Bài thơ có 5 dị bản, hãy chọn bản muốn xem:

1 Bản quốc ngữ do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu đính

2 Bản Liễu Văn đường (1866), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm (thiếu từ câu 1873)

3 Bản Liễu Văn đường (1871), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm

4 Bản Lâm Noạ Phu (1870), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm

5 Bản Kiều Oánh Mậu (1902), do Nguyễn Thế và Phan Anh Dũng phiên âm

Ngậm miệng dám kêu oan, đoạ thân địa ngục;
Sao kinh khuây nỗi ức, gửi bóng thiền am.


Lần lần tháng trọn ngày qua,
1790. Nỗi gần nào biết đường xa thế này?
Lâm Chuy từ thuởbạch trụ uyên bay,
BuồngPhòng không, thương kẻ tháng ngày chiếc thân.
Mày xanhai, trăng mới ingiáp ngần,
Phấn thừa, hương cũ, bội phần xót xa.
1795. Sen tàn, cúcmai lại nởchiếng hoa,
Sầu dài, ngày ngắn, đông đà sang xuân.
Tìm đâu cho thấy cố nhân?
Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương.
Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương,
1800. Nhớ quê, chàng lại tìm đường thăm quê.
Tiểu thư đón cửa giãđêm giề,
Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.
Nhà hươngxuân cao cuốn bức là,
BuồngPhòng trong, truyền gọi nàng ra lạy mừng.
1805. Bước ra một bước, một dừng,
Trông xa, nàng đã tỏ chừng nẻo xa:
“Phải rằng nắng quángquan, đèn loà,
Rõ ràng ngồi đó, chẳngchăng là Thúc Sinh?
Bấy giờ, tình mới tỏĐến bây giờ mới biết tình,
1810. Thôi thôi đã mắc vào vành, chẳng sai!
Chước đâu, có chước lạ đời!
Người đâu mà lại có người tinh ma!
Rõ ràng thật lứa đôi ta,
Làm ra con ở, chủ nhà đôihai nơi!
1815. Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm, giếtchết người không dao.
Bây giờ đất thấp, trời cao,
Ăn làm sao, nói làm sao bây giờ?”
Càng trông mặt, càng ngẩn ngơ,
1820. Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời.
Sợ uy, dám chẳng vâng lời,
Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.

Sinh đà pháchphất lạc hồn xiêu:
“Thương ôi! Chẳng phảiNọ chẳng nàng Kiều ở đây?
1825. Nhân làm sao đến thế này?
Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồimặt thù!”
Sợ quen, dám hởngỏ ra lời,
Khôn ngăn giọt ngọc, sụt sùi nhỏ sa.
Thương ôi! mảnh sắt vào lò,
Bấy lâu nay biết giày vò đến đâu.
Nỗi lòng chẳng đánh mà đau,
Đang cười nói bỗng mặt rầu lệ sa.

Tiểu thư trông mặt hỏi tra:
1830. “Mới về có việc chi mà động dong?”
Sinh rằng: “Hiếu phục vừa xong,
Suy lòng trắc khởi, đau lòng chung thiên!”
Khen rằng: “Hiếu tử đã nên!
Tẩy trần, mượn chén giải phiền đêm thu.”
1835. Vợ chồng chén tạc, chén thù,
Bắt nàng đứng chực trì hồ hairót rượu chực hầu đôi nơi.
Bắt khoan, bắt nhặt, đến lời,
Bắt quỳ tận mặt, bắt mời tận tay.
Sinh càng như dại, như ngây,
1840. Giọt dài, giọt ngắn, chén đầy, chén vơi.
NgảnhDựngNgoảnh đi, chợt nói, chợt cười,
CáoGiả say, chàngvội đã giạmtínhđạm bài lảng racáo qua.
Tiểu thư vội thét: “Con Hoa!
Khuyên chàng chẳng cạn, thì ta đánhNói vào những phép, giở ra những đòn!”
1845. Sinh càng nát ruột, tan hồn,
Chén mời, phải ngậm bồ hòn, ráo ngay!
Tiểu thư cười nói tỉnhtỉnh, nói say,
Chưa xong cuộc rượu, lại bày trò chơi.
Rằng: “Hoa Nô đủ mọi tài,
1850. Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe!”
Nàng đà tán hoán, tê mê,
Vâng lời, ra trước bìnhtriển the, vặn đàn.
Bốn dây như khóc, như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng!
1855. Cũng trongCùng trongCùng chung một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầmngầm.
GiọtHạt châu lã chã khôn cầm,
Cúi đầu, chàngnàng những gạt thầm giọt sươnghạt sươnggiọt Tương.”
Tiểu thư lại thétnẹt lấy nàng:
1860. “Cuộc vui, gảy khúc đoạn tràng ấy chi?
Sao chẳngkhông biết ý tứ gì?
Cho chàng buồn bã, tội thì tại ngươi!”
Sinh càng thảm thiết bồi hồi,
Vội vàng gượng nói, gượng cườinói nói, cười cười cho qua.
1865. GiọtKhúc rồng canh đã điểm ba,
Tiểu thư nhìn mặt, dường đà cam tâm.
Lòng riêng tấp tểnhkhấp khởi mừng thầm:
Vui nàyĐêm nay đã bõ đau ngầm xưa nay!”

