Trang trong tổng số 3 trang (28 bình luận)
[1] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối
Đăng bởi Nguyen Trong vào 25/01/2007 03:55
Vẽ tôi con Lợn cầm tinh
Con Gà cầm tháng con Tình cầm tay
(Nguyễn Trọng Tạo)
Mùa đông 1978 buốt lạnh và triền miên những bữa cơm ăn hạt bo bo. Những tranh chấp biên giới Tây – Nam đã đến độ căng thẳng. Những người lính tình nguyện Việt Nam lại một lần nữa dấn thân gúp bạn Campuchia để nhằm xoá sạch “nạn diệt chủng Pôn Pốt”. Những giai điệu ngợi ca họ lại vang lên nóng bỏng. Lúc ấy tôi đang chuẩn bị viết một chùm ca khúc để trả bài cho lớp sáng tác thì bỗng thấy bài thơ Hát ru em bé Campuchia của Nguyễn Trọng Tạo trên báo Văn Nghệ. Bài thơ đầy nhạc tính. Thế là tôi dựa vào một nét dân ca Campuchia, phổ nhạc bài thơ này. Ca khúc Hát ru em bé Cămpuchia hoàn thành, được thầy Vũ Trọng Hối khen, rồi được thu thanh mở đầu cho băng ca nhạc Campuchia chiến đấu và hy vọng. Lúc ấy tôi chưa hề gặp Nguyễn Trọng Tạo mà chỉ biết hắn cũng làm thơ làm nhạc như mình. Vào một sáng mùa đông năm đó, Nguyễn Đình Chính đưa tôi đến Trại sáng tác Quân đội ở làng Khương Hạ. Ở đấy, tôi đã gặp Nguyễn Trọng Tạo và Nguyễn Hoa. Không cần rào trước đón sau, chúng tôi đọc thơ và hát cho nhau nghe trong men nồng “quốc lủi”. Và từ ngày ấy, chúng tôi thành “Ba anh em họ Nguyễn” như nghĩa cử Lương Sơn Bạc cho đến tận hôm nay.
Nguyễn Trọng Tạo quê Diễn Châu, Nghệ An. Đấy là vùng đất Hoan Diễn của xứ Âu Lạc xưa, nơi có đền Công thờ Thục An Dương Vương với huyền sử vua cha chém Ái nữ Mỵ Châu rồi tuẫn tiết trên đèo Mụ Dạ, nơi có Lèn Hai Vai như vị tướng bị chặt đầu và sông Bùng như dòng nước mắt của bà tướng khóc chồng tuôn trào ra biển. Nguyễn Trọng Tạo sinh ra ở đấy vào ngày 25-8-1947, trùng với ngày sinh và ẩn tuổi Hợi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Không biết có phải do trời tạo, đất sinh mà từ miền quê huyền sử ấy đã hun đúc nên một chàng nghệ sĩ đa tài “cầm-kỳ-thi-hoạ” cho thời hiện đại này. Đa tài sau Văn Cao và Nguyễn Đình Thi.
Tôi có ý nghĩ như vậy, bởi khi tôi gặp Tạo, hắn đã có thơ in thành tập, đã đoạt liền ba giải thưởng thơ hay trong năm của ba tờ báo lớn, đã từng vẽ tranh bán ở chợ Vinh thuở thiếu thời, và vừa viết xong bài hát Làng Quan Họ quê tôi phỏng lời thơ của Nguyễn Phan Hách. Bài hát đã được Thanh Hoa cùng tốp nữ Đài Tiếng Nói Việt Nam thu thanh, để rồi nổi tiếng mãi đến bây giờ và chắc còn vang mãi mai sau. Nghe nói hồi nhỏ Tạo đã tự làm một chiếc đàn violon khá đẹp và đã có lần diễn tấu cho toàn trường cấp 3 Diễn Châu nghe, nhưng từ khi gặp Tạo, tôi chưa hề thấy hắn chơi một loại nhạc cụ nào, mà xướng âm thì khá vững. Còn vốn hoà âm, khúc thức… Tạo thụ hưởng từ thầy Ngô Trí Thậm và qua vài lớp sáng tác âm nhạc trong quân đội cũng đã đủ để viết ra một tổ khúc hợp xướng Đất nước Bác Hồ và cuộc hành quân không nghỉ khá hoành tráng thời chống Mỹ cứu nước. Vậy nên, đó cũng là tạng của một nhạc sĩ dị biệt. Về thơ, cũng ngay từ dạo ấy, Tạo đã có những đột phá mang khát vọng cách tân như không nhiều nhà thơ khác thời đầu thanh bình. Tạo khởi xướng ra “Thơ đời thường” nhằm đối trọng với thơ tụng ca nhan nhản lúc bấy giờ, để rồi phóng ra một Tản mạn thời tôi sống giữa năm 1981 làm chấn động thi đàn. Với thơ, Tạo vô cùng khó tính. Tôi có bài thơ Những giọt mưa làm lại đến lần thứ ba rồi mà Tạo đề nghị tôi “giỡ ra làm lại, không thì tiếc quá”, và tôi đã làm theo đề nghị của hắn, để có được bài thơ Những giọt mưa đồng hành đoạt giải báo Văn nghệ sau đó. Chúng tôi chơi với nhau như vậy, bươn trải hết biên giới Tây – Nam lại biên giới Bắc. Rồi cả “Ba anh em họ Nguyễn” đều cùng về học Trường Viết Văn Nguyễn Du khoá đầu tiên.
Đấy là những ngày tụ quần ấm áp không bao giờ quên. Ấm áp và trong trẻo. Lúc đó Trại sáng tác Quân đội đã chuyển về Vân Hồ. Tạo và Nguyễn Hoa ở chung một phòng. Hành trình hai chiều Vân Hồ với nhà tôi 60 Hàng Bông là hành trình đi về trong thương mến của “Ba chàng họ Nguyễn” chúng tôi. Khi thì tôi tới Vân Hồ, khi thì Tạo và Nguyễn Hoa lên Hàng Bông. Ở không gian nào thì cũng vẫn là rượu, thơ và nhạc. Đấy là thời kỳ tích điện và bắt đầu phóng ra vài luồng điện lạ vào đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Một trong những luồng điện lạ đó của Tạo là bài thơ dài Tản mạn thời tôi sống. Bài thơ nhức nhói bao nhiêu câu hỏi đòi phải được trả lời, đòi phải có sự chuyển đổi. Đó là thơ “Đổi mới trước Đổi mới” như có nhà phê bình nhận xét: “Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi/ Câu trả lời… thật không dễ dàng chi”. Bài thơ được công chúng hào hứng đón nhận, nhưng cũng chính bài thơ đó đã dội ngược về Tạo bao nhiêu áp lực của những thế lực bảo thủ đương nhiệm. Những khát vọng cách tân của chúng tôi “đi tìm ngọn lửa nào mới mẻ cho thơ” đã vấp phải những lực cản mạnh mẽ. Và Tạo là người đầu tiên phải trả giá cho khát vọng này. Anh buộc phải dở dang khoá học ở Trường Nguyễn Du, nhận lệnh của quân đội “Đi nhận nhiệm vụ mới”, nhưng thực ra là về lại đơn vị cũ ở Quân Khu Bốn, nơi anh đã gắn bó suốt cả thời chiến tranh. Song ở đời, bao giờ “cùng” cũng “tắc biến”. Khi con người đã mang trong mình khát vọng, thì ở đâu, khát vọng đó cũng có thể biến thành hiện thực. Khát vọng đó đã được Tạo viết trong tập thơ Thư trên máy chữ gửi gắm tới bạn bè quan niệm nghệ thuật của mình ngay sau những ngày đầu rời xa Hà Nội: “Rồi một ngày thành phố sẽ nổ tung/ Bởi những hạt Sự Thật”. Đêm lột xác ấy có gì vừa tan vỡ vừa đau đớn. Đấy là đêm tiễn Tạo về lại Khu Bốn, chúng tôi thức uống cùng nhau trắng khuya. Vừa chớm sáng thì Tạo lên đường. Còn tôi và Nguyễn Hoa thì ở lại với ý chí “chai rượu vỡ vụn/ chứng tỏ là thuỷ tinh” của Tạo đang vương vãi muôn mảnh xung quanh.
Những năm tháng “hoạ vô đơn chí” đã ập đến nặng nề như muốn đánh gục Tạo. Giấc mơ sau chiến tranh về Hà Nội làm văn chương tan vỡ. Vợ chồng thì ly hôn. Cô em gái ruột dạy học tận Đắc Lắc bị nhiễm độc máu. Tạo phải bám bệnh viện để chăm sóc người em chỉ còn 1% hy vọng sống. Nhờ đức độ của giám đốc Nhà Văn Hoá Quân Khu Bốn – nhà văn Đậu Kỷ Luật, Tạo được phép công tác trong “cơ chế thoáng” để có thể tháng này Đắc Lắc, tháng sau Đà Nẵng, tháng sau nữa Hà Nội… theo cùng em gái. Vừa chăm sóc em, Tạo vừa viết báo vừa đi nói chuyện thơ và làm đủ mọi việc để có tiền cho em chữa bệnh. Chính sự tận tình nuôi em của Tạo đã làm lay động con tim bao bác sĩ và bạn bè. Mọi người đều sắn tay vào cuộc với Tạo. Và sau 6 tháng trời ròng rã ở bệnh viện với 3 lần thay máu, 1 lần phẫu thuật, cô em ruột đã thoát khỏi lưỡi hái tử thần, trở về quê tiếp tục nghề dạy học. Thật là một kỳ tích ngoài nghệ thuật. Một kỳ tích nhân bản sau bài thơ Làng có một ngày như thế và bài hát Làng Quan Họ quê tôi.
Sau khi hoàn thiện kỳ tích trên, Tạo rảnh rang thời gian giành cho nghệ thuật. Tạo viết liên tiếp hai cuốn văn xuôi cho thiếu nhi là Miền quê thơ ấu và Ca sĩ mùa hè, sau này được tái bản nhiều lần và được giải thưởng Văn học nghệ thuật Cố Đô; cho xuất bản tập truyện ngắn Khoảnh khắc thời bình trong đó có truyện được dịch ra nhiều thứ tiếng. Hàng loạt bài thơ mới và trường ca Tình ca Người lính ra đời. Năm nào Tạo cũng ra Hà Nội “cho đỡ nhớ”, và mỗi lần chia tay, Tạo lại đề nghị đến Thuỷ Tạ uống bia hơi để “nhắm một miếng Hồ Gươm”. Thỉnh thoảng chúng tôi lại thu xếp cùng nhau một chuyến song hành xuyên Việt. Vừa đi vừa tích điện, vừa phóng điện. Những cuộc rượu bật sáng. Những sẻ chia ngất ngưởng với Thanh Thảo, Trần Hinh. Những dào dạt nồng men với Trịnh Công Sơn, Đinh Cường… “Ba chàng họ Nguyễn” chúng tôi quyết định ấn hành một tập thơ chung tại nhà xuất bản Hà Nội để làm kỷ niệm - tập Sóng nhà Đêm biếc Tôi yêu năm 1986. Đấy cũng là năm bắt đầu của thời kỳ Đổi mới.
Qua nửa thập niên phiêu bạt giang hồ lãng tử, Tạo lập gia đình và định cư tại Huế. Những năm tháng “sông Hương hoá rượu ta đến uống/ ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say” cùng bạn bè Huế, nói như Tạo: “Sông Hương và Huế đã ném vào thơ tôi một vốc sương mù”. “Người ham chơi” Nguyễn Trọng Tạo đã cho ra hàng loạt tác phẩm thơ Sóng Thuỷ tinh, Gửi người không quen, Thư trên máy chữ và Tản mạn thời tôi sống, và đặc biệt nhất là Đồng dao cho người lớn tung ra cái nhịp chẵn trì tục như một cách tân phương Đông làm ngỡ ngàng những người làm thơ, đọc thơ vốn quen nếp cũ. Tập thơ xứng đáng được trao giải thưởng Hội Nhà Văn Việt Nam, nhưng tiếc thay khi vào chung khảo nó đã bị Thư mùa đông của Hữu Thỉnh đánh gục, khiến bao người yêu thơ buồn tiếc. Tạo hơi bị đau một chút, nhưng hắn lại gượng dậy đưa ra một tiết tấu pop Nghệ cho ca khúc Đôi mắt đò ngang tình tứ đến quyết liệt, khiến tác giả Xa khơi Nguyễn Tài Tuệ thán phục như một bước tiến trong khai thác âm hưởng ví dặm. Rồi hắn lại lãng đãng với một Con dế buồn đồng cảm cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường qua giọng hát Mỹ Linh quyến rũ đến mê hồn…
“Người ham chơi” Nguyễn Trọng Tạo vẫn chưa chịu dừng lại. Lãng du 15 năm như nàng Kiều ở miền Trung, hắn lại quay về Hà Nội “nương thân” tít trên tầng sáu của nhà tập thể Phương Mai thực hiện giấc mơ xưa. Cứ tưởng ra Hà Nội để làm báo Thơ lại rơi về làm Tạp chí Âm nhạc cùng tôi sau khi đã cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Quang Lập khởi ra tạp chí Cửa Việt nổi đình đám, và đã vẽ măng-sét mới, dựng “phom” mới cho tạp chí Sông Hương. Vẫn một quyết liệt cách tân thơ theo kiểu riêng hắn. Vẫn một lối uống rượu có khi xuyên đêm không cần ngủ. Vẫn một tụ quần bè bạn đầy thương mến để rồi lại trào ra một Khúc hát sông quê đồng điệu qua thơ Lê Huy Mậu da diết đến tận gan ruột người xa xứ, bởi giọng nhấn nhá như lên đồng của Anh Thơ. Bên cạnh tạp chí Âm Nhạc, Tạo thuyết phục Hữu Thỉnh ra báo Thơ, và chính hai tay hắn đã dựng lên tờ báo Thơ (cũng như vẽ cờ Thơ cho Ngày Hội Thơ) để trang trải khát vọng về thơ Việt của mình. Hình như một mình hắn cặm cụi trong lặng lẽ vừa thu gom bài vở, vừa biên tập tỉ mỉ, vừa trình bày rất “moder” giống như đã từng trình bày Cửa Việt và làm biết bao bìa sách khá tân kỳ đã từng đoạt giải thưởng. Báo Thơ do Tạo “tự nấu nướng” đã tồn tại được hai năm với biết bao lời tán thưởng.
Song, hình như từ khi sang thế kỷ mới, với một tâm niệm không chịu “lưu ban thế kỷ cũ”, muốn tự mình làm những gì mình tâm huyết và thích thú, mùa thu 2005 “Người ham chơi” Nguyễn Trọng Tạo tự gò mình vào công việc mới kết hợp cùng bạn bè ở Sài Gòn lập ra công ty VVT mà hắn thường gọi đùa là “Vừa vừa thôi”, “Vừa và to”, “Vui và thú”, “Vớ vẩn thế”… Nhưng thực ra VVT là chữ viết tắt của Văn hoá và Truyền thông, với những chức năng làm văn hoá nghệ thuật vốn là sở trường của Tạo. VVT đã làm sách văn học, trong đó Tạo rất tâm đắc với tập sách “Những nhà thơ giải thưởng Nobel” dày chẵn nghìn trang khổ lớn, và vừa qua đã kết hợp với tạp chí Sân Khấu ra phụ san hàng tháng mang tên Sao Việt với ý tưởng là “ngôi nhà chung của hiền tài” mà hắn và cộng sự đã nung nấu từ lâu. Đúng là một cuốn tạp chí “đẹp để đọc” chứ không phải “đẹp để nhìn” như nhiều tạp chí màu mè loè loẹt hiện nay.
