Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Du » Truyện Kiều
Bài thơ có 5 dị bản, hãy chọn bản muốn xem:
1 Bản quốc ngữ do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu đính
2 Bản Liễu Văn đường (1866), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm (thiếu đến câu 192)
3 Bản Liễu Văn đường (1871), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm (thiếu đến câu 192)
4 Bản Lâm Noạ Phu (1870), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm
5 Bản Kiều Oánh Mậu (1902), do Nguyễn Thế và Phan Anh Dũng phiên âm
Mơ chị Đạm Tiên mộng đề thơ mười vận;
Nhớ chàng Kim Trọng mong đính ước trăm năm.
Kiều từ trở gót trướng hoa,
Mặt trời gác núi , chiêng đà thu không.
Gương Nga chênh chếch dòm song,
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.
175. Hải đường lả ngọn đông lân,
Giọt sương gieo nặng, cành xuân là đà.
Một mình lặng ngắm bóng Nga,
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời:
“Người mà đến thế thời thôi,
180. Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi.
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không?”
Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.
185. Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
Tựa ngồi bên triện, một mình thiu thiu.
Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,
Có chiều phong vận, có chiều thanh tân.
Sương in mặt, tuyết pha thân,
190. Sen vàng lãng đãng, như gần như xa.
Rước mừng, đón hỏi dò la:
“Đào Nguyên lạc lối đâu mà đến đây?“
Thưa rằng: “Thanh khí, xưa nay,
Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên?
195. Hàn gia ở mé tây thiên,
Dưới dòng nước chảy, bên trên có cầu.
Mấy lòng hạ cố đến nhau,
Mấy lời hạ tứ ném châu, gieo vàng.
Vâng trình hội chủ xem tường,
200. Mà xem trong sổ đoạn trường có tên.
Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cũng người một hội, một thuyền đâu xa.
Này mười bài mới, mới ra,
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.”
205. Kiều vâng lĩnh ý đề bài,
Tay tiên một vẫy, đủ mười khúc ngâm.
Xem thơ nấc nở khen thầm:
“Giá đành tú khẩu, cẩm tâm khác thường!
Ví đem vào tập đoạn trường,
210. Thì treo giải nhất, chi nhường cho ai!”
Thềm hoa, khách đã trở hài,
Nàng còn cầm lại một hai tự tình.
Gió đâu sịch bức mành mành,
Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao.
215. Trông theo nào thấy đâu nào,
Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây.
Một mình lưỡng lự canh chầy,
Đường xa, nghĩ nỗi sau này mà kinh!
Hoa trôi, bèo dạt, đã đành,
220. Biết duyên mình, biết phận mình, thế thôi!
Nỗi riêng lớp lớp sóng giồi ,
Nghĩ đòi cơn, lại sụt sùi đòi cơn.
Giọng Kiều rền rĩ trướng loan,
Nhà huyên chợt tỉnh, hỏi: “Cơn cớ gì?
225. Cớ sao trằn trọc canh khuya,
Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?”
Thưa rằng: “Chút phận ngây thơ,
Dưỡng sinh đôi nợ , tóc tơ chưa đền.
Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên,
230. Nhắp đi, thoắt thấy ứng liền chiêm bao.
Đoạn trường là số thế nào?
Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia.
Cứ trong mộng triệu mà suy,
Phận con thôi có ra gì mai sau!”
235. Dạy rằng: “Mộng triệu cứ đâu?
Bỗng không mua não chuốc sầu, nghĩ nao!”
Vâng lời khuyên giải thấp cao,
Chưa xong điều nghĩ, đã dào mạch Tương .
Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng,
240. Nách tường bông liễu bay sang láng giềng .
Hiên tà gác bóng nghiêng nghiêng ,
Nỗi riêng, riêng chạnh tấc riêng một mình.