trước sau tìm quàng;
Chạy vàora chốn cũ phòng hương,
Trong trothan, thấy một đống xương cháy tàn.
Ngay tình, ai biết mưu gian,
Hẳn nàng, thôi lại còncó bàn rằng ai!
1665. Thúc ông sùi sụtrơi giọt ngắn dài,
Nghĩ con vắng vẻ, thương người nết na.
Di hài nhặt sắpnhạnh về nhà,
Nào là khâm liệm, nào là tang trai.
Lễ thường đã đủ một hai,
1670. Lục trình chàng cũng đến nơi bấy giờ.
Bước vào chốn cũ lầu thư,
Tro than một đống, nắng mưa bốn tường.
Sang nhà cha, tới trung đường,
Linh sàng, bài vị thờ nàng ở trên.
1675. Hỡi ôi! Nói hết sự duyên,
Tơ tình đứt ruộtbụng, lửa phiền cháy gan.
Gieo mình vật vã khóc than:
“Con người thế ấy, thác oan thế này!
Chắc rằng mai trúc lại vầy,
1680. Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau!”
Thương càng nghĩ, nghĩ càng đauKể bao xiết nỗi thảm sầu,
Dễ ai rấplấp thảm, quạt sầu cho khuâyĐoạn trường ai có qua cầu mới hay.
Gần miền nghe có một thầy[?] [?],
Phi phù trísát quỷ, cao tay thông huyền.
1685. Trên tam đảo, dưới cửu tuyền[?] [?] [?],
Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.
Sắm sanh lễ vật rước sang,
Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han.
Đạo nhân phục trước tĩnh đàn,
1690. Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương.
Trở về minh bạch nói tường:
“Mặt nàng chẳng thấy, việc nàng đã tra.
Người này nặng kiếpnghiệp oan gia,
Còn nhiều nợ lắm, sao đà thác cho!
1695. MệnhBột cung đang mắc nạn to,
Một năm nữa mới thăm dò được tin.
Hai bên giáp mặt chiền chiềnnhiều phen,
Muốn nhìnnhận mà chẳng dám nhìnnhận, lạ thay!”
Nghe lờiĐiều đâu nói lạ dường này!
1700. Sự nàng đãlà thế, lời thầy dám tin?
Chẳng qua đồng cốt quàngxằng xiên,
Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
Tiếc hoa, những ngậm ngùi xuân,
Thân mà dễ lấynày dễ biếtnày dễ lại mấy lần gặp tiên!
1705. Nước trôi hoa rụng đã yênĐành rằng nướcnàng đã cửu nguyên,
Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian!
Khuyển, Ưng đã đắt mưu gianhảo,
VựcĐem nàng đưa xuống để an dưới thuyền.
Buồm cao, lèotreo thẳng cánh suyền,
1710. Đè chừng huyệnVô Tích, băng miền vượt sang.
DỡGiã đò, lên trước sảnh đường,
Khuyển, Ưng, hai đứa nộp nàng dâng công.
VựcĐem nàng tạmbỏ xuống môncửavấn phòng,
Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai.
1715. Hoàng lươngMơ màng chợtnghe tỉnh hồn mai,
Cửa nhà đâu mấttá, lâu đài nào đây?
Bàng hoàng dở tỉnh, dở say,
Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu.
AẢLiễu hoàn liền xuốnglên xuốngtrên dưới giục mau,
1720. Hãi hùng nàng mới theo sau mộtmọi người.
NgướcLiếcNhìn trông toà rộng, dãy dài,
“Thiên quan trủnggia tể”, có bài treo trênlên.
Ban ngày, sáp thắp haiđôi bên,
GiữaTrên giường thất bảo, ngồi trênlên một bà.
1725. Gạn gùng ngọn hỏi, ngành tra,
Sự mình, nàng đãphải cứ mà gửi thưathân.
Bất tình nổi trận mây mưa,
Dức rằngMắng rằngViệc nàng: “Những giốngGiống khéo bơ thờ quen thân!
Con này chẳng phải thiện nhân,
1730. Chẳng màuphường trốnđạo chúa, thì quân lộn chồng.
Ra tuồng mèo mả, gàcua đồng,
Ra tuồng lúng túng, chẳng xong bề nào.
Đã đem mình bán cửa tao,
Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này!
1735. Nào là gia pháp nọroi nọc chúng bay!
Hãy cho ba chụcquá, biết tay một lần!”
ẢLiễu hoàn trên dưới dạ rân,
Dẫu rằng trăm miệng khôn phân lẽ nào!
Trúc côn ra sức đập vào,
1740. Thịt nào chẳng nát, gan nào chẳng kinh!
Xót thay đào lý một cành,
Một phen mưa gió, tan tành một phen!
Hoa Nô, truyền dạy đổi tên,
Buồng thePhòng thêuPhòng đào, dạy épghép vào phiên thị tỳ.
1745. Ra vào theo lũ thanh y,
Dãi dầu tócđèn mây rối, da chì quản bao!
QuảnHoạn gia có một mụ nào,
Thấy người, thấy nết, ra vào mà thương.
Khi chè chén, khi thuốc thang,
1750. ĐemGiúp lời phương tiện mở đường hiếu sinh.
DạyDặn rằng: “May rủi đã đành,
Liễu bồ mình giữ lấy mình cho hay.
Cũng là oan nghiệtnghiệp chi đây,
Sa cơ mới đến thế này, chẳng dưng.
1755. Ở đây tai vách, mạch dừng,
Thấy ai người cũquen thuộc cũng đừng nhìn chi.
Kẻo khi sấm sét bất kỳkhi,
Con ong, cáisâu, consâu, cái kiến kêu gì được oan!”
Nàng càng giọt ngọc như chan,
1760. Nỗi lòng, luốngno những bàn hoàn niềm tây.
“Phong trần, kiếp đã chịuchịu đã đầy,
Lầm than, lại có thứ này bằng hai!
Phận sao bạc chẳng vừa thôi?
Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan!
1765. Đã đành túc trái tiền oan,
Cũng liều ngọc nát, hoa tàn mà chi!”
Những là nương náu qua thìkỳ,
Tiểu thư phải buổi mới vềvề nhà ninh gia.
Mẹ con trò chuyện lân la,
1770. Phu nhân mớimới gọi nàng ra dạy lời:
“Tiểu thư dưới trướng thiếu người,
Cho về bên ấy, theo đòi lầu trang.”
Lĩnh lời, nàng mới theo sang,
Biết đâu địa ngục, thiên đàng là đâu!
1775. Sớm khuya khăn mặt, lược đầu,
Phận con hầu, giữhầu hạ, con hầu, dám sai!
Phải đêmCó khiHỏi đêm êm ả chiều trời,
Trúc tơ, hỏi đếnkhúc nghề chơi một ngàymọi ngàyhỏi các.
Lĩnh lời, nàng mới lựagiở dây,
1780. Nỉ non thánh thóttố, dễ say lòng người.
Tiểu thư xem cũng thương tài,
Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.
Cửa người, đày đoạ chúthỏi thân,
Sớm năn nỉthan thở bóng, đêm ngơ ngẩnkhuya ân hậnkhuya năn nỉđêm ngơ hận lòng.
1785. Lâm Chuy chút nghĩaphận đèo bòng,
Nước nonbèo để chữ tương phùng kiếp sau!
Bốn phương mây trắng một màu,
Trông vời cố quốcquận, biết đâu là nhà?