Đã gần qua tuổi tri thiên mệnh, xem ra “Người ham chơi” con Hợi cầm tinh vẫn chưa chịu ngồi chiếu lão làng. Tập thơ mới Thế giới không còn trăng gồm 60 bài của Tạo lại đĩnh đạc trình làng sau 7 năm tận lực cho thơ. Hình như hắn vẫn cứ “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” cho thoả chí làm trai tang bồng cùng trời đất. Vâng, nếu không thế thì hắn không còn là Tạo nữa.
Đăng bởi Nguyễn Trọng Tạo vào 23/02/2007 22:34
LÊ MỸ Ý (LMY): Thưa ông Nguyễn Trọng Tạo, trong cuộc phỏng vấn này, tôi đang được trò chuyện với nhà thơ hay nhạc sĩ, hay là cả hai?
NGUYỄN TRỌNG TẠO (NTT): Cứ trò chuyện với Nguyễn Trọng Tạo là được rồi. Còn các “chức” danh khác, chẳng qua người ta đặt cho thôi.
LMY: Và ông còn là một hoạ sĩ nữa. Ông đã từng thiết kế hàng trăm bìa sách và đã đoạt hai giải thưởng bìa sách?
NTT: Tôi không nghĩ mình là hoạ sĩ, nhưng cũng có thế đấy. Với tôi, thơ là nghiệp, nhạc là hứng, hoạ là chơi. Hay nói cách khác, thơ là chánh quán, nhạc là trú quán, hoạ là trọ quán.
LMY: Vậy tôi xin được bắt đầu từ thơ của ông. Ông là người đã xuất bản rất nhiều tập thơ, và Đồng dao cho người lớn hình như được đánh giá cao hơn cả?
NTT: Vâng, đúng là tôi tâm đắc nhất với tập thơ Đồng dao cho người lớn, viết tại Huế từ năm 1986 đến năm 1994. Đây là một tập thơ tôi đã viết khác hẳn hệ thống thơ chống Mỹ. Những nhà thơ trước đó thường viết theo lối ca ngợi, ca ngợi dân tộc, ca ngợi đất nước, ca ngợi lý tưởng, ca ngợi nhân dân. Đến tập thơ này của tôi, tôi đã viết với một tinh thần rằng, chúng ta hãy sống trong sự mờ ảo của tâm hồn con người, chúng ta phải biết đi qua hết những gì quá rõ ràng như giới tuyến Bắc Nam. Mặc dù trong thời chống Mỹ, để vượt qua được giới tuyến Bắc Nam là một điều quá thiêng liêng, cụ thể là máu xương của cả dân tộc. Nhưng vượt qua giới tuyến rồi, chúng ta còn phải vượt qua sự huyền ảo của con người. Sự huyền ảo ấy chính là tiếng nói thơ ca hiểu theo một cách rộng rãi nhất, là một Nhân Văn không còn biên giới. Suốt một thời làm thơ, tôi là một người thích chiêm nghiệm, và cũng là một người thích đổi mới. Nhưng có lẽ chỉ sống ở Huế, tôi mới thấy hết sự huyền ảo của nghệ thuật, mới ý thức thực sự nghệ thuật là tinh thần huyền ảo trong trần gian. Nó làm nhoè mờ các ranh giới và vượt thoát ra ngoài các ranh giới. 500 năm trước đây, đại thi hào Nguyễn Trãi đã tìm ra được 3 chữ “An-Nhữ-Chỉ”, nghĩa là, hãy yên tâm trong đường chỉ giới của chính mình. Nhưng đến thế kỷ XX, Yanit Ritsot (HyLạp) đã phát hiện ra rằng, “nếu tôi thấy được chân giới của tôi, tôi sẽ xuyên qua chân giới ấy”. Chỉ vì một đường chân giới mà người ta mất 5 thế kỷ mới đi qua được. Đấy là cuộc đi qua bức tường Đông Tây. Cũng như sự đập vỡ bức tường Berlin vậy. Còn chúng ta thì phải đi qua chiến tranh suốt 20 năm mới nhận diện được sự huyền ảo trong thơ ca nghệ thuật. Do vậy, tôi nghĩ rằng, tôi đã cố gắng đi qua chân giới để làm nên tập thơ “Đồng dao cho người lớn”, một tập thơ mà người ta vẫn thường nhắc tới khi nói về thơ ca Việt Nam sau 1975.
LMY: “Sự thực của tinh thần huyền ảo trong trần gian” mà ông nói trong tập thơ của mình, hiểu rộng hơn, cụ thể hơn là gì, thưa ông?
NTT: Đó là sự huyền ảo tâm linh của con người. Nó nói lên tất cả những đau xót, sự nghĩa lý, những nhân tình thế thái của cuộc đời một cách huyền ảo. Những thứ mà trước đây người ta vẫn thường hiểu rành rọt, về sau thì khác, theo một tinh thần huyền ảo. Ngay trước thời gian ở Huế, ở Hà Nội tôi cũng thường hiểu mọi thứ một cách rành rọt, nhưng khi về ở Huế, tôi đã có thêm con mắt thứ ba để nhìn sự vật. Con mắt bịa đặt. Nghệ thuật huyền ảo chẳng qua là một sự bịa đặt, nhưng sự bịa đặt ấy làm cho người ta tin là thật, hơn cả thật, đấy là những trạng thái sống vô cùng kỳ lạ. Trước đây, chúng ta đã biết một G. Macket của chủ nghiã hiện thực huyền ảo, và trước cả ông, là một bậc thầy F. Kapka. Tôi không phải là Macket hay Kapka, nhưng vẫn nói ra được sự thật một cách “bịa đặt” mà người ta có thể tin.
LMY: Thưa ông, tại sao chỉ có thể ở Huế, thơ ông mới mang một tinh thần huyền ảo? Những nhà thơ khác không ở Huế thì không có tinh thần ấy trong thơ ư?
NTT: Tôi chỉ nói riêng trường hợp tôi. Ở Huế, tôi thấy có nhiều điều kiện. Thứ nhất, không gian Huế rất lạ lùng, nó nằm giữa hư và thực. Thiên nhiên Huế là một thiên nhiên mơ hồ. Thứ hai, ở Huế, người ta có một tâm thái rất cục bộ. Tôi là dân ngụ cư nên càng mơ hồ bao nhiêu càng dễ hoà nhập bấy nhiêu. Một điều nữa, trong tâm thái mình bắt gặp có sự mơ hồ ấy mà sinh ra huyền ảo. Có lẽ những nhà thơ trụ cột của Việt Nam thế kỷ XX đều từng sống ở Huế: Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên... Xa hơn nữa là Cao Bá Quát, Nguyễn Du... Tôi có cảm giác như là nếu không sống ở Huế thì người ta không thể làm thơ như thế. Đến như văn Hoàng Phủ Ngọc Tường hay nhạc Trịnh Công Sơn cũng trở thành ảo diệu một cách riêng biệt. Tuy nhiên, những điều ấy chỉ xảy ra với những người có thực tài mà thôi. Còn một điều nữa, tôi nghĩ Huế một thời là thủ phủ của đạo Phật, cái sắc sắc không không ấy của Phật giáo đã đi vào tâm thức huyền ảo của thơ ca. Nguyễn Bính là một trường hợp bén duyên với Huế hết sức kỳ lạ, chỉ cần 3 tháng ở Huế cũng đủ để ông trở thành một nhà thơ mà lịch sử văn học không thể không nhắc tới.
LMY: Đã có “duyên nợ” nào giữa ông và Huế vậy, thưa ông?
NTT: Tôi lấy vợ Huế, sinh con ở Huế, sống ở Huế, làm thơ ở Huế. Duyên nợ ấy xem như tiền định.
LMY: Có phải vì tiền định ấy mà thơ ông luôn phảng phất nét Huế? Còn nhiều nghệ sĩ cũng đã vì Huế mà “nối vòng tay lớn” cùng nhau?
NTT: Tôi nghĩ nó không chỉ “phảng phất nét Huế” đâu, mà chính là thấm đậm hồn Huế. Cũng như Bùi Giáng và Thu Bồn bắt thần Huế nhốt vào câu thơ của họ: Dạ thưa xứ Huế bây giờ - Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương, hay Con sông dùng dằng con sông không chảy - Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu, tôi cũng có câu thơ để cho Huế nhớ: Sông Hương hoá rượu ta đến uống - Ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say. Nhắc đến thơ Huế sau 1975, có người nói rằng, nếu không có Nguyễn Trọng Tạo thì Huế sẽ hẫng hụt, sông Hương sẽ chảy mạnh hơn nhiều, bởi họ nghĩ thơ tôi đã cân bằng lại sông Hương bằng những câu thơ: Sông Hương cân bằng thành thị với làng quê, hay: vầng trăng loã thể ướt đầm - sẩy chân thi sĩ vớt nhâm mỹ nhân. Đúng là duyên kiếp tiền định. Nhưng tôi vẫn nghĩ, những người tài họ vẫn gặp nhau, họ nối vòng tay lớn qua Huế, hay vì Huế thì tôi không rõ. Còn tôi, nói khiêm tốn tôi tài mọn, nhưng cũng nhờ Huế mà có tình bạn với Hoàng Phủ Ngọc Tường và Trịnh Công Sơn, hai nhà văn hoá hành văn mà tôi vô cùng kính nể.
LMY: Sinh ở Nghệ An, từng ở Huế, bây giờ là Hà Nội, sau này ông sẽ định cư thật sự ở đâu?
NTT: Điều ấy quan trọng thế sao? Thôi thì thế này, năm 1975 tôi đi qua Huế và thiển nghĩ rằng, nếu làm văn chương thì nên ở Hà Nội, làm kinh tế thì nên ở Sài Gòn, về hưu thì nên ở Huế. Nhưng tôi lại là một người sáng tác, sáng tác làm gì có hưu (cười).
LMY: Nghĩa là ông sẽ không bao giờ ở Huế nữa?
NTT: Ít nhất là đến lúc này, tôi vẫn nghĩ là tôi ở Hà Nội. Nhưng càng ngày, tôi càng nhớ cái làng nhỏ có núm rau của tôi bên bờ sông Bùng xứ Nghệ.
LMY: Trở lại với tập thơ “Đồng dao cho người lớn”, khi viết lời tựa tập thơ này, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đặt cho ông cái tên là “Người Ham Chơi”? Ông có thích từ này và thấy mình “ham chơi”?
NTT: Người Ham Chơi là một danh hiệu quá sang cho một thi sĩ, hay nói rộng hơn là cái từ quá sang cho một nhà sáng tạo. Bởi vì nếu có một người nói mình giỏi mà không biết chơi thì tôi chưa tin người ấy giỏi; còn nói mình biết chơi mà không giỏi thì là chuyện bình thường; nhưng bất cứ một người nào vừa làm giỏi vừa chơi giỏi thì đấy mới thực là người chơi vĩ đại. Nói cho cùng, khi Hoàng Phủ Ngọc Tường dùng từ Người Ham Chơi theo gốc chữ Latinh là Homoludus, thì tự nó đã mang theo cả nghĩa người làm lẫn người biết rồi. Tôi hiểu, phải quí tôi lắm Hoàng Phủ mới gọi như vậy. Hình như danh hiệu Người Ham Chơi, Hoàng Phủ chỉ dành cho Nguyễn Trọng Tạo và Nguyễn Công Trứ - người đồng hương xứ Nghệ. Đấy là một quà tặng vô giá. Nhưng nếu không chơi với tôi, chắc chi Hoàng Phủ đã hào phóng như vậy.
LMY: Vâng, người ta sẽ bất ngờ khi thấy ông không “ham chơi” chút nào. Rất nhiều tập thơ, tập văn, bài báo, bìa sách, minh hoạ, ca khúc, và các bài viết mang tính lý luận phê bình...của ông đã công bố. Ông có thấy như vậy là nhiều, thưa ông?
NTT: Không! Như tôi đã nói, từ “Người Ham Chơi” mang cả nghĩa người làm. Riêng tôi thì không phân biệt mình làm hay chơi. Còn người biết, nói cho cùng, chẳng ai biết gì cả. Trên thế giới này, người ta vẫn thường nói ba chữ “bất khả tri” hoặc “càng biết càng đau”. Tôi cảm thấy mình chưa đau hơn bất kỳ ai.
LMY: Vậy trong các công việc trên nhiều lĩnh vực văn học nghệ thuật mà ông tham gia, đâu là “công việc” Nguyễn Trọng Tạo nhất? Đó có phải là lĩnh vực mà ông đã thành công?
NTT: Tôi làm báo để sống, làm thơ để chết, làm nhạc, vẽ bìa sách, uống rượu... để vui. Người ta có thể chết vì một tình yêu, người ta cũng có thể chết vì lợi nhuận. Nhưng đối với riêng tôi, làm thơ cũng có nghĩa là làm tất cả. Việc này có thể nói như một nhà thơ nghiệp dư trên đỉnh đèo Hải Vân tên là Lại Phiền Hà: “Em làm thơ để em làm người”. Tất nhiên là tôi thành công nhất trong thơ. Nhưng khi ngẫu hứng, tôi đã làm nhạc. Ấy thế mà tới đâu cứ xướng “Làng Quan Họ quê tôi” lên là người ta biết ngay đấy là nhạc của Nguyễn Trọng Tạo. Phải nói là hạnh phúc vô cùng khi anh vừa là nhà thơ vừa là nhạc sĩ.
LMY: Với nhạc, ca khúc “Làng Quan Họ quê tôi” có phải là đỉnh cao của ông?
NTT: Có một ca khúc khác mà tôi thích hơn “Làng Quan Họ quê tôi”, đó là “Đôi mắt đò ngang”. Nó ra đời năm 1995, sau “Làng Quan Họ quê tôi” 17 năm, và năm 1997 được sinh viên bình chọn là ca khúc mới hay nhất trong đêm nhạc của 4 nhạc sĩ tại đại học Văn Hoá Hà Nội. Sau khi bài này được phát trên đài truyền hình và đài phát thanh, nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ là người từng viết “Xa khơi” và “Tiếng hát giữa rừng Pác Bó” nổi tiếng, đã tìm tôi và nói rất đúng ý tôi - ông rất thích “Đôi mắt đò ngang”, và cho rằng, bài này còn hay hơn cả “Làng Quan Họ quê tôi”. Ở quê tôi, người ta hát “Đôi mắt đò ngang” cả trong đám cưới. Bài hát này cũng đã đoạt giải thưởng Hồ Xuân Hương Nghệ An và giải thưởng của Uỷ ban toàn quốc Văn học nghệ thuật Việt Nam. Điều đó làm tôi thấy vui vì hoá ra những điều mình thích cũng được ghi nhận, dù không được sôi nổi như cái thời “Làng Quan Họ quê tôi” được hát trên cả nước, được JVC Nhật Bản thu đĩa và dàn nhạc giao hưởng Lep-zich trình tấu ở Đức. Về bài “Đôi mắt đò ngang” mà tôi rất thích ấy, tinh thần của nó là đi ngược lại với những rào cản, ràng buộc từ trước, ngược với lời ru quá cẩn thận của người xưa. Đó cũng là sự thoát khỏi An-Nhữ-Chỉ của Nguyễn Trãi: “Chìm trong đôi mắt ấy, đò đầy anh cứ sang...” (hát). Còn bây giờ thì tôi đang sướng về ca khúc mới “Khúc hát sông quê” phổ thơ Lê Huy Mậu. Nhiều người đã hát bài này cho tôi nghe qua điện thoại di động.
LMY: Trên các diễn đàn văn nghệ, tại sao ông hay chọn đọc bài thơ “Chia” và nhiều bạn trẻ cũng thích bài hát “Một dại khờ một tôi” do nhạc sĩ Phú Quang phổ nhạc từ bài thơ này?