Sinh thìcàng gan héo, ruột đầy,
1870. Nỗi lòng, càng nghĩ càng cay đắng lòng.
Người vào chung gối loan phòng,
Nàng ra tựa bóng đèn dongchong canh dài.
[...]Bây giờ mới rõ tăm hơi,
Máu ghen, đâu có lạ đời nhà ghen!
1875. Chước đâu rẽ thuý, chia uyên!,
Ai ra đường nấyấyđao, ai nhìn được ai.
Bây giờ một vực, một trời,
Hết điều khinh trọng, hết lời thị phi.
Nhẹ như bấc, nặng như chì,
1880. Gỡ cho ra nữara cho khỏicho ra nợ, còn gì là duyên!
Lỡ làng chút phận thuyền quyên,
Bể sâu, sóng cả, có tuyền được vay?
Một mình âm ỉ đêm chầy,
Đĩa dầu vơi, nước mắt đầy năm canh.
1885. Sớm khuya hầu hạ đài doanh,
Tiểu thư chạm mặt, đè tình hỏi tra.
Lựa lời, nàng mới thưa qua:
“Phải khi mình lại xót xa nỗi mình.
Tiểu thư hỏi lại Thúc Sinh:
1890. Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao!“
Nét sầu khôn cưỡng, giọt tình còn hoen.
Tiểu thư trông liếc quở liền,
“Sa mày nặng mặt bởi duyên cớ gì?”
Bì tiên giao lại tức thì,
1890. Cậy chàng hỏi nó: “Rằng vì làm sao!“

Sinh đà rát ruộtruột héo như bào,
Nói ra chẳng tiện, trông vào chẳngsao đang!
Những e lại luỵ đến nàng,
Đánh liềuLấy lòng mới sẽ lựa đường hỏi tra.
1895. Cúi đầu quỳ trước sân hoa,
Loanh quanh cua lọt bò sàng,
Sợ đây thương đó hai đàng chưa xong.
1895. Dưới thềm, trên ghế cùng trông,
Một lời chưa mở hai dòng đã sa.
Lấy lòng giả cách hỏi tra,

Thân cung nàng mới dângđã trìnhmới thảolên qua qua một tờlời.
Diện tiền trình vớiXem rồi đưa lại tiểu thư,
Thoắt xem dường cũng ngẩn ngơ chút tình.
Liền tay trao lại Thúc Sinh,
1900. Rằng: “Tài nên trọng, mà tình nên thương!
chăng có số giàu sang,
GiáTrái này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!
Bể trần, chìm nổi thuyền quyên,
Hữu tàitình, thương nỗi vô duyên lạ đời!”
1905. Sinh rằng: “Thật có như lời,
Hồng nhan bạc mệnh, một người nào vay.
Nghìn xưa âu cũng thế này,
Từ biBây giờ âu liệu bớt tay mới vừa.”
Tiểu thư rằng: “Ý trong tờ,
1910. Rắp đem mệnh bạc, xin nhờ cửa Không.
Thôi thìthôi thôi, cũng chiều lòng,
Cũng cho nghỉ nghịcho nghỉ trong vòng bước ra.
Sẵn Quan Âm các vườn ta,
Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa.
1915.cổthảo thụ, có sơn hồ
Cho nàng ra đó giữ chùa, tụngchép kinh.”

Tâng tâng trời mới bình minh,
Hương hoa, ngũ cúng, sắm sanh lễ thường.
Đưa nàngchàng đến trước Phật đường,
1920. Tam quy, ngũ giới, cho nàng xuất gia.
Áo xanh đổi lấybức cà sa,
Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền.
Sớm khuya tính đủ dầu đèn,
Xuân, Thu, cắt sẵn hai tên hương trà.
1925. Nàng từ lánh gótdấu vườn hoa,
Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng.
Nhân duyên đâu lại còndám cònnữa mà mong?
Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi.
Phật tiền thảm lấp, sầu vùikhơi,
1930. Ngày pho thủ tự, đêm nhồinồi tâm hương.
Cho hayMát thay giọt nước cành dương,
LửaTỏTro lòng tướirẩy tắt mọi đường trần duyên.
Nâu sồngSồng nâu từ trở màu thiền,
Sân thu trăng đã vàihai phen đứng đầu.
1935. Quan phòngCửa phòngCửa thiền, then nhặt, lưới mau,
Nói lời trước mặt, rơi châu vắng người.
Gác kinh, viện sách, đôi nơi,
Trong gang tấc, lại gấp mười quan san.


Đoạn này ứng với Hồi 15 trong nguyên truyện: “Hoạt địa ngục nhẫn khí thôn thanh; Giả từ bi tả kinh liễu nguyện” 活地獄忍氣吞聲;假慈悲寫經了願 (Địa ngục trần gian, nhịn hơi nuốt tiếng; Từ bi giả bộ, viết kinh tạ thân).


[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]