Bài thơ có 5 dị bản, hãy chọn bản muốn xem:

1 Bản quốc ngữ do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu đính

2 Bản Liễu Văn đường (1866), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm (thiếu đến câu 1968)

3 Bản Liễu Văn đường (1871), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm

4 Bản Lâm Noạ Phu (1870), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm

5 Bản Kiều Oánh Mậu (1902), do Nguyễn Thế và Phan Anh Dũng phiên âm

Gác Quan Âm mạo hiểm gặp mặt;
Am Văn Thù thích ý ngâm thơ.


[...]Những là ngậm thở, nuốtgiọt than,
1940. Tiểu thư phải buổi vấn an về nhà.
Thừa cơ, Sinh mới lẻn ra,
Xăm xăm đến mé vườnvi hoa với nàng.
Sụt sùi, giởnghĩ nỗi đoạn tràng,
GiọtLệ châu tầm tã đẫm tràngđượm tràngướt tràngđượm dài áo xanh:
1945. “Đã cam chịu bạc với tình,
Chúa xuânđông để tội một mình cho hoa.
Thấp cơ, thua trí đàn bà,
Trông vào đau ruột, nói ra ngại lời.
Vì ta cho luỵ đến người,
1950. Cát lầm ngọc trắng, thiệt đờithòi xuân xanh!
Quản chi lên thác, xuống ghềnhtrên gác, dưới duềnh,
Cũng toan sống thác với tình cho xong.
Tông đường, chút chửa cam lòng,
NghiếnCắn răng bẻ một chữ đồng làm hai.
1955. Thẹn mình đá nát, vàng phai,
Trăm thân dễ chuộc một lời được sao?
Nàng rằng: “Chiếc bách sóng đào,
Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may.
Chút thân quằn quại vũng lầy,
1960. Sống thừa, còn tưởng đến rày nữa sao?
Cũng liều một giọt mưa rào,
Mà cho thiên hạ trông vào cũng haythay!
XótTrótChút vì cầm đã bén dây,
Chẳng trăm năm, cũng một ngày duyên ta.
1965. Liệu bài mở cửa cho ra,
Ấy là tình nặngnghĩa trọng, ấy là ân sâu!”
Sinh rằng: “Riêng tưởng bấy lâu,
Lòng người nham hiểm, biết đâu mà lường.

NữaSợ khi giông tố phũ phàng,
1970. Thiệt riêng đấyđó, cũng lại càng cực đây.
Liệu mà xa chạy cao bay,
Ái ân ta có ngần này mà thôi!
Bây giờ kẻ ngược, người xuôi,
Biết bao giờ lại nối lời nước non?
1975. Dẫu rằng sông cạn, đá mòn,
Con tằm đến thácchết cũng còn vươngkéo tơ!”
Cùng nhau kể lể sau xưa,
Nói rồi lại nói, lời chưa hết lời.

Mặt trông, tay chẳng nỡ rời,
1980. Hoa tì đã động đếntiếng người nẻo xa.
NhậnNhịn ngừng, nuốtnói tủi, đứngtủi đứng chân ra,
Tiểu thư đâu đã rẽhàilánh hoa bước vào.
Cười cười, nói nói ngọt ngào,
Hỏi: “Chàng mới ở chốn nào lại chơi?”
1985. Dối quanh, Sinh mới liệu lời:
“Tìm hoa quá bước, xem người viết kinh.”
Khen rằng: “Bút pháp đã tinh,
So vào với thiếp Lanhương đình nào thua!
Tiếc thay lưu lạc giang hồ,
1990. Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài!”
Thuyền trà cạn nướcchén hồng mai,
Thong dong nối gót thư trai cùng về.

Nàng càng e lệ ủ ê,
RỉKề tai, hỏi lại Hoa tì trước sau.
1995. Hoa rằng: “Bà đến đã lâu,
Dón chừngchân đứng núpDừng chân đứng lại độ đâu nửa giờ.
Rành rành kẽ tóc chân tơ,
Mấy lời nghe hết, đã dư tỏ tường.
Bao nhiêu đoạn khổ, tình thương,
2000. Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than.
DặnNgăn tôi đứng lại một bên,
Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.”
Nghe thôi kinh hãi xiết đâu:
“Đàn bà thế ấy, thấy âu một ngườidường ấy, dễ hầu có hai!
2005. Ấy mới gan, ấy mới tài!
Nghĩ càng thêm nỗi sởn gaiđắng cay rụng rời!
Người đâu sâu sắc nước đời,
Mà chàng Thúc phải ra người bó tay!
Thực tang, bắt được dường này,
2010. Máu ghen, ai cũng chau mày nghiếncắn răng.
Thế mà im chẳngêm ả đãi đằng,
Chào mời vui vẻ, nói năng dịu dàng!
Giận dầu ra dạ thế thường,
Cười dầu mới thực khôn lường hiểm sâu.

2015. Thân ta, ta phải lođăm âu,
Miệng hùm, nọc rắn, ở đâu chốn này!
chăngkhông chắp cánh cao bay,
TrèoRào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa.
Phận bèo bao quản nước sa,
2020. Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.
Chỉn e quê kháchquán một mình,
Tay không chưa dễ tìm vành ấm no!”
Nghĩ đi, nghĩ lại quanh co,
Phật tiền, sẵn có mọi đồ kim ngân.
2025. Bên mình giắt để hộ thân,
Lần nghe canh đã một phần trống ba.
Cất mình qua ngọn tường hoa,
Lần đường theo bóng trăng tà về tây.
Mịt mù dặm cát đồi cây,
2030. Tiếng gà điếm nguyệtcỏ, dấu giày cầu sương.
Canh khuya thân gái dặm trường,
Phần e đường sá, phần thương dãi dầu!
Trời đông vừa rạng ngàn dâu,
Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà.


Đoạn này ứng với Hồi 16 trong nguyên truyện: “Quan Âm các mạo hiểm tương thị; Văn Thù am đào tình đề vịnh” 觀音閣冒險相視;文殊庵陶情題詠 (Gác Quan Âm, mạo hiểm gặp nhau; Am Văn Thù, hứng tình đề vịnh).


[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]