NTT: Tôi cực kỳ tâm đắc với bài thơ này. Người ta thường chia cho những con số trên 1 như Tố Hữu từng chia trái tim làm “ba phần tươi đỏ” chẳng hạn, còn tôi, tôi chỉ chia cho 1. Chia mà vẫn còn nguyên, chia cho1 cũng có nghĩa là tất cả, là sự hiến dâng tất cả. Một bài thơ “Chia” mà có đến mười mấy chữ một. Còn lý do tôi hay đọc bài thơ này vì nó là một bài lục bát dễ thuộc, lục bát kiểu Nguyễn Trọng Tạo:
chia cho em một đời saykhi đọc phải ngắt nghỉ, dừng lại đúng chỗ, nếu không thì sẽ không phải là bài thơ lục bát của tôi.
một cây Si
với
một cây Bồ Đề
Đăng bởi Nguyễn Trọng Tạo vào 24/02/2007 05:46
“Ôi, có những câu hát ta biết bao giờ hát lại. Những tấm ảnh thời thanh xuân của em chẳng là những câu hát như vậy đó sao?”. Đó là những câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo trong bài Những tấm ảnh thời thanh xuân mà mỗi lần đọc, tôi thấy như được trở lại thời thanh xuân của chính mình, và trở lại thời thanh xuân của một ai đấy nữa! Thanh xuân của tình yêu đầu đời! 54 bài thơ trong tập thơ nhỏ xinh và mỏng mảnh này là 54 trạng huống tình yêu, say đắm và buồn, buồn như một ngày xuân không còn hoa cúc, buồn như cây khóc lá, buồn như một đêm tỉnh giấc, ta chợt thấy nỗi buồn đang ngồi bên: “Là khi tỉnh giấc trong đêm/ một mình ta thấy ngồi bên nỗi buồn”… và một van nài lạ lùng, hi hữu:
Buồn ơi, Buồn có thương tôi.Cách nói, cách cảm và cách thơ ấy chỉ riêng Nguyễn Trọng Tạo mới có. Ngoa ngôn chăng, thậm xưng chăng, phách lối chăng? Ai nghĩ gì thì nghĩ, nhưng Tạo không thể sống nổi nếu không có một Nỗi buồn cặp kè bên cạnh: “Buồn đừng đi, Buồn đừng tan/ mất Buồn còn lại tro tàn mà thôi!” Trong con mắt nhà phê bình Trần Mạnh Hảo thì thế nào Nguyễn Trọng Tạo cũng sẽ biến thành một nhà “Buồn học”, nhưng nếu thay nỗi buồn kia thành niềm vui chẳng hạn, thì cơ sự sẽ ra sao? Chẳng lẽ lại phải đọc là: “Vui đừng đi, vui đừng tan/ Mất vui còn lại tro tàn mà thôi!” Vô duyên biết mấy, nông nổi và hạn hẹp vô cùng!
Đừng làm tôi phải mồ côi Nỗi Buồn.
(Xon-nê buồn)
hai mươi bài hát vuiNgay cả một ngày vui là trong tiệc cưới của Em: “Nếu ngày mai khi tiệc cưới của em/ bạn bè đến nói cười và chúc tụng/ xin em hãy coi tôi như bè bạn/ và xin đừng dù khẽ gọi tên tôi…” giọng điệu bài thơ này phảng phất chất giọng Nguyên Sa một thời xa lắm, nhưng nó hiện đại hơn vì không sướt mướt và quá bi luỵ, nó ở một chiều kích khác của tâm thức,
hát tặng một nỗi buồn
hai mươi bài hát buồn
hát tặng nỗi buồn hơn…
tôi còn đi. Mưa gió. Đường dàiNỗi buồn trong tình yêu của Nguyễn Trọng Tạo đã được nâng lên thành một triết lý hoặc là một định đề - bất di bất dịch. Nhiều khi nỗi buồn của anh lại khiến cho người đọc phải bật cười, cười trong cay đắng và như thế còn hơn cả nỗi đau thương.
trái tim phải lội qua bao thác lũ
dẫu gió lạnh thổi mãi con chim nhỏ
em đừng buồn - trời rộng phía yêu thương…
(Nếu ngày mai)
hoa đã tặng. Người đã không còn nữa.Nói tập Thơ trữ tình của Nguyễn Trọng Tạo là thơ tình yêu thì đúng rồi, nhưng hình như chưa đủ, chưa thoả đáng, chưa thấu suốt cái nội hàm của nó. Thơ tình của Tạo chứa cả một trời thế sự, một biển tâm linh, thăm thẳm linh hồn người. Không có tình yêu con người, tình sự sống, tình yêu hoa cỏ, gái trai, sẽ không viết được những câu thơ đau xót như thế này, và cũng hài hước như thế này:
em đã yêu. Em đã bỏ tôi đi
sẽ dở hơi nếu là tôi đứng khóc
nhưng cười vui thì tôi sẽ còn gì?
Anh làm vua không ngai, em vẫn là hoàng hậuVà rồi đây nữa:
chàng hoàng tử khóc nhè, nàng công chúa hờn dai
chợt thương quan không dân
chợt thương ngai không chủ
thương những đời người chung thân
trong áo mão cân đai…
(Cổ tích thơ tình)
Chặt cây mà bắc cầu sangPhẩm chất cốt lõi trong thơ tình Nguyễn Trọng Tạo trở thành bức thông điệp gửi tới người đọc là tình yêu, yêu đến hết mình, đến tan xác, đến rỗng không, đến không còn hồn vía:
Không em, anh sống lang thang hai lần
Ước chi em giận một tuần
Em xa vài tháng, em gần… cả năm.
(An ủi)
Chia cho em một đời tôiNgười biết yêu đến tận cùng thì cũng biết hiến dâng đến tận đáy. Nhiều khi nhà thơ tự ví mình như bông hoa ly vàng, nhỏ tí xíu, khuất lấp trong muôn ngàn loài hoa rực rỡ, khiêm nhường và cao thượng: “Dẫu nhỏ nhoi tôi có một cái tên/ khi ngập nước và khi thì ngập nắng/ hoa li vàng mùa hạ chính là tôi…” và một niềm run rẩy rất đỗi dịu dàng, mong manh và thuỷ chung biết bao:
một cay đắng
một niềm vui
một buồn
tôi còn cái xác không hồn
cái chai không rượu tôi còn vỏ chai.
(Chia)
Biển đầy vơi thương nhớ, biển xanh ơiCàng đi sâu vào mê cung thơ tình Nguyễn Trọng Tạo, người đọc càng khám phá thêm những miền tâm trạng mới, đặng làm phong phú thêm, chất lượng tâm hồn người. Cái mà nhà thơ tưởng mất lại là phù sa bồi đắp cho tâm tưởng ta thêm phì nhiêu, và đó chính là cái mà ta được:
Thân thể ai hồng hào pha ngọn sóng
Da thịt người chạm vào tôi nóng bỏng
Rồi có thể người quên
Còn tôi mãi giữ gìn…
(Hoa li vàng)
tôi về khép lại căn phòngỞ đây chỉ là cách nói, cách diễn đạt bằng thơ những điều khó nói. Tuy nhiên một nhà thơ thực sự tài năng không nhờ vào cách nói, phải có một nội lực cường tráng để có gì mà nói! Với nhà thơ “trữ lượng tâm hồn” là điều cần thiết hơn cả, cái mỏ ấy hệt như một mỏ dầu, càng khai thác, càng phát sáng. Và tôi không nghi ngờ Tạo là một mỏ dầu có trữ lượng cao, anh đã từng làm cháy, thậm chí thiêu đốt bao tâm hồn yêu và đang yêu:
thấy trong lồng ngực như không có gì
trái tim đã bỏ tôi đi
ai mà nhặt được gửi về giùm tôi.
(Gửi)
cho thơ tôi được nói lờiĐọc Thơ trữ tình của Nguyễn Trọng Tạo, bạn đọc sẽ không muốn ngồi trong nhà nhìn ra mưa nữa, mà bạn sẽ… nhảy ra đường. Ra đường để làm gì thì chưa biết, nhưng cứ phải ra đường, để có thể đắng cay nhặt lại được một “nỗi buồn” nào đó, đau xót và quyết liệt vô cùng:
tình-yêu-tôi, gửi tới người-tôi-yêu.
bởi tôi tin những sớm chiều
người không quen… sống rất nhiều cho tôi.
(Thơ gửi người không quen)
một ngày người bán rẻ taYêu và buồn là cặp trẻ song sinh, Nguyễn Trọng Tạo đã minh chứng cho điều ấy.
ta thành đồ vật giữa nhà người dưng
một ngày người đến rưng rưng
mua gì vô giá? xin đừng mua ta
(Nỗi buồn kiêu)
có ai ngồi xuống chỗ chúng mình kiaTrong tập thơ này của Nguyễn Trọng Tạo, tôi đặc biệt yêu thích bài Thơ tình người đứng tuổi. Có cảm giác rằng anh viết cho tôi, và viết riêng cho một người nào đấy nữa, một người nào trong vô vàn chúng ta:
chàng trai ấy cùng với cô gái ấy
cô gái đẹp sao giống em đến vậy
và chàng trai run rẩy giống anh sao
cỏ biếc xanh như cỏ đêm nào…
(Cỏ xanh đêm trước)
bây giờ cao bổng vòm câyCon người ngỡ là từng trải, từng trải qua chiến trường, qua cả “tình trường” mà không hề chai sạn, cứ run rẩy như thuở mới vào đời, như một khúc mộng mơ, như một kẻ mắc nợ. Nợ cái gì thì chưa biết, nhưng Tạo là con nợ của trăm năm:
dòng sông trôi đã vơi đầy tháng năm
áo tôi đạn xé bao lần
tóc người hao mấy mùa xuân đợi chờ
(Thơ tình người đứng tuổi)
tôi còn mắc nợ áo dàiTrắng nợ như thế thì sẽ còn nợ tiếp, nợ chung thân, nợ tử hình! Tử hình rồi còn chưa hết nợ: “Có lúc ngôn từ biệt tích/ đam mê trơ đá gan lỳ/ em mèo ơi đừng đến nữa/ sợ em dựng dậy tử thi!…” (Chiêm cảm). Và đến nông nỗi ấy thì phải giấu biệt mình đi, lặn một hơi để không ai tìm thấy nữa:
một làn gió trắng một bài thơ hay
tôi còn mắc nợ mi mày
một con thuyền lá xanh đầy mắt nai
(Tôi còn mắc nợ áo dài)
có một chàng đơn độcNguyễn Trọng Tạo đã tự mình làm ra một đường phố, một số nhà cho riêng mình, đấy là số nhà Lãng Quên trên đường Không Tên vậy! Có tin được không? “Tin thì tin không tin thì thôi”. Và tôi gọi tập Thơ trữ tình của Nguyễn Trọng Tạo là Bức tranh tình không năm tháng!…
bước trên đường Không Tên
có một nàng Hạnh Phúc
ở số nhà Lãng Quên…
(Nỗi nhớ không tên)
Đăng bởi Nguyễn Trọng Tạo vào 24/02/2007 05:56
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Nguyễn Trọng Tạo vào 09/07/2011 16:50
Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ oà bí mật: “có thương có nhớ có khóc có cười/ có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi”. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn (1). Cách nói Đồng dao cho thấy được ý hướng sáng tạo của Nguyễn Trọng Tạo. Thơ anh là những khúc hát ngân lên từ cõi nhớ của một kẻ nhà quê lưu lạc. Lưu lạc mà vẫn nhớ mình là nhà quê, là phương Đông chính hiệu. Vì thế, nếu có đọc thơ Tây cũng là một cách mở rộng, tham bác để cho cái chất nhà quê vừa gắn với cổ điển, vừa đáp ứng được nhu cầu hiện đại. Hai câu thơ trên đây khép lại bài thơ mà cũng là để mở ra về phía “ngàn năm” từ cái “chớp mắt” khóc cười nghệ sĩ. Những câu thơ đẫm niềm riêng nhưng cũng là những trải nghiệm khóc cười nhân thế. Nó như bật ra từ tuệ nhãn, vừa mới mẻ vừa mang theo cái uyên súc Đường thi. Đó là một kiểu chiêm nghiệm, một cách nói khác của Bùi Giáng: “Bây giờ riêng đối diện tôi/ Còn hai con mắt khóc người một con”. Nói thế để thấy rằng Nguyễn Trọng Tạo đã biết lắng lại và tự giác ngộ mình trước cõi tham-sân-si trần tục. Mối tương quan giữa chớp mắt và ngàn năm đẩy cảm xúc lên tầm mỹ học về nhân sinh qua cái nhìn của một người biết mình cũng đầy ưu, nhược như ai. Nhưng người thơ ấy biết tự dặn mình coi thơ như một tôn giáo, đứng trước thơ phải thanh khiết và để lại sau lưng những phiền luỵ không đâu. Là một thi sĩ có ý thức đổi mới, Nguyễn Trọng Tạo thấu hiểu một cách sâu sắc, rằng, sự sống còn của người viết là phải nương thân vào chữ nghĩa. Nơi ấy, hồn nằm trong xác và xác ngụ trong hồn. Không còn cách nào khác, tư cách của nhà thơ chỉ có thể đo ướm bằng sự toả sáng của chữ. Tại đó, anh ta trình với mọi người cái vân tay vân chữ của mình trên tờ căn cước bằng giấy trắng mực đen. Hay, dở đã thuộc về kẻ khác. Mọi phân trần hay biện hộ của nhà thơ đều trở thành vô nghĩa.
Thuộc típ người tài hoa đa mang lắm mối, nhưng trước sau, hồn vía Nguyễn Trọng tạo vẫn sống chết với thơ. Tại đây, anh dựng lên xác tín nghệ thuật của mình: “Thi ca là ngôn từ rung lên bằng âm nhạc” (2). Cấu trúc thơ Nguyễn Trọng Tạo hàm chứa rất nhiều âm nhạc là vì thế. Nhạc cất lên từ nhịp: “Chia cho em/ một đời tôi/ một cay đắng/ một niềm vui/ một buồn” (Chia). Nhạc cất lên từ vần: “tình trao mắt cho thơ/ trời xanh mi ướt bờ/ tình trao nắng cho mưa/ chìm vào nhau bất ngờ” (Rượu chát), từ sự bung phá một cách phóng túng để diễn tả chính sắc màu của nhịp điệu: “ôi nhịp điệu- thân xác không mang nổi/ ta thoát khỏi ta/ như đứa trẻ thoát áo quần quá chật” (Nhịp điệu Tây Nguyên)… Nhưng thủ pháp thường gặp nhất trong thơ Nguyễn Trọng Tạo là cách tổ chức điệp khúc. Điệp trong bài, điệp bằng lối hai câu song song, nương tựa nhau… Những thủ pháp ấy bắt nguồn từ niềm đam mê nhịp chẵn theo quan niệm của Nguyễn Trọng Tạo (khác với nhịp lẻ của thơ Trung Hoa). Nhưng đó không phải là kiểu hài thanh cân đối cổ điển mà trên sự cân đối ấy nhằm tạo nỗi chơi vơi trong tình điệu thẩm mỹ của anh. Với Nguyễn Trọng Tạo, hình thức điệp cú và điệp cấu trúc có khả năng đạt các hiệu quả nghệ thuật: 1- sự chặt chẽ trong cấu tứ và sự trùng phức về giai điệu; 2- sự nhoè mờ của các “vân chữ”; 3- trên cơ sở đó tạo nên những bất ngờ và bung phá. Dĩ nhiên, thủ pháp này cũng tiềm ẩn một nguy cơ: khi cảm xúc vơi hụt, tỉnh nhiều mà say ít, thơ sẽ rơi vào tình trạng ít ý nhiều lời. Hiện tượng này cũng từng xảy ra với chính Nguyễn Trọng Tạo. Nhưng nhìn chung, Nguyễn Trọng Tạo đã kết hợp được hài hoà giữa ý tình và âm nhạc. Xin đừng hiểu rằng một khi thơ giàu nhạc thì ý tưởng bị khuất chìm. Chính các nhà tượng trưng đã từng nêu lên một tuyên ngôn bất hủ: “Âm nhạc đi trước mọi điều”. Những câu thơ sau đây của Paul Verlaine sẽ mất đi rất nhiều dư vị nếu ta tước bỏ nhạc thơ: “Đang khóc trong lòng tôi/ Như đang mưa trên phố/ Buồn chán gì vô cớ/ Đang len vào lòng tôi” (3). Ở nước ta, thơ hàn Mặc Tử, Hoàng Cầm, Vũ Hoàng Chương… đều là những thế giới đầy âm nhạc. Điều quan trọng là nhạc thơ phải diễn tả được nhạc lòng, là một thành tố trong nghệ thuật tổ chức cấu trúc giọng điệu. Âm nhạc chính là một thủ pháp khiến người đọc dễ say với cái say thi sĩ vốn là một phần bản thể Nguyễn Trọng Tạo. Là người ít nhiều tìm hiểu giọng điệu thi ca, tôi nghĩ, ngoài âm và nghĩa dồi dào, thơ phải có giọng. Không có giọng, anh ta lập tức bị biến khỏi bản đồ thơ. Với cách hiểu như thế, tôi nghĩ, Nguyễn Trọng tạo là người có giọng điệu riêng. Nhưng cái nốt riêng ấy không tự dưng mà có. Thực lòng, tôi không tìm thấy nó ở thời “Gương mặt tôi yêu” mà phải đến những ngày khúc “Đồng dao cho người lớn” ra đời, tôi mới thấy rõ đó là cách nói của Nguyễn Trọng Tạo. Những câu thơ của anh mang chất giọng tưng tửng, ngu ngơ ngỡ như chơi vơi nhưng kỳ thực chứa rất nhiều ngẫm ngợi, trí tuệ. Một chất giọng mà khi đọc kỹ ta mới thấy hết cái da diết bên trong. Học lấy cái nhoè mờ trong thi pháp phương Đông, Nguyễn Trọng Tạo đã biết tựa vào âm nhạc để trình bày các ý tưởng của mình. Đây chính là yếu tố tạo nên chất phiêu lãng trong giọng điệu thơ anh. Phía sau những âm giai phiêu lãng ấy là chiều sâu của cảm hứng về nhân thế, là những lăn lóc thân phận. Chiều sâu mỹ cảm thi ca Nguyễn Trọng Tạo trước hết bắt nguồn từ yếu tố cơ bản này.
Là kẻ lang bang lữ thứ, tất nhiên, Nguyễn Trọng Tạo thường nói đến say: “Sông Hương hoá rượu ta đến uống/ ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say” (Huế 1); “chín can… rượu chẳng còn đâu/ còn em hoá rượu. Cúi đầu anh say…” (Rượu cần). Đó cũng là một hình thức nhà thơ phiêu diêu về tâm tưởng, một cách lang thang trong cõi nhớ của mình. Từ làng quê xứ Nghệ đến với Huế, văn hoá Nguyễn Trọng Tạo được bồi đắp thêm một lần nữa. Có thể nói, Huế đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên hồn cốt thơ Nguyễn Trọng Tạo. Phải chăng, anh đã học được ở đây cái uyên sâu của đời sống tâm linh trầm mặc? Với cách xây tứ khá độc đáo, tôi nghĩ, Huế 1 thuộc số những bài thơ ấn tượng nhất về Huế trong thơ ca sau 1975. Những cơn say của Nguyễn Trọng Tạo cho phép anh nhìn sâu vào bản thể hồn mình, hiểu hơn về những bước chân lưu lạc của mình. Bởi thế, say còn là một hình thức tự vắt kiệt, tự đốt cháy: “Tôi còn cái xác không hồn/ cái chai không rượu tôi còn vỏ chai” (Chia). Sống thế là đến đáy. Là dám chấp nhận. Hoá ra, ở những giây phút thăng hoa nhất, men thơ men tửu men đời đã hoà lẫn trong nhau. Nguyễn Bính xưa cũng như thế: “Tôi uống hồn em và uống cả/ Một trời quan tái mấy cho say”. Tôi nhớ, trong căn hộ chung cư tầng sáu mà Nguyễn Trọng Tạo đang nương thân ngoài đời, có một tấm ảnh rất ấn tượng anh chụp với tiên chỉ Văn Cao qua bàn tay của nhiếp ảnh gia Nguyễn Đình Toán. Chai rượu choán lấy mặt tiền của ảnh và hai kẻ tài hoa, một anh một em nâng ly mừng thơ nhạc và chia sẻ muộn phiền. Nhưng vấn đề là sau những cơn say và những ngày tháng phiêu du ấy, Nguyễn Trọng Tạo còn lại gì? Còn lại một nỗi cô đơn. Theo ý tôi, cô đơn là phần sâu nhất trong bản ngã Nguyễn Trọng Tạo. Cái mầm cô đơn ấy có đủ vị, có cả niềm cay đắng xen lẫn nỗi ngọt ngào “Trái tim đã bỏ tôi đi/ ai mà nhặt được gửi về giùm tôi”. Một đời đuổi bắt cái đẹp hoá ra cũng là để tìm chính mình, tìm lại một nửa cái tôi đang nằm đâu đó trong đời. Tiếng gọi của tâm linh đấy chăng? Hay đó là những thầm thì của nỗi đê mê, đắm đuối tạo thành sự phân thân không định trước. Ai nghĩ gì, kệ họ. Riêng mình, nguyễn Trọng Tạo thật lòng: “Tin thì tin không tin thì thôi”. Những câu thơ tưng tửng, ngu ngơ và da diết này cũng là một kiểu tuyên ngôn, một cách gây sự với đám đông của Nguyễn Trọng Tạo. Nó như một chuỗi “phản đề” trước khi nhà thơ nêu lên “chính đề” là gan ruột của người viết:
Nhưng tôi người cầm bút, than ôiNhìn từ chiều lịch đại, Nguyễn Trọng Tạo thuộc thế hệ các nhà thơ chống Mỹ. Thơ anh cũng từng một thời phơi phới tin yêu, một thời tha thiết thật lòng “mỗi chiếc lá đều ghi lời tự nguyện”. Sự trong trẻo ấy thật đáng quý nhưng rõ ràng có phần đơn giản. Trong khi những cây bút như Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Mạnh Hảo… đã được nhiều người nhớ thì Nguyễn Trọng Tạo vẫn mải miết kiếm tìm. Phần hay nhất của thơ Nguyễn Trọng Tạo nằm ở thời hậu chiến. Đây là giai đoạn Nguyễn Trọng Tạo chủ trương một thứ thơ đời thường. Hướng về đời thường, thơ gần hơn với con người, những vui buồn nhân thế cũng được đề cập đến sâu sắc hơn. Theo ý tôi, mặc dù thập kỷ 80 của thế kỷ XX có sự nỗ lực đổi mới của nhiều nhà thơ, nhưng cần ghi dấu ba giọng điệu đáng chú ý: Ý Nhi, Nguyễn Trọng Tạo, Dư Thị Hoàn. Những bài thơ của họ thể hiện rất rõ sự “vỡ giọng” và sự thay đổi về tư duy nghệ thuật. Đó là quá trình tự nhận thức lại chính mình và người khác. Những thần tượng một thời giờ đây đã hết uy lực: “Khi đang đắm yêu có tin được bao giờ/ Rồi một ngày người yêu ta đổi dạ/ Rồi một ngày thần tượng ta tan vỡ/ bạn bè thân thọc súng ở bên sườn” (Tản mạn thời tôi sống). Đây là những câu thơ hàm chứa rất nhiều cay đắng ở bên trong vì nó nói về sự đổ vỡ. Mà có sự đổ vỡ nào lớn hơn là sự đổ vỡ về tình yêu và thần tượng! Sau 1975, thơ ca Việt Nam từ quỹ đạo của cái ta trở về với cái tôi cá nhân. Nhưng đó không phải là cái tôi tách rời hoàn cảnh như thơ ca lãng mạn. Đó là cái tôi như một điểm tựa để nhìn về nhân thế và con người trong sự phức tạp và nhiêu khê khó lường. Góc nhìn đời tư và những dằn vặt cá nhân được quan tâm thể hiện. Những điều ấy đều có mặt trong thơ Nguyễn Trọng Tạo thời sau - thời mà cái nhìn riêng của anh được mài sắc hơn, sự thay đổi cái nhìn nghệ thuật diễn ra quyết liệt hơn: Như con chiên sùng đạo chợt bàng hoàng/ Nhận ra Chúa chỉ ghép bằng đất đá. Trong hoàn cảnh ấy, con người đang tìm mình, loay hoay kiếm tìm các giá trị, đường chân trời không hẳn cứ trong veo như trước đây ta vẫn tưởng. Đây là thời điểm các cây bút phải biết xác lập vị thế của mình trong dòng chảy lịch sử. Bản lĩnh nghệ thuật của nhà thơ phải được thiết lập bằng quan niệm riêng của anh ta về đời sống. Biết bứt thoát khỏi những quy phạm nghệ thuật của thời đã qua, Nguyễn Trọng tạo đã trổ được cái nhìn riêng về “cõi nhân gian bé tí” nhưng lại hết sức rộng lớn này với những thay đổi vừa mang tính bất thường, vừa mang tính quy luật. Tản mạn thời tôi sống (1981) là thi phẩm cho thấy cái nhìn rất nhạy cảm của nhà thơ. Đây là bài thơ được nhiều người nhớ. Có thể, những người khó tính sẽ nhận thấy ở bài thơ này mạch thơ còn dàn trải, câu chữ chưa thật chắt lọc. Đúng thế, cái hay của bài thơ không nằm nhiều ở cấu trúc hay ở sự kỳ công về nghệ thuật mà nằm nhiều hơn ở khả năng tiên cảm chính xác và đầy chất triết lý: “Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa/ như thời đã đi qua như thời rồi sẽ đến”. Nguyễn Trọng Tạo đã lấy hai câu thơ mang âm hưởng ví dặm để làm giai điệu nền tảng cho dòng cảm xúc “trái mùa” tản mạn của anh. Thực ra, bài thơ đâu có tản mạn, nó xoáy vào người đọc một câu hỏi buốt nhói, một vấn đề quá lớn: “Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi/ Câu trả lời thật không dễ dàng chi”. Chính vì cái câu hỏi quá riết róng ấy mà Nguyễn Trọng Tạo từng phải lao đao. Phải đến những năm đổi mới, những băn khoăn kia của Nguyễn Trọng Tạo mới được “giải oan”. Người ta bắt đầu nhận thấy một sự thật: bài thơ đã khái quát được tâm thế của một thời. Về sau, kiểu câu hỏi nhạy cảm ấy lại xuất hiện trong thơ Hữu Thỉnh: Tôi hỏi người: - Người với người sống với nhau thế nào?, trong văn xuôi Phùng Gia Lộc: Cái đêm hôm ấy đêm gì?... Không quá khó khăn, người đọc nhận thấy phía sau niềm trắc ẩn kia của Nguyễn Trọng Tạo là nỗi cô đơn, đắng đót của kẻ mang bản mệnh đa đoan. Mà Nguyễn Trọng Tạo đâu có che giấu cái tôi bản thể của mình:
Không thể không tin gì mà viết.
vẽ tôi mực rượu giấy trờiĐây là những câu thơ ngất ngưởng, đùa đấy mà cũng là thật đấy. Ngẫm ra, chỉ những ai dám là mình mới có cái ngất ngưởng, tếu táo đến nhường ấy: “vẽ tôi lặng nhớ mưa xa/ tiếu lâm đời thực khóc oà chiêm bao”. Tôi nghĩ, cái khóc cười qua những dòng tự hoạ trên đây có phần gần gũi với tâm trạng Khi vui lại khóc, buồn tênh lại cười của cây hát nói tài danh đất Nghi Xuân Nguyễn Công Trứ. Trong thơ, nhiều khi quá cố công để tìm đến cái sâu sắc lại gặp phải sự hời hợt, trơn lỳ, bởi đó là cái “cố” bằng lý tính. Nhưng nhiều khi, nhà thơ ngỡ như bất lực lại chính là lúc nẩy lên những ý lạ đến khó ngờ. “Tâm trạng nhạc tính” của người sáng tạo một khi bắt gặp những chớp loé tư tưởng sẽ tạo nên sự bùng nổ. Điều này khiến tôi chợt nhớ đến một ý kiến rất hay của E. Weber: “Tảng đá tư tưởng rơi vào tâm trạng này và dấy lên những đợt sóng tinh thần, những đợt sóng này vươn tới sự biểu hiện bằng ngôn ngữ và sẽ phải trở thành thơ” (4). Đó là phút “giời cho”, là trạng thái “ngây ngất”, “mê sảng” như A. Pushkin có lần bày tỏ. Có lẽ trong đời, Nguyễn Trọng Tạo đã hơn một lần bắt gặp giây phút “giời cho” mà Tản mạn thời tôi sống là một ví dụ điển hình. Những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo thường là những bài thơ xuất phát từ cái nhìn sâu vào bên trong, lắng nghe âm vọng đời sống qua tiếng gõ rất riêng của cái tôi “nửa khóc nửa cười” ấy. Thời gian 1 là bài thơ có những bước nhảy độc đáo về tứ:
nửa say nửa tỉnh nửa cười nửa đau
vẽ tôi thơ viết nửa câu
nửa câu ma quỷ đêm sâu gọi về…
(Tự hoạ)
còn chi bóc nữa?Khúc Xonê buồn cũng có cách nói khá ấn tượng:
hãy bóc hồn tôi
tôi thành tờ lịch
bóc sang luân hồi.
Là khi tỉnh giấc trong đêmNhững câu thơ này ít nhất cho phép người đọc nhận thấy hai điều. Trước hết, hé ra chiều sâu của một nỗi cô đơn thường trực; thứ hai, mở ra một trường liên tưởng lớn nói về sự cô đơn và khát khao chia sẻ. Ý tưởng ấy, đến Nguyễn Trọng Tạo, được hoá vào hồn lục bát, lấy cái duy tình để diễn tả cái duy linh: “Buồn ơi Buồn có thương tôi/ Đừng làm tôi phải mồ côi nỗi buồn!...” Buồn là em, là người đẹp, là một nửa của tôi, là ai đến bên tôi “khít ơi là khít” như Hàn Mặc Tử xưa kia một mình trong bãi biển đầy trăng chập chờn ma mị. Nếu Đồng dao cho người lớn mở ra bước chuyển về thi pháp, đưa thơ đến với chất giọng triết lý sau cái vỏ ngu ngơ như thật như đùa thì Chia lại là một nỗ lực cách tân của Nguyễn Trọng Tạo trên con đường làm mới thể thơ lục bát. Với Nguyễn Trọng Tạo, việc cách tân không đồng nghĩa với việc phải đập vỡ và tẩy chay mỹ học truyền thống. Anh biết nâng niu di sản văn hoá quê hương và cố gắng tạo nên sự “hoà giải” giữa cái cũ và cái mới trong thơ. Bởi thế mới có chuyện “Một cây si với một cây bồ đề” (Chia); “con đường từ ghét đến yêu/ đỏ đen sấp ngửa liêu phiêu một đời” (Ví dụ 4)... Trên nền ổn định của thể loại, Nguyễn Trọng Tạo có nhiều cách xoay trở. Anh chơi vần, tạo ấn tượng thị giác bằng cách biến đổi cấu trúc dòng thơ, xây dựng những hình thức nhịp điệu, tiết điệu mới:
Một mình ta thấy ngồi bên: nỗi buồn
Là khi cạn một ly tràn
Đáy ly ta lại thấy làn mi xanh.
chia cho em một đời ThơLục bát Nguyễn Trọng Tạo không nghiêng hẳn về âm hưởng ca dao như Nguyễn Duy, không sấn sổ táo tợn như Đồng Đức Bốn sau này, và cũng khác với cách “gảy khúc trăng vàng” của làng quê Bắc bộ như Phạm Công Trứ trong lời thề cỏ may. Cái riêng của lục bát Nguyễn Trọng Tạo là sự phiêu diêu của cảm xúc, ma lực của âm nhạc và sự kỹ lưỡng nghiêng về phía sang trọng của chữ nghĩa. Đây là thế mạnh nhưng cũng là một cái bẫy với chính nhà thơ cho dù anh muốn quẫy đạp và vượt thoát khỏi tiền nhân. Đây đó vẫn có những câu mang hơi hướm của Nguyễn Bính. Nhưng thời Nguyễn Bính, sự nới giãn cấu trúc dòng thơ để tạo nên sự lạ hoá trong cấu trúc văn bản hãy còn quá hiếm. Còn hiện thời, hình thức xuống thang, ngắt câu thành những đoạn ngắn nhằm lạ hoá khuôn hình sáu-tám trở thành ngón chơi của nhiều người. Song có thể nói, Nguyễn Trọng Tạo thuộc số những người tiên khởi. Trong số những khúc lục bát hay của Nguyễn Trọng Tạo, bên cạnh Chia, tôi đặc biệt ấn tượng với Mẹ tôi. Thi phẩm này không mang mang nỗi niềm như Trông ra bờ ruộng của Hữu Thỉnh mà sử dụng giọng kể nhà quê rất thích hợp:
một lênh đênh
một dại khờ
một tôi
chỉ còn cỏ mọc bên trời
một bông hoa nhỏ lặng rơi mưa dầm…
mẹ tôi dòng dõi nhà quêNói thế để thấy rằng, mặc dù kỹ lưỡng và có ý thức trau chuốt ngôn từ, nhưng khi cần, Nguyễn Trọng Tạo biết cách đổi giọng để vần điệu hài hoà với cảm xúc. Từ những chuyện đời ngỡ như thật riêng tư, bài thơ mở ra một khung trời tâm tưởng, và bóng mẹ trở nên da diết lạ lùng: mẹ tôi tóc bạc răng đen - nhớ thương xanh thẳm một miền nhà quê. Sức hút của bài thơ này nằm ở sự giản dị của ngôn từ và giọng kể chứ không nằm ở kỹ xảo thuần tuý. Vậy là sau rất nhiều lưu lạc, vẫn có một miền quê ẩn sâu trong hồn thơ Nguyễn Trọng Tạo:
trầu cau từ thuở chưa về làm dâu
áo sồi nâu, mấn bùn nâu
trắng trong giải yếm bắc cầu nên duyên.
ngác ngơ giữa phốTôi nghĩ, cái gốc quê ấy không đơn giản là nơi sinh trưởng, lớn lên nhìn từ góc nhìn địa lý mà rộng hơn, là hồn vía văn hoá của quê mình, dân tộc mình ám vào hồn thơ Nguyễn Trọng Tạo và qua nhạc, qua vần điệu, tiết tấu, chữ nghĩa mà rung lên thành thơ:
một thằng nhà quê
nhớ thương mộ tổ
biết bao giờ về
(Lưu lạc)
Cỏ may khâu áo làng quêTrước đây, người ta thường nhắc đến hình ảnh Cao Bá Quát đê thủ bái mai hoa. Nay kẻ hậu sinh Nguyễn Trọng Tạo cũng biết lãnh tinh thần hướng về cái đẹp ấy trước cỏ may. Đó là một hành động nghĩa khí và nghệ sĩ. Nhưng nếu hoa mai trong thơ Cao Bá Quát có ý nghĩa như một siêu mẫu nói về sự thanh cao quen thuộc trong hệ từ vựng thơ ca cổ điển thì cỏ may trong thơ Nguyễn Trọng Tạo là hình bóng của quê hương, là nỗi niềm của một con tim nhạy cảm: “loanh quanh sân thượng mà thương cánh đồng”. Một nhành cỏ may bất chợt đã đánh thức cái nhìn hoài nhớ tuổi xưa của Nguyễn Trọng Tạo. Bài thơ gợi lên một tình yêu da diết và sâu sắc. Trong con người ấy, quê hương bao giờ cũng bình dị và thiêng liêng. Thêm một lần nữa, tôi muốn khẳng định, cái chất nhà quê cứ chảy hoài trong kẻ lưu lạc kia đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất làm nên dải phổ cảm xúc thơ Nguyễn Trọng Tạo. Nhưng cũng cần lưu ý thêm rằng, đó là chất nhà quê vùng Hoan Diễn - Nghệ An và đã được bồi đắp thêm những tố chất văn hoá của các vùng quê khác mà bước chân lưu lạc của Nguyễn Trọng Tạo đã từng đặt chân đến. Thế mới ngu ngơ, tưng tửng nhưng cũng hết sức ngọt ngào mềm mại. Đó là cái mềm mại hiện lên sau cái vẻ gẫy gập, trúc trắc, xa xót của những câu ví dặm quê anh.
Cớ chi gió thổi bay về trời cao
Ta lên sân thượng chạm vào
Cỏ may. Ta cúi xuống chào… Cỏ may!
(Cỏ may trên sân thượng)
rồi cũng khóc như em khóc cho điều đã mấtCái chất libido trong thơ Nguyễn Trọng Tạo có nhiều cung bậc khác nhau, khi nồng nàn bốc lửa, cuồng nhiệt đắm say, khi ngơ ngẩn một niềm hối tiếc, khi xót xa máu ứa… Nhưng tất cả đều trang nhã, nó không quá mạnh như lứa thi sĩ trẻ sau anh. Cũng phải thôi, đó là cách nói của hai thế hệ. Thế hệ sau bảy lăm dám nói thật những cuồng nhiệt của mình cho dù đó là một sự thật gây sốc với nhiều người nhất là những người đạo đức giả. Còn Nguyễn Trọng Tạo, anh biết tìm đến cách nói “nửa phô mình ra nửa giấu lại mỉm cười” trong nguồn mạch thi hoạ phương đông. Đây cũng là một lựa chọn để tạo thành một bản tính trong thơ.
trâm Cỏ Thi. Ừ nhỉ, cỏ thôi mà
nhưng nước mắt…cũng như em, tôi đã
thêm một lần tái diễn trước cỏ hoa.
(Tái diễn)
Đăng bởi Cam Ly vào 24/02/2007 23:58
(Lê Mỹ Ý phỏng vấn nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo)
LÊ MỸ Ý (LMY): Ông là một trong những người nổi tiếng đặc biệt là với những bài thơ tình. Thơ tình của ông là từ cảm hứng với các người đẹp mà ra, hay do cảm xúc... tưởng tượng?
NGUYỄN TRỌNG TẠO (NTT): Tôi có trên 100 bài thơ tình, và nhiều bài được bạn trẻ chép vào sổ tay hoặc thuộc nằm lòng. Trên 100 bài thơ ấy có phải để dành cho trên 100 đối tượng tình yêu hay không thì chính tôi cũng không giải thích được. Nhà thơ Neruda viết 100 bài thơ tình chỉ để dành tặng riêng cho một người phụ nữ ông yêu. Còn tôi thì không phải như vậy. Có bài thơ sinh ra chỉ vì một đối tượng tình yêu duy nhất, nhưng cũng có khi đối tượng chỉ là cái cớ của bài thơ tình tôi viết, bởi nó khơi dậy toàn bộ ký ức tình yêu của tôi. Có một bài thơ tình rất nhiều thế hệ sinh viên thuộc, đó là bài Không đề, mở đầu bằng câu “Anh trót để tình yêu tuột mất…” lại là bài thơ tôi viết tặng cho mối tình đầu của một anh bạn nhà thơ có thời sống ở Qui Nhơn. Đó là nhà thơ Ngô Thế Oanh. Sau cuộc chia tay với mối tình đầu, Oanh chỉ còn yêu những cô gái có đôi mắt giống đôi mắt của người yêu đầu tiên. Điều đó ám ảnh tôi rất ghê. Cái đôi mắt đó cũng đẹp như đôi mắt người yêu đầu tiên của tôi, nó luôn ám ảnh tôi. Và nó ám ảnh vào đoạn kết bài thơ: “Anh trót để ngôi sao bay khỏi cát/ Biếc xanh em mãi chớp sáng vòm trời/ Điều CÓ THỂ đã hoá thành KHÔNG THỂ/ Biển bạc đầu nông nổi tuổi hai mươi”. Nhưng cũng có bài thơ sau khi công bố, tôi nhận được điện thoại của “đối tượng thứ thiệt” nói rằng: “Có nhiều người tặng thơ cho em nhưng em nghĩ họ tặng ai cũng được; chỉ bài thơ của anh là tặng riêng em”. Khi ấy, tôi thấy mình thật hạnh phúc. Đấy là trường hợp bài thơ Nỗi nhớ không tên:
Lang thang đường phố HuếLMY: Có lần tôi đã hỏi ông rằng, đã có bao nhiêu người đẹp đi qua cuộc ờii ông, ông chỉ cười. Cho đến thời điểm này, ông đã có thể tạm thời “thống kê” chưa?
nhớ chiều nào xa Vinh
trời thắp vì sao xanh
thương nhớ về mắt biếc
Đường xưa toàn người đẹp
Nay đỏ trời phượng bay
Huế dầm mưa Nguyễn Bính
Vinh nắng hừng phương ai
Còn chi là rượu nữa
uống hoài mà không say
bia biệt ly quán lạ
ngả nghiêng bao tháng ngày
Ngỡ sông là cánh tay
Mát mềm như ngà ngọc
ngỡ chiều như chiều nay
gió thổi mùa xanh tóc
Có một chàng Đơn Độc
bước trên đường Không Tên
có một nàng Hạnh Phúc
ở số nhà Lãng Quên…
Bây giờ ngày ấy mai sauLMY: Vậy là khi yêu, ông đều làm thơ tặng người ta?
em mười bảy tuổi và câu thơ buồn
giọt mưa rơi xuống cội nguồn
bởi chưng mái giột mưa còn ướt anh
một ngày héo một ngày xanh
một đời nhớ một đời thành lãng quên
mấy chàng yêu cũ điên điên
chuyền nhau điện thoại gọi em đường dài
yêu nhiều sao chẳng kết ai
trớ trêu đời thực sắc tài kỵ nhau
bây giờ ngày ấy mai sau
người không còn tuổi và câu thơ thiền...
Đăng bởi saoviet vào 19/09/2008 17:32
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 19/09/2008 20:10
1. Net mùa thu là tập thơ có ý tưởng lạ: kết hợp bài thơ đăng trên mạng và các comment. Điều này có thể thu hút bạn đọc. Song ngoài điều đó, có phải điểm chính là những bài thơ lạ, mới và hay?
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Trước hết tôi khẳng định đây là tập thơ NET đầu tiên xuất bản tại Việt Nam được chọn trên cơ sở “bầu chọn trực tiếp” của bạn đọc bằng comment (cảm nhận, góp ý) của người đọc văn học mạng (Internet) và quan điểm của Ban Tuyển Chọn (Nguyễn Trọng Tạo - Hà Linh - Phan Chí Thắng). Có bài thơ hiện hàng trăm cảm nhận của bạn đọc và cũng có bài thơ không nhiều comment. Tuy vậy, hầu hết những bài thơ được chọn trong Net mùa thu đã gây được sự chú ý của “dư luận” bạn đọc văn học mạng. Một tập thơ phong phú về đề tài, đa dạng về phong cách và đặc biệt có nét táo bạo về cách tân cả nội dung và hình thức, thậm chí có bài mà báo giấy “sợ” không dám đăng.
2. Khi tham gia tuyển chọn, điều gì làm cho anh thấy hứng thú ở tập thơ này? Anh đánh giá Net mùa thu ở mức độ nào: một tập thơ kỷ niệm hay một tập thơ đáng đọc...?
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Có lẽ hứng thú nhất là hình thức in bài thơ kèm những comment. Tôi nghĩ tới bạn đọc rộng rãi khi đọc xong bài thơ rồi đọc “ý kiến nóng” của người khác về bài thơ đó, họ sẽ có sự so sánh với cảm nhận của chính họ, và điều thú vị sẽ xảy ra là người đọc sẽ “động não” và có “ý thức phê bình” hơn khi đọc thơ. Điều đó làm cho thơ gần gũi và đi sâu vào bạn đọc hơn. Vì vậy, nó vượt qua quan niệm in thơ hiếu hỷ, và tất nhiên tôi tin nó có sức hấp dẫn bạn đọc.
3. “Nhà nhà làm thơ, người người làm thơ”- gần như ai cũng biết. Thế nhưng chúng ta thấy Nhà thơ thực sự có câu thơ in vào trí nhớ bạn đọc lại không phải nhiều. Và các tập thơ hàng ngày, hàng tháng xuất hiện nhưng số lượng chỉ 500-1000 cuốn. Lâu rồi chưa có 1 tập thơ, bài thơ ấn tượng truyền tai nhau, chưa có một nhà thơ trẻ nào được tôn vinh như thời các anh. Cái này theo anh do bối cảnh văn chương hay do chính tác giả, tác phẩm?
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Tôi từng tin “thơ ta vẫn hay”, và hiện nay tôi vẫn tin như thế. Nhưng kinh tế thị trường xáo động đã chi phối xã hội thưởng thức thơ. Nếu nhà thơ trước những năm 1990 được sủng ái hâm mộ vào bậc nhất trong công chúng yêu thơ, thì bây giờ được thay thế bằng minh tinh màn bạc, bóng đá hay hoa hậu. Tôi đọc thơ trên mạng, đặc biệt trên các blog thỉnh thoảng ngạc nhiên về những giọng thơ lạ, những bài thơ lạ và hay mà không thấy xuất hiện trên báo giấy. Có những “tài thơ” như thế đấy, họ chỉ đi tìm tri âm trên mạng.
4. Tình trạng nhà thơ trẻ gần như được nhắc đến hay bị dư luận tranh cãi bởi các xu hướng mới, nhưng cũng mới chỉ được nhớ đến tên hoặc vài câu thơ. Một phần vì chỉ có một số người quan tâm, một phần chỉ được nhắc trên báo, thiếu những bài phê bình thực sự thấu đáo. Phê bình nhờ nhờ, thiếu trình độ hay thiếu bản lĩnh. Phải chăng có một lý giải khác: chúng ta thiếu nhà phê bình như Hoài Thanh, Hoài Chân để có thể mang tới những chọn lựa và cái nhìn sắc sảo hơn với thơ?
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Chỉ những nhà phê bình thực sự đam mê thơ mới có thể phê bình thơ hay. Lòng đam mê cho họ sự gần gũi, hiểu biết về thơ, và đặc biệt là chân thành với thơ. Nhiều comment trên các blog như những bài bình thơ thực sự, những bài “bình nóng” và trực tiếp thường bộc lộ rất rõ chính kiến, cảm xúc của “nhà-phê-bình-bạn-đọc”. Nếu Hoài Thanh còn sống để đọc thơ trên blog, chắc ông cũng sẽ là “nhà phê bình nóng” mà nhà thơ nào cũng sẽ vinh dự khi được ông gõ comment vào bài thơ của họ. Về phê bình thơ hiện nay, tôi lo lắng nhưng chưa hề thất vọng.
5. Với anh, những bài thơ của anh được bạn đọc nhớ đến và thuộc có xuất hiện chậm so với thời gian sáng tác hay là ngay lập tức được đón nhận?
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Khi bài thơ xuất hiện trên blog, sự phản hồi của bạn đọc rất nhanh: khen, chê, hoặc thờ ơ. Những bài nhiều comment cảm nhận, thậm chí thành bài bình luận ngắn, thường để lại ấn tượng cho người đọc. Thời hoàng kim của công chúng thơ trước đây, những bài thơ hay của tôi được người đọc nhớ rất nhanh. Chỉ loại thơ cách tân quá bạo liệt mới phải chờ thời gian “xếp hạng”.
6. Thơ văn rõ ràng đang đi ngược: rất nhiều tác phẩm đăng trên mạng rồi mới quay trở lại in sách. Anh có cho rằng đây là xu hướng của văn học hiện đại? (Trung Quốc đã khá thành công với mô hình này)
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Nếu nhà văn công bố tác phẩm và giữ bản quyền trên mạng trước khi in báo, in sách thì không thể gọi là ngược. Nó như là giai đoạn thăm dò và điều chỉnh khiếm khuyết của tác phẩm cho đến hoàn hảo. Nhiều tác giả đã sửa lại tác phẩm qua ý kiến sâu sắc, thong minh, bất ngờ của bạn đọc mạng. Ngay trong một thời gian nằm trên mạng, có tác phẩm được sửa chữa nhiều lần khác nhau. Vấn đề công chúng mạng khuyến khích nhà văn rất nhiều trong sáng tạo. Cách biên tập và xuất bản chưa chuẩn của ta cũng góp phần thúc đẩy văn học mạng phát triển. Xu hướng hiện đại là xu hướng tự do cho văn học phát triển.
7. Tiểu thuyết, truyện ngắn để tạo nên những cuốn best seller trong bối cảnh hiện nay đang là điều vô cùng khó khăn. Nhưng khi thơ văn đẩy lên mạng ta cũng có thể thấy có một lượng độc giả khá và các bài thơ đã có sự phản hồi. Theo anh, thơ liệu có sự bứt phá nào đấy, hay chỉ là những tác phẩm in đẹp, kỷ niệm, còn giờ là thời của internet-các bài thơ cũng chỉ được đón nhận từ mạng?
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Thời nay cuốn sách bestseller thường cộng hưởng với quảng cáo, tiếp thị. Tất nhiên nó cũng phải có “nội lực” nhất định. Có chiêu quảng cáo độc hơn là “thuê thu hồi sách rồi phạt vi phạm hành chính dăm triệu thôi”. Ha ha, thế đấy, “của cấm là của quí”, bạn đọc tha hồ tìm sách cấm qua chợ đen. Lợi nhuận trôi vào nhà sách, còn tác giả thì ngoài tiền bạc còn được công chúng phong danh hiệu “hiệp sĩ bị trù dập”. Vấn đề thực chất của văn chương phát triển lại nằm ở chỗ khác, đó là văn tài và văn hay.
8. Thời gian vừa qua cũng có một số nhà thơ, khuynh hướng thơ được coi là lạ lẫm, bạo dạn và gây sock xuất hiện. Tuy họ chưa tạo được một khuynh hướng mới, một tên tuổi thơ đủ sức hấp dẫn và lôi cuốn bạn đọc nhưng họ đã dám thể nghiệm, dám sống với suy nghĩ của mình. Ông nghĩ thế nào về các cây viết trẻ và sự đón nhận của công chúng với thơ mới - thơ hậu hiện đại?
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Không ai muốn làm thơ như cũ, phải làm mới. Nhưng rất nhiều, rất nhiều người kể cả người đã nổi tiếng vẫn lực bất tòng tâm. Ngay cả trẻ cũng vậy, nhưng trẻ bao giờ cũng có lợi thế của họ, lợi thế nhất là họ trẻ nên nhìn thế giới mới mẻ hơn. Thơ hiện đại hay thơ hậu hiện đại chủ yếu là thay đổi hình thức, cách nói. Nó cũng chẳng hơn lục bát hay xon-nê Đường luật... về hình thức. Nhưng nếu nó làm cho công chúng thích thì kho tàng thơ sẽ phong phú và mới mẻ hơn. Tôi tin rồi sự phá cách và phá phách của lớp trẻ sẽ đến lúc trưởng thành hơn.
9. Con đường của các nhà thơ trẻ bây giờ gần giống nhau: ban đầu say mê, miệt mài với thơ, với rất nhiều tuyên ngôn và sự dấn thân. Song dần dần bị giảm nhiệt và làm thơ như một sự trang trí, còn hầu hết chuyển nghề báo, văn, hội hoạ, biên kịch... Con đường thơ văn vì thế mà cũng rời rạc? Đây có phải là cách làm không chuyên nghiệp và ngõ cụt của các nhà thơ?
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Đó là đồ thị phổ biến của các nhà thơ trẻ, một đồ thị lên nhanh xuống nhanh rồi đi ngang. Có lẽ nó nhuốm phải căn bệnh “đi tắt đón đầu” “ăn xổi ở thì” mà cha ông đã chỉ ra. Đó không phải phẩm cách của nhà thơ. Cuộc sống khó khăn cũng xô đẩy họ và ta có thể ngậm ngùi thông cảm và chia tay họ. Nhưng với những tài năng văn chương thật sự thì ta vẫn có quyền hy vọng họ sẽ vẽ một đồ thị khác lạc quan hơn.
10. Nếu được chọn 5 gương mặt thơ trẻ, anh sẽ chọn ai? Liệu đủ đủ để chọn 5 hay đông hơn, có thể chọn được 10?
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Thú thực tôi không thích làm giám khảo để lựa chọn nhà thơ. Đối với người trẻ, tôi thích cá tính và dấu hiệu bí ẩn của tài năng. Những tên tuổi thơ trẻ giao thời giữa hai thế kỷ tôi đã nói nhiều đến Văn Cầm Hải, Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly... và họ đã dần tự khẳng định tên tuổi của mình. Giờ thấy xuất hiện Trang Thanh, Dương Anh Xuân, Trương Quế Chi, Nguyên Anh hay Nguyễn Thế Hoàng Linh... Hy vọng thì nhiều, nhưng quan trọng phải là sự tự bứt phá của chính họ. Nếu họ tung thơ lên blog riêng chắc sẽ hiểu rõ mình hơn qua bạn đọc, bởi thơ trên blog đang làm xao động và thu hút sự chú ý của công chúng thơ hiện nay.
Đăng bởi saoviet vào 11/12/2008 11:38
Ngày 28 tháng 7 năm 2007, tại Vancouver, đã diễn ra cuộc ra mắt sách lý thú và ít gặp của hai người viết, một trong nước và một ở hải ngoại. Nhà văn Nam Dao từ Quebec với bộ tiểu thuyết lịch sử Bể dâu, gồm hai tập. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo từ Việt Nam với tập Thế giới không còn trăng. Chương trình được tổ chức bởi tạp chí Người Việt hải ngoại (Nhóm Chủ Trương: Vân Hải, Việt Phong, Hà Chính Bình, Trịnh Độ, Đỗ Quyên). Rất đông bạn đọc đã đến dự, đóng góp ý kiến, nhiều người đọc tham luận hội thảo. Sau đây là bài của Nguyễn Đức Tùng.
Thật khó để cùng một lúc nói về hai người khác nhau, nhất là khi một người là nhà viết tiểu thuyết và một người là nhà thơ. Điều may mắn của tôi là ở chỗ nhà văn Nam Dao cũng là người làm thơ và nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cũng không xa lạ gì với văn xuôi. Hôm nay tôi muốn kể với các bạn và hai tác giả, hai vị khách của chúng ta từ xa đến, về những kinh nghiệm của tôi như một người đọc.
Lúc còn nhỏ và khoảng chín mười tuổi, tôi đã bắt đầu tập đọc sách. Thật khó nhớ lại xem cuốn tiểu thuyết đầu tiên hay tập thơ mà ta đọc lúc ấu thơ là cuốn sách nào. Vậy tôi xin gọi đó là những cuốn sách đầu tiên trong đời sống mỗi người.
Mẹ tôi đọc ca dao và kể chuyện cổ tích cho tôi nghe, nhưng cha tôi thường đi xa và ông để lại cho tôi một tủ sách khá lớn. Tuy nhiên, tôi còn nhớ rằng niềm say mê với văn học chỉ bắt đầu trong một buổi trưa hè trong căn nhà của bà ngoại tôi, trên một vựa lúa lớn, nơi tôi tìm thấy cuốn sách đầu tiên của đời mình. Tôi còn nhớ đó là cuốn sách rất cũ, ố vàng của ai để lại nhiều năm, một tập tiểu thuyết đường rừng hình như của Lan Khai. Mặc dù cha tôi là một người đọc sách, ông ít khi ở nhà, vì vậy thuở vào đời, tôi thật sự không có ai hướng dẫn. Vả lại thời đó nước ta còn nghèo và chiến tranh, lượng sách trên thị trường ít, nên người đọc không có nhiều chọn lựa. Tôi đọc tất cả những sách nào cầm được trong tay hay có thể năn nỉ mượn được.
Trước khi các chính phủ ban hành luật kiểm duyệt thì các bậc cha mẹ đã thực thi chúng rồi. Những cuốn sách bị cha tôi cấm đọc hồi ấy, thường là các sách kiếm hiệp và trinh thám. Tôi thường phải chui vào gầm bàn thờ, phía sau bức mành tre để đọc. Chị tôi còn táo bạo hơn, và tôi nhớ có lần chị ấy mê một cuốn võ hiệp Kim Dung, đã chui vào trong chăn và mở đèn pin lên để đọc, trong khi ngoài trời mưa lớn. Cái thú đó bỗng cắt ngang vì bị cha tôi bắt gặp.
Những kinh nghiệm đọc như thế của tuổi thơ, ngày nay kể lại chỉ là những kỉ niệm đáng yêu. Tuy nhiên, việc đọc sách, đối với nhiều người có thể là một công việc gian nan, thậm chí nguy hiểm. Lịch sử của nhân loại và Việt Nam đã để lại biết bao câu chuyện đau thương về việc những người đọc sách, hay cất giữ sách báo bị cấm đoán, hay phát tán các sách báo này, đã bị hành hạ, ngược đãi, thậm chí tù tội ra sao. Ngày nay việc người đọc trong nước đọc sách báo hải ngoại và người đọc hải ngoại đọc sách báo trong nước, cũng không dễ dàng như ta tưởng. Ngày nay ở Việt Nam hay ở hải ngoại, viết là một hành động can đảm. Ngày nay, đọc cũng là một hành động can đảm. Con đường đi từ tác giả đến người đọc là con đường chông gai vạn dặm. Đáng ngạc nhiên thay, cùng một lúc, nó lại ngắn vô cùng, như con đường đi từ tâm hồn đến tâm hồn. Nhà văn Canada David Bergen, một người bạn mới quen của tôi kể cho tôi nghe là trong khi đi Việt Nam để tìm tác giả Bảo Ninh của cuốn Nỗi buồn chiến tranh (Sorrow Of War) mà ông yêu thích, mặc dù không gặp, đã thai nghén tác phẩm The Time in Between, được Nguyễn Tuệ Đan dịch ra tiếng Việt là Ở Lưng Chừng Thời Gian, khá nổi tiếng. Mặc dù theo tôi cả hai cuốn sách nói trên đều chưa phải là những tác phẩm cực kỳ xuất sắc, mối tình tri âm của một người đọc và một nhà văn như thế trong thời hiện đại là điều đáng suy nghĩ.
Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu có người nói với chúng ta rằng: tiểu thuyết của Nam Dao và thơ của Nguyễn Trọng Tạo là các loại sách báo tuyên truyền của nhà nước Việt Nam. Tôi cũng không ngạc nhiên nếu có người khác lại khuyên chúng ta rằng: các tác phẩm của các anh là chống phá nhà nước, chống phá Việt Nam.
Những điều như thế không có ích gì cho văn học và thực sự là không dân chủ. Người đọc hãy lắng nghe tác giả của chúng ta nói về chính mình.
Người ước mình trẻ lại người ước mình già điNguyễn Trọng Tạo là người có khả năng chỉ ra tính chất đặc trưng của xã hội mà người Việt đang sống với những câu thơ hồn nhiên. Chính vì hồn nhiên nên thơ anh không trở thành phương tiện chuyển tải của các ý tưởng. Những ý định chuyển tải nội dung như thế thật ra là chống lại thơ ca, hạ thấp chúng.
Người ước mình.vĩ đại người ước mình li ti
Ta không trẻ không già
Không li ti không vĩ đại
Ta trung bình nhưng ta không giả dối
(Tội đồ của thời gian)
Tôi hỏi Công chúa: Thạch Sanh đi đâuNhư thế là Nguyễn Trọng Tạo đã xông thẳng vào quán Lý Thông, tức là cái hang ổ của lịch sử, của bi kịch lịch sử. Ở trong cái quán ấy, nếu tôi được phép nói một cách hình ảnh, anh cũng sẽ gặp Nam Dao từ một cánh cửa khác tiến lại, trên tay cầm bộ tiểu thuyết Bể dâu hai tập, gần một ngàn trang, vừa viết xong.
Công chúa lầu bầu trả lời: không biết
Tôi hỏi Nguyệt Nga: Vân Tiên đi đâu
Nguyệt Nga âu sầu: hình như đã chết
Tôi hỏi cave. Cave cười ngất
Chợt nhận ra mình giữa quán Lý Thông
(Trong quán Lý Thông)
Tôi ngửng lên. Cao vót, một cánh chim trắng liệng tròn. Cái có thể hiểu rất giới hạn. Nhưng tôi hiểu chim sinh ra để bay. Tôi hiểu, tư duy với chúng ta hệt như chim vẫy cánh. Và làm thơ, những nhà thơ mong phục hồi cái chức năng ấy cho chính mình và cho tất cả mọi người.Thú vị vô cùng là ở đoạn cuối cuốn tiểu thuyết, Nam Dao lại nhắc đến thơ và nhà thơ. Tôi không biết anh có ý định như thế từ đầu hay đây là cái kết thúc tự nhiên của toàn bộ câu chuyện... qua nhân vật Phan Thượng Dân.
(Nam Dao, đoạn kết của tiểu thuyết Bể dâu, trang cuối, 981)
Mây như sóng như bông như núi trắng mịt mùngHoa thì không, nhưng tình vẫn còn tươi.
Mây như biển duềnh lên tóc trắng
Không còn sông Visla tiếng khóc cười xa vắng
Bó hoa hồng người tặng chẳng còn tươi
(Trên chuyến bay giã biệt)
Đăng bởi saoviet vào 11/12/2008 11:40
(VietNamNet) - Với Nguyễn Trọng Tạo, phong vị trữ tình chưa đến mức lẳng lơ nên rất may nó cũng chưa đánh thức được bản năng gốc đáng sợ nhưng nó khơi dậy trong ta niềm sung sướng pha lẫn nỗi hoài nhớ về những kỷ niệm êm đềm đẹp đẽ và sâu lắng.
Nói đến Nguyễn Trọng Tạo là người ta nhớ ngay đến một nhà thơ, một nhà báo, một kẻ lãng du không bến đỗ nhưng ít ai nhớ đến một Nguyễn Trọng Tạo với những ca khúc khá trong sáng.
Cũng như đa số các nhạc sĩ cùng thời, Nguyễn Trọng Tạo sáng tác bằng cảm hứng bản năng, bằng nguồn sữa dân ca không bao giờ cạn. Người ta nhớ đến một Làng quan họ thấm đẫm chất trữ tình với chiếc nón quai thao, cơn gió, bờ tre, vầng trăng, câu hát gọi bạn vv... rất khác với làng quan họ của nhạc sĩ Phó Đức Phương.
Cảm xúc về quê hương, về ngôi làng ám ảnh Nguyễn Trọng Tạo đến mức anh sáng tác một loạt những ca khúc như: Cảm xúc biển quê, Chèo thuyền trên sông Bùng, Đôi mắt đò ngang, Làng tôi bên dòng Ô Lâu, Khúc hát sông quê vv...Có lẽ anh là nhà thơ yêu thích kinh Thi, thơ Đường nên phần ca từ rất được anh chú trọng, được anh trau chuốt tỉ mỉ như nét vẽ trên tranh thuỷ mặc.
Sự khác biệt thể hiện ở chỗ cùng là làng tôi nhưng với Nguyễn Trọng Tạo phải là một cái làng cụ thể, gắn bó máu thịt với hồi ức tuổi thơ như ngôi làng quan họ có con sông Cầu âu yếm ôm “ngang lưng làng quan họ xanh xanh...” Với Nguyễn Trọng Tạo, phong vị trữ tình chưa đến mức lẳng lơ nên rất may nó cũng chưa đánh thức được bản năng gốc đáng sợ nhưng nó khơi dậy trong ta niềm sung sướng pha lẫn nỗi hoài nhớ về những kỷ niệm êm đềm đẹp đẽ và sâu lắng.
Trong CD Tình khúc 4 mùa, chỉ với 12 ca khúc nhưng Nguyễn Trọng Tạo đã cho thấy sự giao hoà giữa yếu tố lãng mạn mang đậm chất dân dã với nỗi buồn chiêm nghiệm cá nhân trước dòng đời vô cùng vô tận.Phận người, phận dế, bài ca của loài dế trong đêm trăng, suy nghiệm của con người trong đêm vắng mới buồn làm sao, đẹp làm sao!
Cảm nhận về nỗi ngang trái trong tình yêu, tình đời về những tai hoạ ẩn giấu ngay dưới mỗi bước chân buồn bã của lữ khách cô đơn khiến anh viết nên những lời như khóc trong ca khúc Vầng mây bất hạnh. Niềm vui và nỗi đau, hạnh phúc và bất hạnh, sáng và tối,... cùng vật lộn trong tâm hồn của mỗi con người mang bản chất nhị nguyên và Nguyễn Trọng Tạo đã nghe được tiếng động từ cuộc giao tranh ấy nên các ca khúc của anh vừa có tính hiện sinh vừa có nỗi khắc khoải hoài nhớ vẻ đẹp yên lành cổ kính.
Đăng bởi saoviet vào 12/12/2008 14:44
Nguyễn Trọng Tạo thuộc lớp nhà thơ tiêu biểu thời kỳ chống Mỹ. Nếu phải phát biểu ngắn gọn về thơ của lớp nhà thơ này thì thơ Hữu Thỉnh là thơ lấp lánh. Thơ Phạm Tiến Duật là thơ thông minh. Thơ Nguyễn Đức Mậu là thơ thơ đậm đà. Thơ Nguyễn Duy là thơ thuần Việt. Thơ Bằng Việt là thơ trí tuệ. Thơ Vũ Quần Phương là thơ sang trọng. Thơ Nguyễn Trọng Tạo là thơ tài hoa. Thơ tài hoa là thứ thơ khiến người ta có cảm tưởng như đó không phải là kết quả logic của tư duy mà là sự thăng hoa của ngôn từ.
Đã và sẽ còn có nhiều công trình nghiên cứu nghiêm túc về họ. Tôi chỉ “Kính nhi, viễn chi”, cứ bạo miệng nhận xét vắn tắt thế. Đúng hay là sai, ý kiến của tôi cũng không mấy quan trọng.
Tôi gặp nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo lần đầu tại Hội nghị viết văn trẻ toàn quốc lần thứ III (tháng 12-1985). Đấy là đêm đi xem ca nhạc do nhà hát ca-múa-nhạc Việt Nam biểu diễn phục vụ hội nghị tại Cung Văn hoá lao động, Hà Nội. Khi nhà văn Chu Lai giới thiệu tôi với nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, anh nói ngay: Lê Huy Mậu phải không? Bài thơ Cầu Tiên in trên Văn nghệ quân đội của Mậu là mình biên tập đấy. Hồi đó, được một nhà thơ nổi tiếng như Nguyễn Trọng Tạo nhớ đến tên, nhớ đến tác phẩm của mình là sướng lắm. Tôi mừng rơn!
Cùng dự Hội nghị viết văn trẻ toàn quốc lần thứ ba với tôi có 156 đại biểu chính thức. Nhiều tác giả trẻ nhưng tên tuổi của họ đã lẫy lừng khắp trong Nam, ngoài Bắc như Nguyễn Quang lập, Nguyễn Đức Thọ, Y Phương, Hồ Anh Thái, Đinh Thị Thu Vân, Nguyễn Trọng Tín… Tôi lọt thỏm vào cái hội nghị “toàn sao” ấy nên không dễ gì gặp được Nguyễn Trọng Tạo lần nữa.
Sau lần đó, tôi có gặp Nguyễn Trọng Tạo một hai lần ở Huế. Chính xác là hai lần. Một lần là khi tôi tham gia đoàn cán bộ văn hoá Đặc Khu Vũng Tàu-Côn Đảo ra Huế thẩm định mấy vở cải lương mới dựng của đoàn cải lương Trùng Dương, và một lần là cùng đoàn cán bộ Tuyên giáo đi tham quan các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên.
Nguyễn Trọng Tạo là người dễ gần. Anh không cố tạo khoảng cách để phân biệt đẳng cấp với người đi sau, với người ngưỡng mộ mình. Tôi nguyên là một Chánh văn phòng. Có thâm niên trong việc tiếp các loại khách. Ngoài khả năng tổng hợp, viết văn bản, tôi còn có khả năng tự biết mình phải ngồi vào vị trí nào trong bàn tiệc. Không ai dạy cả. Không ai bắt mình phải ngồi chỗ này, hay chỗ khác trong bàn tiệc. Nhưng nếu mình láu táu ngồi sai vị trí là có người khó chịu ngay. Là nhà văn, nhưng không phải nhà văn nào cũng dễ tiếp xúc, dễ gần. Tôi nhớ mãi, lần tôi dự hội nghị Văn hoá - Văn nghệ toàn quốc tại Cửu Long. Nhà thơ Hữu Thỉnh có tổ chức một buổi tham quan, tiếp xúc với Hội Văn nghệ Cửu Long. Đoàn chỉ có mấy người, trong đó có nhà thơ T.Th. Tôi cũng lịch sự bắt tay nhà thơ, rồi đi gần cạnh nhà thơ, nghe nhà thơ chuyện trò với nhà thơ Hữu Thỉnh suốt cả buổi. Nhưng tuyệt, ông không hề hỏi tôi công tác ở tỉnh nào, có viết văn hay làm thơ gì không? Nhà thơ Hữu Thỉnh, có lẽ là do thương tình tôi, thỉnh thoảng ông có quay sang nói với tôi một câu gì đó cho đỡ tẻ. Tôi không có cách nào “đi chỗ khác chơi”, đành phải làm chú cún con, lẽo đẽo theo chân hai nhà thơ lớn.
Với Nguyễn Trọng Tạo thì khác. Nguyễn Trọng Tạo nâng niu tất cả. Anh từng viết lời tựa, lời bạt cho các tập thơ trẻ, viết lời giới thiệu in báo cho nhiều tác giả mới có sách đầu tay. Bằng tất cả sự trân trọng cần thiết, mà không phân biệt người ấy đã nổi tiếng hay chưa nổi tiếng. Nguyễn Trọng Tạo khen chê rất chân thành, nhiều khi chân thành đến cực đoan. Người thiếu bản lĩnh, hay người luôn “quan trọng hoá” đẳng cấp của mình thường không dám mạnh dạn thế. Tôi biết, có nhiều nhà thơ đã thành danh hiện nay, nhưng những bước chập chững vào nghề luôn nhận được sự khích lệ, sự quan tâm đúng mực của Nguyễn Trọng Tạo. Không phải chỉ có tấm lòng, Nguyễn Trọng Tạo còn là “nhà” phát hiện tài năng văn học có đẳng cấp trong cả nước. Anh nhanh nhạy, sâu sắc, có khả năng “đọc” được cái tiềm năng văn học dù chỉ mới đọc qua họ một bài, một chùm bài sáng tác đầu tay của họ. Chính nhà thơ Ngô Minh cũng rất khâm phục tài “đọc” tiềm năng văn học của Nguyễn Trọng Tạo.
Sau này, được quen biết, được uống rượu nhiều lần với Nguyễn Trọng Tạo, tôi thấy, anh luôn luôn quên mình là Nguyễn Trọng Tạo. Vui đến giọt rượu cuối cùng. Nhớ hôm liên hoan bế mạc trại sáng tác âm nhạc của Hội nhạc sĩ Việt Nam tại Vũng Tàu, Giám đốc nhà sáng tác Đỗ Mão cắn vào áo Nguyễn Trọng Tạo làm rách toạc cái áo anh đang mặc. Đỗ Mão cởi ngay cái áo của mình đưa cho Nguyễn Trọng Tạo và nói: Đây! Ông mặc cái áo này, đưa cái áo tôi cắn rách đây, cho tôi làm kỷ niệm. Kiến trúc sư Trần Tam Thiên - bạn Đỗ Mão thấy thế, bèn cởi ngay quần dài của mình ra để đổi quần với Nguyễn Trọng Tạo. Tôi thấy, cuộc đùa vui đã có phần hơi “quá trớn”, đã đến lúc phải dừng lại. Tôi sợ Nguyễn Trọng Tạo khó chịu, sợ anh nổi nóng lên thì có mà mất vui. Nào ngờ, anh cũng vui vẻ cởi quần dài ra trao đổi với Trần Tam Thiên ngay tại chỗ. Độ dài của hai vị khá là bằng nhau, nhưng vòng bụng của Trần Tam Thiên phải thua Nguyễn Trọng Tạo vài số. Một anh thì không cài khuy bụng được, còn một anh phải thắt túm quần lại.
Nguyễn Trọng Tạo là người đa tài. Điều đó nhiều người biết. Nhưng tôi còn nể anh ở sức làm việc, năng lực làm việc. Nhớ lần tôi theo chân Nguyễn Trọng Tạo đến nhậu ở nhà hoạ sĩ Văn Sáng. Dọc đường, có điện thoại của báo Gia đình trẻ em hẹn đầu giờ chiều xin anh bài viết về Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VII vừa bế mạc. Nhậu riết, hết chai nọ đến chai kia, đến chiều, tôi sực nhớ ra anh còn nợ bài viết như đã hứa và nhắc anh. Nguyễn Trọng Tạo uống nốt ly rượu dở rồi mới ngồi vào bàn viết – khi anh cầm bài viết, chừng hai trang đánh máy A4 ra, nhậu tiếp, tôi phục lắm. Lại một lần khác, tại nhà khách Dầu khí cạnh nhà tôi, lúc nhậu về, cũng đã khá khuya. Tôi nằm lăn ra giường. Còn Nguyễn Trọng Tạo lôi máy laptốp ra gõ cạch cạch. Tôi thiếp đi lúc nào không biết. Khi tôi tỉnh dậy, thấy Nguyễn Trọng Tạo gục đầu lên màn hình máy laptốp ngủ ngon lành. Tiếng ngáy nghe êm đều như tiếng xe máy chạy rôđa. Tính thức anh dậy lên giường ngủ nhưng thấy anh đang ngủ ngon lành quá, đành thôi. Gần sáng, thức dậy, tôi lại đã nghe tiếng gõ máy laptốp lạch cạch rồi. Anh vừa làm xong cái trả lời phỏng vấn cho một tờ báo nào đó - để ngày hôm sau đã có thể “ngồi” với bạn bè cả buổi được!
Mỗi nhà văn có một phong cách lao động sáng tạo riêng. Các nhà văn lớn, theo chỗ tôi biết, thường có chút gì đó hơi đồng bóng, khác thường. Trời phú cho họ một trí nhớ tuyệt vời, một trí tưởng tượng tuyệt vời. Quá trình sáng tạo là quá trình nhập đồng, là sự thăng hoa của trí tưởng tượng. Tôi không định so sánh Nguyễn Trọng Tạo với những tài năng lớn, tôi chỉ muốn nói về phong cách lao động sáng tạo của Nguyễn Trọng Tạo có gì đó cũng nhập đồng, cũng thăng hoa khác thường. Anh làm việc trong một trạng thái không chuẩn bị sẵn, không theo một kế hoạch trước (hay chí ít anh cũng gây cho tôi cảm giác như vậy) mà bằng những cảm hứng.
Trường hợp ra đời của bài hát Khúc hát sông quê là một minh chứng cho điều đó. Đêm trước, khi tôi chở Nguyễn Trọng Tạo về Nhà sáng tác, Nguyễn Trọng Tạo đã ở trong trạng thái lâng lâng bia rượu. Tôi bỏ tập bản thảo chừng 5 bài thơ trên bàn làm việc rồi về. Rượu là ngà, phòng mát mẻ anh ngủ một giấc ngon lành. Sáng hôm sau, khi tắm biển về, anh mới cầm mấy bài thơ của tôi đọc thử. Và, theo anh nói, chừng khoảng 30 phút, anh đã “ký âm” xong và anh hát thử bài hát Khúc hát sông quê và gọi điện cho tôi. Như mọi người đều biết, bài hát Khúc hát sông quê nhanh chóng tìm được cảm tình của người hâm mộ. Tôi luôn được anh coi là đồng tác giả, nhưng tôi biết, nhiều lắm, tôi cũng chỉ đóng vai trò gây cảm hứng sáng tạo cho anh. Cái làm nên âm hưởng ngọt ngào, vang vọng của bài hát chính là phút thăng hoa Nguyễn Trọng Tạo. Tôi đã học về học thuyết phản ánh của Lênin. Nhưng, tôi thấy, trong lao động sáng tạo đặc thù, đem học thuyết phản ánh của Lênin để giải thích là hơi bị khiên cưỡng. Cảm hứng sáng tạo là cái gì đó gần với duy tâm hơn. Nó ma thuật, vô thức lắm! Khi đọc cuốn Tích hợp đa văn hoá Đông-Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai của Giáo sư Hoàng Phương, tôi thấy, ông giải thích về cơ chế hoạt động sáng tạo có phần đúng. Hình như ngoài con người Nguyễn Trọng Tạo bằng xương, bằng thịt như mọi người đều biết, còn có một Nguyễn Trọng Tạo, ở ngoài Nguyễn Trọng Tạo nữa. Một cơ thể Ơ-ten-lích trừu tượng nhưng có thực, đứng bên ngoài, đứng đằng sau Nguyễn Trọng Tạo sáng tạo ra các tác phẩm.
Đành thì tài hoa nào, sự thăng hoa nào cũng đều bắt nguồn từ một kiến thức thượng thặng. Mà kiến thức thì không thể bằng cách nào khác có được ngoài sự học, sự đọc, sự tích luỹ, sự cày cuốc chăm bẵm trên từng trang sách. Có chăng, đấy là sự hơn đời trong sự đọc, sự học của họ. Nguyễn Trọng Tạo đã tự học như thế nào, tôi không rõ. Nhưng tôi đã vô cùng ngạc nhiên khi đọc tạp chí Văn Học Nước Ngoài của Hội Nhà Văn, thấy anh có tên trong danh sách các nhà dịch thơ. Tạp chí Văn Học Nước Ngoài còn in một lúc gần ba chục bài thơ dịch của anh. Tôi lại ngạc nhiên hơn, khi đọc cuốn Văn chương cảm và luận hơn ba trăm trang của anh. Ngoài cái khả năng phát hiện như tôi đã kể ở trên, Nguyễn Trọng Tạo còn bộc lộ một sức đọc, sức nhớ và sức vận dụng những tri thức khoa học để lý giải nhiều vấn đề mang tính học thuật của văn học, khiến các nhà lý luận phê bình văn học phải nể phục.
Tôi từng nghe bạn bè, người thân Nguyễn Trọng Tạo kể lại, Nguyễn Trọng Tạo vốn là một học sinh giỏi toán của trường cấp III Diễn Châu. Đại sứ Ngô Quang Xuân cũng xác nhận, hồi cùng học cấp III với nhau, Ngô Quang Xuân cũng giỏi như Nguyễn Trọng Tạo, nhưng thua Nguyễn Trọng Tạo ở cái ngón đàn hát. Vì vậy, có một người đẹp mà cả hai cùng theo đuổi thì cuối cùng Nguyễn Trọng Tạo cuỗm mất. Ngô Quang Xuân cú lắm. Ra nước ngoài, anh mày mò học thêm nhạc và học hát. Ngày tôi và Nguyễn Trọng Tạo gặp Ngô Quang Xuân tại khách sạn Mường Thanh (Hà Nội) Ngô Quang Xuân ôm đàn hát Khúc hát sông quê ngon lành.
Tôi có ông anh con bà cô ruột, nguyên là Trưởng ban Tuyên huấn đoàn 22, nơi mà Nguyễn Trọng Tạo từng làm trưởng đoàn văn công ở đó. Anh tôi, nhiều lần ca ngợi Nguyễn Trọng Tạo với tôi. Khi biết được ông em quen biết Nguyễn Trọng Tạo, lại có bài thơ được Nguyễn Trọng Tạo phổ nhạc hát trên tivi, ông anh tôi tự hào lắm! Ngày tôi và Nguyễn Trọng Tạo đến thăm anh, anh tôi lôi chai rượu Tây ra và tuyên bố: Từ ngày anh bị tai biến mạch máu não đến nay, anh bỏ rượu, nhưng hôm nay anh phải uống với hai chú đến say mới thôi!
Từ Bắc chí Nam, Nguyễn Trọng Tạo có nhiều bè bạn. Không ít người mắc chứng “nghiện” Nguyễn Trọng Tạo. Tôi từng chứng kiến có người, tiễn Nguyễn Trọng Tạo lên tàu cánh ngầm xuống Vũng Tàu đi dự trại sáng tác xong, anh ta lại cử con đi xe máy xuống Vũng Tàu, chờ đó, khi nào bác Tạo cần đi đâu thì chở bác đi! Tôi cũng đã nhiều lần lẳng lặng quan sát Nguyễn Trọng Tạo giữa đám đông, và thấy ở đâu Nguyễn Trọng Tạo cũng là tâm điểm chú ý của đám đông. Hôm ăn thịt chó nấu theo kiểu Diễn Châu tại khách sạn Mường Thanh, tôi thấy, ngoài ông Đại sứ WTO Ngô Quang Xuân, còn có anh Ngô Trí Nhân (anh ruột Ngô Quang Xuân) là thiếu tướng cục trưởng cục chiến tranh điện tử, lại có cả một ông thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và nhiều người nổi tiếng khác, nhưng Nguyễn Trọng Tạo vẫn “oách” nhất, được nhiều người nể phục nhất. Chẳng những Nguyễn Trọng Tạo có tài chinh phục đám đông, mà chính anh còn là người mang lại “hồn vía” cho đám đông. Trong bạn bè văn nghệ cũng vậy, Nguyễn Trọng Tạo đến đâu là làm cho câu chuyện ở đó, không khí ở đó bớt tẻ nhạt đi.
Vui là thế, nhưng khi cần Nguyễn Trọng Tạo cũng nóng nảy, quyết liệt. Anh không chấp nhận sự khoe giàu, hãnh tiến về địa vị hay tiền bạc trước đám đông. Anh có thể ngồi cả ngày (chính xác là 25 tiếng đồng hồ) được, nhưng sẵn sàng đứng dậy khi tiệc vừa bắt đầu, nếu không thích. Theo một hệ quy chiếu nào đó, thì Nguyễn Trọng Tạo cũng là người gặp không ít gập ghềnh trên đường đời. Nhưng suy cho cùng, tất cả những khó khăn, khúc khuỷu, gập ghềnh mà người nghệ sĩ phải nếm trải nó cũng chỉ làm cho họ thêm đầy đủ hơn “gia vị” ngọt, lạt, chua, cay của cuộc đời, để hun đúc nên chính họ. Hãy hình dung một Nguyễn Trọng Tạo chính khách, một nhà quản lý, một giáo chức,v,v… thì chưa hẳn đã có một Nguyễn Trọng Tạo hiện diện trong tâm hồn họ, trong sự quý mến của họ như là Nguyễn Trọng Tạo nhà thơ, nhạc sĩ, như là Nguyễn Trọng tạo là tác giả Làng quan họ quê tôi và Khúc hát sông quê nổi tiếng.
Tôi thầm nghĩ, làm Nguyễn Trọng Tạo cũng mệt thật. Vừa nhận được tin nhắn của anh đang ở Điện Biên, đang uống rượu, múa xoè với các em Thái Trắng ở Điện Biên, ít hôm sau lại nhận được tin anh và Nguyễn Thuỵ Kha đang trên đường hành phương Nam. Đi đến đâu Nguyễn Trọng Tạo cũng được săn đón, và, nhậu thâu đêm suốt sáng. Ngay như ở Hà nội, ở Huế, ở Vũng Tàu…hễ Nguyễn Trọng Tạo có mặt là lại vui như tết. Tôi không hiểu anh lấy đâu ra sức lực để vui với tất cả hàng lô, hàng lốc bạn bè khắp cả nước như vậy! Nguyễn Trọng Tạo còn rất mệt với điện thoại di động. Người hâm mộ anh khắp cả nước. Họ hứng lên lúc nào là gọi cho anh lúc ấy. Rất nhiều trong số họ chưa từng gặp Nguyễn Trọng Tạo lần nào. Họ có số điện thoại của anh là vừa điện hỏi thăm đâu đó, tệ hơn, họ gọi cho anh lúc đã say ngất ngưởng, giọng rượu khê đặc. Nhiều cuộc điện thoại dai như đỉa, dứt không ra. Tôi cũng không ít lần gây phiền toái cho anh, chỉ vì người ta mê bài Khúc hát sông quê quá, gặp Lê Huy Mậu chưa đã, phải nói được vài câu với Nguyễn Trọng Tạo mới chịu. Có lúc tôi cũng “buôn” anh, đang ngồi với mấy ông quan khách nhưng mê “sông quê” như điếu đổ, nhận hết công lênh về mình thì xấu hổ, đành phải khai là của Nguyễn Trọng Tạo thôi, và thế là người ta đòi nói chuyện với Nguyễn Trọng Tạo. Tôi run lắm, nhỡ Nguyễn Trọng Tạo đang bực bõ điều gì, lão cáu tiết lên thì bỏ mẹ. Nhưng hình như Nguyễn Trọng Tạo biết mình là Nguyễn Trọng Tạo, nên chấp nhận “thương đau”, hầu chuyện khắp cả nước. Anh còn kể, khi ra nước ngoài, phải mở máy liên hệ, làm việc gì đó ở trong nước, nhưng làm việc thì ít mà phải nghe điện thoại thăm hỏi, chuyện trò và hò hát thì nhiều. Anh là người phải trả tiền cho tất cả những cuộc gọi đi từ trong nước. Vậy mà vẫn nghe…
Làm Nguyễn Trọng Tạo mệt thật! Và, biết làm sao được, Nguyễn Trọng Tạo lại vẫn phải đóng vai Nguyễn Trọng Tạo trong cái đất nước Việt Nam tươi đẹp này thôi. Và hơn thế nữa, anh còn phải đóng vai Nguyễn Trọng Tạo vì người Việt Nam yêu nước ở nước ngoài, bởi Nguyễn Trọng Tạo là của họ, là niềm tự hào của họ trước bạn bè thế giới.
Đăng bởi saoviet vào 12/12/2008 14:45
- Ông này (ý à) có mà uống rượu với cả nước!
Ông Thìn, người nổi tiếng tửu lượng của thị xã Cửa Lò vừa khoát tay, vừa nói một câu xanh rờn màu nước biển. Ông nói về cái sự rượu, sự uống của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, trong một cuộc vui với bạn bè xứ Nghệ trên bãi biển đẹp nhất miền Trung này.
Ờ thì đã là nhà thơ, người làm thơ, người sáng tạo chữ, ai không uống rượu. “Bầu rượu túi thơ” mà. Cổ nhân thật vĩ đại khi tìm ra, chế ra thứ nước uống có cồn, khơi nguồn những sáng tạo của nhân loại. Cái sự uống của ông Tạo nổi tiếng lắm. Thời còn sống ở Huế, ông đã từng trắng đêm với nhà văn quá cố Hoà Vang, đi bộ 20 km lên đỉnh Bạch Mã và đã đi hết can 10 lít rượu Phú Cam - Huế. Ông từng uống với nhạc sỹ Văn Cao, Trịnh Công Sơn... và đã thốt lên một bài thơ 2 câu bất tử: “Sông Hương hoá rượu ta đến uống/ Ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say”.
Tôi biết ông mới có mười năm nay, nhưng tôi cũng đã hiểu ra cái cách “hành tửu” của ông. Ông nói uống rượu phải như đi bộ, phải từ từ, đừng có dô dô, 100% là mất mạng như chơi. Hoá ra, ông đã tự tiết chế mình, hãm mình, tu mình trong tửu đạo. Mặc dù vậy, trong địa hạt chơi mà bây giờ ông gọi là địa hạt thích, ông đã có nhiều tác phẩm sống trong lòng người nghe, người đọc, người xem. Ông nói, lúc nào thích thơ thì thơ, thích không vần thì không vần, thích có vần thì có vần, thích nhạc thì nhạc, thích vẽ bìa thì bìa. Xin được kể như phép thống kê thuần tuý ở sự thích nhạc, thích thơ, thích vẽ bìa sách của ông.
Về sự thích 1, ông nói ngày nào cũng có người yêu nhạc của ông hát cho ông nghe qua điện thoại Khúc hát sông quê – ca khúc ông phổ thơ Lê Huy Mậu – nhà thơ đồng hương Xứ Nghệ của ông, hiện đang sống tại Vũng Tàu. Nhạc của ông da diết hơi thở dân ca máu thịt. Dễ hát, dễ thuộc, dễ xoáy vào tâm trạng của nhiều người gốc quê của nước Việt ta. Trước đây, bài Làng Quan họ quê tôi, phỏng thơ Nguyễn Phan Hách đã từng được đài NHK và chương trình karaoke của Nhật Bản chọn là một trong 100 ca khúc hay nhất của Việt Nam hồi thập niên 80 thế kỷ trước... Tôi cũng được ông cho nghe các CD, VCD nhạc của ông tại nhà riêng. Nhạc ông hướng thiện, dẫn dắt, lôi kéo người nghe về phía đông, về phương đông, nơi có tộc bách Việt đã từng chia ly sum họp. Giai điệu hướng về biển xanh và núi cao, mỗi nơi đã có 50 người con trong bọc trăm trứng nở thành. Ông hát về cuộc ly hôn lớn nhất của mọi thời đại. Sự thích này cũng mang về cho ông cả chục giải thưởng Âm nhạc quốc gia.
Về sự thích 2, ông đã xuất bản 9 tập thơ, 4 tập trường ca, 4 tập văn xuôi. Trong các tập văn xuôi, có Văn chương Cảm và Luận, là cuốn sách được sinh viên, học sinh rất thích. Họ tìm được lối đi, cách tiếp cận các tác phẩm văn học. Cuốn sách này như sách giáo khoa cho sinh viên chuyên ngành Văn, cho học sinh thi đại học. Con gái tôi, cả hai đứa đều đọc thêm tập sách này như tập lý luận văn học chính để nâng cao kiến thức mà chưa có được từ nhà trường. Nhờ thế mà hai con tôi thi khối D, văn đều đạt điểm cao, hai cháu đều đỗ cả. Những năm mới quen ông, khi ông từ Huế ra Hà Nội sống, tôi được đọc tập thơ Đồng dao cho người lớn xuất bản năm 1994, tái bản cuối 1999. Lúc đó sách đã phát hành được mấy năm, nên chính ông cũng chỉ còn 1 cuốn lưu tác giả. Tôi mượn ông tập thơ duy nhất còn lại và đã âm thầm đọc bằng bàn phím computer, âm thầm in ra 2 cuốn giấy cứng, thuê nhà sách Tân Dân ở Cửa Nam, đóng thành tập như sách của nhà xuất bản ấn hành. Tôi mang tặng ông 1 cuốn và đề nghị ông đề tặng vào cuốn còn lại cho tôi. Ông ghi: “Tôi chúc mừng cho thơ tôi đã được Vân Đình Hùng làm sống tiếp trên bản đặc biệt này”. Hồi đó là tháng 4 năm 1999.
Cùng năm ấy, ông cho ra tập thơ Nương Thân. Mở đầu tập thơ, trong lời tựa ông viết: “Người ta nói đời là Cõi Tạm. Tôi thấy mình chỉ là kẻ Nương Thân... Trên con đường vô định, tôi đã đi tìm thơ gần trọn cuộc đời, để quay về với ngôn ngữ thơ ca nhịp chẵn của Việt Nam mình. Thơ lục bát, thơ bốn tiếng, thơ tám tiếng... bao giờ cũng tạo nên những cặp đôi thuỷ chung bền vững như một đặc tính vĩnh cửu của tâm hồn người Việt. Những vần lưng, vần nối của lục bát, đồng dao... cứ đi mãi không ngừng từ thế giới hồn nhiên tới triết lý cao siêu... Và bây giờ, cửa căn phòng bấy lâu khép kín của thơ tôi đã mở. Mời bạn hãy bước vào. Rồi bạn sẽ quen dần với thứ ánh sáng u huyền đang hắt lên từ vết nứt của bức tường ngôn ngữ”.
Lời mời gọi trang nhã này cùng với bức tường ngôn ngữ u huyền, người đọc tự dưng tìm được chốn nương thân đồng cảm cùng ông.
Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến viết sau khi đọc thơ Nguyễn Trọng Tạo: Cảm hứng nhân văn của Nguyễn Trọng Tạo không hề dễ dãi, và, lấp lánh vô tận như những cái chớp mắt... Nguyễn Trọng Tạo không làm thơ tả cảnh.
Tôi xin được dẫn vài câu thơ của ông
... mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió
có thương có nhớ có khóc có cười
có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi
... và em thuở ấy đi biệt xứThơ viết như thế xin đừng bình. Đụng vào nó vỡ tức thì, tan vào thinh không ngay. Nó thật mảnh mai và nhẹ tựa khí trời. “Thơ anh thản nhiên nhẹ nhàng và dễ dàng như những hình tượng đã có sẵn trên cây, anh chỉ việc rung cây là chúng rụng xuống Thơ anh” - (Thuỵ Khuê – Pari, 1993)
sao lại về đây. Lấp lánh. Và…
Trang trong tổng số 3 trang (28 bình luận)
[1] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối