863.77
Nước: Việt Nam (Hiện đại)
439 bài thơ, 30 bài dịch
28 bình luận
26 người thích
Tạo ngày 19/01/2007 16:01 bởi Nguyễn Trọng Tạo, đã sửa 1 lần, lần cuối ngày 07/01/2019 20:52 bởi Vanachi
Nguyễn Trọng Tạo (25/8/1947 - 7/1/2019) là nhà thơ, nhà văn, kiêm nhạc sĩ, hoạ sĩ, sinh tại Diễn Châu, Nghệ An, đi lính năm 1969, học Đại học viết văn Nguyễn Du khoá 1, làm thơ từ năm 14 tuổi. Ông là Uỷ viên Hội đồng thơ của Hội nhà văn Việt Nam, Trưởng ban biên tập báo Thơ (2003–2004), từng được các giải thưởng thơ của Nghệ An năm 1969, và giải thơ của các báo Văn nghệ, Văn nghệ quân đội, Nhân dân (1978), hai lần được Giải thưởng Văn học nghệ thuật cố đô (Huế), Giải thưởng Văn học nghệ thuật Hồ Xuân Hương, Giải thưởng Uỷ ban toàn quốc các hội văn học nghệ thuật Việt Nam về thơ và văn xuôi. Thơ và truyện ngắn của ông dịch ra tiếng Pháp, Anh, Nga, Tây Ban Nha...

Ngoài thơ, ông còn là nhạc sĩ, công tác tại Tạp chí Âm nhạc và Thời đại của Hội nhạc sĩ Việt…

 

  1. 10 bài thơ và một lời ước muốn
    4
  2. A men Nô-Em
  3. An ủi (I)
  4. An ủi (II)
  5. Anh đã yêu như vậy
  6. Anh không muốn mất em
  7. Anh ném em lên trời
  8. Anh yêu em
  9. Ảo giác ngày xuân
  10. Ăng-ko
  11. Ấn tượng Huế
  12. Ba chàng cựu binh lên núi
  13. Bá Kiến thời hiện đại
  14. Bạch hoa
  15. Bài ca thực tại
  16. Bài hát du xuân
  17. Bài hát lá chua me
  18. Bài hát tới trường
  19. Bài học ve
  20. Bài thơ khác
    1
  21. Bài thơ không đặt tên gửi Phan Lạc Hoa
  22. Bài thơ tình tặng người trồng cây trong thành phố
    2
  23. Bài thơ trắng
  24. Bạn bè ở Huế
  25. Bạn của bố
  26. Bạn lính
  27. Bản sắc
  28. Bay
  29. Bay ngày 8 tháng 3
  30. Bắt chước ca dao
  31. Bất tử
  32. Bây giờ yêu
  33. Bé tập nói vần
  34. Bên kia sông Hồng
  35. Bí ẩn La Joconde
  36. Biển chết
    1
  37. Biến khúc giao thừa
  38. Biển vắng
  39. Bóc đi nỗi nhớ mùa
  40. Bóng
  41. Bốn câu
  42. Bống đi chợ hoa
  43. Bút Như-ý
  44. Bức tranh đen
    1
  45. Bức tranh giêng
  46. Bức tranh tình
  47. Các anh chưa mất trí
  48. Cái đẹp sáu ngón
  49. Cảm giác biển hồ hay là thơ bên miệng núi lửa
  50. Cảm thông
  51. Cầm lòng
  52. Câu chuyện tình yêu nghe gió trời kể lại
  53. Cây ánh sáng
  54. Cây bàng
  55. Cây đàn
  56. Cây gậy Nguyễn Quang Lập
  57. Cây hoa phượng tình cờ
  58. Cây sấu nhỏ trước nhà Văn Cao
  59. Cây trong vườn
  60. Chàng hâm ngẫu hứng
  61. Chat với người yêu
  62. Chân trời
  63. Chân và cánh
  64. Chi chi chành chành
  65. Chỉ một mình em
  66. Chia
    2
  67. Chia xa
    3
  68. Chiếc lá phong cuối cùng
  69. Chiêm cảm
  70. Chiến sĩ và vầng trăng trên điểm chốt
  71. Chiều rơi
    1
  72. Chiều thứ tư của không gian
  73. Chim én
  74. Chợ Tết quê
  75. Chợt
  76. Chú mèo đi học
  77. Chủ nhật không bình yên
  78. Chuyện con cá Đối
  79. Chuyện trong nhà hàng
  80. Chưa kết thúc
  81. Chương ba - Quanh tháng ba 1968
  82. Chương bảy - Ống nhòm và đôi mắt
  83. Chương bốn - Hai người yêu gặp lại
  84. Chương chín - Khúc hát mười cây xanh
  85. Chương hai - Ngã ba
  86. Chương một - Hai người yêu chia tay
  87. Chương mười - Thay cho vĩ thanh
  88. Chương năm - Đàn bê và trẻ nhỏ
  89. Chương sáu - Độc thoại của máu
  90. Chương tám - Đỉnh cao
  91. Có đôi bàn tay nhỏ
  92. Có khi
  93. Cỏ may trên sân thượng
    1
  94. Cỏ trên sân bóng
  95. Cỏ và mưa
  96. Cỏ xanh đêm trước
  97. Cõi nhớ
  98. Con chim đen
    1
  99. Con đê trên Bán Đảo
  100. Còn mãi một chân dung
    2
  101. Con sông huyền thoại
    1
  102. Cô gái Ba Lan
  103. Cô gái chăn bò hát trên đồng cỏ
  104. Cổ tích thơ tình
  105. Cu Tốp đeo mặt nạ
  106. Cuộc sống
  107. Cuối năm ngẫu hứng chợ chiều
  108. Cuốn chiếu đi tìm bạn
  109. Cửa Lò phố biển
  110. Dấu vết thời gian
  111. Diễm xưa
    1
  112. Dòng sông mặc áo
    1
  113. Đã chiều rồi
  114. Đà Lạt và hoa
    1
  115. Đà Nẵng không đề
  116. Đảo bão
  117. Đào phai
  118. Đề tặng xa khơi
  119. Đêm âm u tiếng kèn Pha-gốt
  120. Đêm cổ điển
  121. Đêm cộng cảm
  122. Đêm kỳ diệu
  123. Đêm miền Trung
  124. Đêm sông Hồng
  125. Đến Nga nghe tiếng Việt
  126. Đi bộ cùng quá khứ
  127. Đi chợ chiều nhớ Tám
  128. Đi chợ Tết
  129. Đĩa hát bốn mùa
  130. Điện thoại qua đêm
  131. Điều bình thường lạ lẫm
  132. Định nghĩa
  133. Đôi lời với anh
  134. Đồng dao cho bạn
  135. Đồng dao cho người lớn
    5
  136. Đồng dao tặng mẹ tặng ba
  137. Đồng hồ cát
  138. Đợi...
  139. Đừng đốt - thông điệp 24 hình/giây
  140. Đừng gửi cho tôi trăng rằm
  141. Em (I)
    1
  142. Em (II)
  143. Em bé tật nguyền biểu tình trên phố
  144. Em đàn bà
  145. Exit
  146. Ghép lại trái tim
  147. Giao thừa
  148. Giao thừa thế kỷ
  149. Giấc mơ
  150. Giấc mơ không hoàn hảo
  151. Giới thiệu
    1
  152. Giữa quán Lý Thông
  153. Goá bụa
  154. Gọi
  155. Gửi
  156. Gửi anh Hoàng Ngọc Hiến
  157. Gửi con người
  158. Gửi em trong cơn mưa
  159. Gửi H.
  160. Gửi Heraclit
  161. Gửi ông Bùi Giáng
  162. Hà Nội của tôi
  163. Hà Nội kiến
    1
  164. Hải âu
  165. Hàn Mặc Tử
  166. Hát rong
  167. Hát ru em bé Campuchia
    1
  168. Hãy thắp nhang tưởng niệm những hàng cây
  169. Hẹn xuân
  170. Hình như
    2
  171. Họ là ai
  172. Hoa hồng
  173. Hoa ly vàng
  174. Hoa mạc trắng
  175. Hoa ơi ta yêu nàng
  176. Hoa xanh âm thầm dưới cỏ
  177. Hoàng Tử Nhỏ và Bông hồng bốn gai
  178. Huế 1
    2
  179. Huế 2
  180. Hương Sơn
  181. Hươu sao
  182. I. Mặn hơn muối
  183. II. Những cột mốc sống
  184. III. Lính biển
  185. IV. Hải chiến
  186. Khát
  187. Khi cánh đồng có thêm một dòng sông
  188. Khi em thở dài
  189. Khoảnh khắc
    2
  190. Khói cay
  191. Không biết ngày mai anh thích mây hay gió
  192. Không dưng
  193. Không đề
  194. Không đề (I)
  195. Không đề (II)
  196. Không đề (III)
  197. Không đề 72
  198. Không đề cho Đỗ Toàn
  199. Không đề năm mới
  200. Không em
  201. Không gian Lê Bá Đảng
  202. Không tuổi
  203. Khúc hát những người giữ đất
  204. Kiến nâu và đoàn tàu
  205. Ký ức mắt đen
  206. Là ngôi sao
  207. Làng có một ngày như thế
  208. Lao Bảo
  209. Lâm Phương hát
  210. Lê Đinh Chinh, tôi đã gặp anh
  211. Lệch đêm
  212. Lời ru của bờ
  213. Lời ru của người đứng tuổi
  214. Lục bát ga bay
  215. Lưu lạc
  216. Mai giỗ Trịnh Thanh Sơn
  217. Mắc cạn
  218. Mây mặc yếm nâu
  219. Mây trắng
  220. Mẹ thời @
    1
  221. Mẹ tôi
  222. Mẹ tuổi 85
  223. Modules điểm Phùng Thị
  224. Món quê
  225. Mộng du
  226. Một buổi sáng bình thường
  227. Một mình
  228. Một mình nghe nhạc Trịnh
  229. Một mình Thiên Mụ
  230. Một người già thông báo mùa xuân
  231. Một thoáng Praha
  232. Mới
  233. Mời Obama bia hơi Hà Nội
  234. Mùa bình thường
  235. Mùa đông có bao giờ độc thân
  236. Mùa hè ước
  237. Mùa mới
  238. Mùa thi của Cún con
  239. Mùa thu áo ấm
  240. Mùa thu nước Nga vàng
  241. Mưa rừng nghe được
  242. Mưa xa
  243. Mười năm cô Tấm...
  244. Năm bài ví dụ tặng Kh.
  245. Nến trắng
  246. Nếu em ngủ gật
  247. Nếu ngày mai
    1
  248. Nếu ngày mai khi tiệc cưới của em
  249. Ngã sáu chiều mưa
  250. Ngại xuân
    1
  251. Ngày chủ nhật rỗng
  252. Ngày không em
    1
  253. Ngày mỏng dần
    1
  254. Ngày sáng thế
  255. Ngẫu hứng status
  256. Nghẹn nước miền Trung
  257. Nghiền ngẫm
  258. Ngoại tình anh
  259. Ngoảnh lại hư vô
  260. Ngọn gió
  261. Ngôi nhà không có gì
  262. Ngôi sao buồn
  263. Ngủ với mây
  264. Người chất máu làm mực viết thành thơ
  265. Người chèo đò thời chiến
  266. Người đàn bà xa lạ
  267. Người đàn ông trong túi đàn bà
  268. Người đang yêu
  269. Người đẹp nhìn tôi
  270. Người đến muộn
  271. Người Khổng Lồ làng Dóng
  272. Người làm sống lại người
  273. Người ơi mùa lúa
  274. Người phiên dịch chính mình
  275. Nha khí tượng
  276. Nhà thơ thuở ấy
    1
  277. Nhà văn
  278. Nhân dân
  279. Nhân xem bức chân dung Tướng Giáp do Hà Vũ vẽ trong tù
  280. Nhịp điệu Tây Nguyên
  281. Nhớ Apolinaire
  282. Nhớ Phan Lạc Hoa
  283. Nhớ phương Nam
  284. Nhớ rờn rợn xa
  285. Nhớ Rú Cài
  286. Nhớ Tết
  287. Những bài thơ bị lỗi
  288. Những con chữ biểu tình
  289. Những người đàn bà làm thơ
  290. Những người lính đi qua thành phố
  291. Những nhà thơ lính
  292. Những tấm ảnh thời thanh xuân
  293. Niềm vui
  294. Nỗi buồn kiêu
  295. Nỗi nhớ không tên
    1
  296. Núi lớn qua...
  297. Nương thân
  298. Phác hoạ
  299. Phần mở đầu - Khúc hát tặng
    1
  300. Phân thân
  301. Phố đỏ
  302. Phụ nữ
  303. Phục chế
  304. Phút dối lòng
  305. Qua miền gái đẹp
    1
  306. Quà sinh nhật
  307. Quan họ sông Thương
  308. Quê cát
  309. Quên tình yêu
  310. Quy Nhơn không đề
  311. Quỳnh hoa
  312. Rét đêm
  313. Ru hoa
    1
  314. Ru mẹ
  315. Ru trắng
    3
  316. Rút từ sổ tay thơ
  317. Rượu cần
  318. Rượu chát
  319. Rượu rắn cùng bạn thơ
  320. Rượu Tết
    1
  321. Rượu Thành
  322. Sao
  323. Sáo trúc
  324. Say lúc không em
  325. Sắm vai
  326. Sen trắng
  327. Sinh nhật
  328. Sinh nhật mùa thu
  329. Sonnê buồn
    1
  330. Sonnê không định trước
  331. Sonnê lá non
  332. Sonnê ngọn lửa
  333. Số không
  334. Ta của thời đang xuân
  335. Ta đã yêu nhau từ kiếp trước
  336. Tạ từ
  337. Tái diễn
  338. Tạm biệt Cần Thơ
  339. Tản mạn thời tôi sống
    2
  340. Tàu hoả
  341. Taxi
  342. Tặng mối tình cuối của Goethe
  343. Tặng nhà thơ Hoàng Cát
  344. Tấm hình xưa
  345. Tâm trạng
  346. Tập cổ
    1
  347. Tập đếm
  348. Tết này đi thăm
  349. Tết này nhớ mẹ
  350. Tết nhớ cha
  351. Tết nhớ Phùng Quán
  352. Tết sớm gọi tuổi mình
  353. Tháng tám giữ giùm tôi
  354. Thành phố không người quen
  355. Thành phố sau đêm nói yêu em
  356. Tháp Eiffel
  357. Thay đổi địa chỉ
  358. Thèm được anh viết thơ lên ngực
  359. Theo đuổi
  360. Thế giới không còn trăng
    1
  361. Thi nhân
  362. Thiên An
  363. Thiên thần
    2
  364. Thổi từ cát
  365. Thơ
    8
  366. Thơ bốn câu
  367. Thơ đeo tang trắng
  368. Thơ gửi người không quen
  369. Thơ lục bát viết ở Vinh
  370. Thơ nhờ em gửi về Nguyễn Bính
  371. Thơ rời lẩm nhẩm ở nhà sàn
  372. Thơ tám câu
  373. Thơ tặng Ngô Minh
  374. Thơ thứ bảy cho em
  375. Thơ tình người đứng tuổi
    1
  376. Thời gian 1
  377. Thời gian 2
  378. Thời mạt
  379. Thử tưởng tượng trên xe tập lái
  380. Tìm hoa
  381. Tìm tim
  382. Tin thì tin không tin thì thôi
  383. Tình điên
  384. Tinh mơ
  385. Tình rơi
    1
  386. Tình yêu qua
  387. Tổ phá bom trên đường Rú Trét
  388. Tổ quốc ở biên giới
    1
  389. Tốc độ
  390. Tôi còn mắc nợ áo dài
  391. Tôi cũng có thể là một Phạm Viết Đào
  392. Tôi đã gặp anh
  393. Tội đồ của thời gian
  394. Tôi không hiểu
  395. Tổng thống
  396. Trái tim - tình yêu và lá chắn
    1
  397. Trái tim Valentine
  398. Trăng
  399. Trên bãi biển
  400. Trên chuyến bay giã biệt
    1
  401. Triết lý có
  402. Trong đêm thị xã
  403. Trong mưa giông
  404. Trôi
  405. Trở lại Huế
  406. Trở về
  407. Truyền thuyết về hoa violet
  408. Trưa rừng Hương Sơn
  409. Trước tượng Lý Tự Trọng
  410. Tuổi ba mươi
  411. Tuyết hát trong đầu tôi
  412. Tuyết Moskva
  413. Tự dưng
  414. Tự hoạ
    1
  415. Tự kiểm
  416. Tự vấn
  417. Tương lai có tên là Tốt
  418. Tượng Mồ
  419. Tưởng nhớ
  420. Tượng thằng Cu Đái
  421. Uống rượu với Nguyễn Du
  422. V. Đảo bão
  423. Venus ngủ
    1
  424. VI. Vĩ thanh
  425. Viếng Phan Lạc Hoa thân yêu
  426. Viết cho em
  427. Viết cho tôi
  428. Vòm trời quê Bác tháng năm
  429. Vọng Huế
  430. Vô danh
  431. Vu vơ
  432. White Rock
  433. Xanh
  434. Xem tranh Đinh Cường
  435. Xứ đầu tiên
  436. Ý nghĩ
  437. Yêu hết mình

Tuyển tập chung

Thơ dịch tác giả khác

  1. “Bão tuyết khóc, như cây vĩ cầm Zigan...” “Плачет метель, как цыганская скрипка...” (Sergei Yesenin)
    3
  2. “Đây xứ sở màu xanh...” “Голубая да веселая страна...” (Sergei Yesenin)
    3
  3. “Đồng nội tuyết, một mặt trăng màu trắng...” “Снежная равнина, белая луна...” (Sergei Yesenin)
    6
  4. “Em kể chuyện Saadi......” “Ты сказала, что Саади...” (Sergei Yesenin)
    7
  5. “Không tiếc nuối, không gọi, không than khóc...” “Не жалею, не зову, не плачу...” (Sergei Yesenin)
    9
  6. “Một chiều xanh, một chiều trăng...” “Вечером синим, вечером лунным...” (Sergei Yesenin)
    5
  7. “Ở đâu rồi ngôi nhà cha mẹ...” “Где ты, где ты, отчий дом...” (Sergei Yesenin)
    4
  8. “Sa-ga-ne của anh, Sa-ga-ne...” “Шаганэ ты моя, Шаганэ...” (Sergei Yesenin)
    9
  9. “Sớm mai mẹ hãy đánh thức con nhé...” “Разбуди меня завтра рано...” (Sergei Yesenin)
    5
  10. “Trên cửa sổ là trăng. Dưới là ngọn gió...” “Над окошком месяц. Под окошком ветер...” (Sergei Yesenin)
    5
  11. Cánh buồm Парус (Mikhail Lermontov)
    17
  12. Cho (Trương Diệp)
    1
  13. Đêm đi qua một thành phố (Trương Diệp)
    1
  14. Đoá hồng bốc cháy (Trương Diệp)
    1
  15. Độc bạch (Trương Diệp)
    1
  16. Độc thoại của Merilyn Monroe Монолог Мэрлин Монро (Andrey Voznhesenski)
    1
  17. Ghềnh đá Утес (Mikhail Lermontov)
    12
  18. Màu đêm mệt mỏi (Trương Diệp)
    1
  19. Nhà thơ (II) Поэт (Sergei Yesenin)
    4
  20. Sông Lú (Trương Diệp)
    1
  21. Thanh bình điệu kỳ 1 (Lý Bạch)
    39
  22. Thư gửi người phụ nữ Письмо женщине (Sergei Yesenin)
    3
  23. Tiếng khóc (Trương Diệp)
    1
  24. Tình yêu của kẻ chết Любовь мертвеца (Mikhail Lermontov)
    4
  25. Vì sao Отчего (Mikhail Lermontov)
    5
  26. Vô đề kỳ 1 (Minh Mệnh hoàng đế)
    4
  27. Vô đề kỳ 2 (Minh Mệnh hoàng đế)
    3
  28. Vô đề kỳ 3 (Minh Mệnh hoàng đế)
    3
  29. Với Pushkin Пушкину (Sergei Yesenin)
    1
  30. Xiềng xích của tình yêu (Trương Diệp)
    1

 

 

Trang trong tổng số 3 trang (28 bình luận)
[1] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Nguyễn Trọng Tạo - Tuổi hợi cầm tinh

Vẽ tôi con Lợn cầm tinh
Con Gà cầm tháng con Tình cầm tay

(Nguyễn Trọng Tạo)

Mùa đông 1978 buốt lạnh và triền miên những bữa cơm ăn hạt bo bo. Những tranh chấp biên giới Tây – Nam đã đến độ căng thẳng. Những người lính tình nguyện Việt Nam lại một lần nữa dấn thân gúp bạn Campuchia để nhằm xoá sạch “nạn diệt chủng Pôn Pốt”. Những giai điệu ngợi ca họ lại vang lên nóng bỏng. Lúc ấy tôi đang chuẩn bị viết một chùm ca khúc để trả bài cho lớp sáng tác thì bỗng thấy bài thơ Hát ru em bé Campuchia của Nguyễn Trọng Tạo trên báo Văn Nghệ. Bài thơ đầy nhạc tính. Thế là tôi dựa vào một nét dân ca Campuchia, phổ nhạc bài thơ này. Ca khúc Hát ru em bé Cămpuchia hoàn thành, được thầy Vũ Trọng Hối khen, rồi được thu thanh mở đầu cho băng ca nhạc Campuchia chiến đấu và hy vọng. Lúc ấy tôi chưa hề gặp Nguyễn Trọng Tạo mà chỉ biết hắn cũng làm thơ làm nhạc như mình. Vào một sáng mùa đông năm đó, Nguyễn Đình Chính đưa tôi đến Trại sáng tác Quân đội ở làng Khương Hạ. Ở đấy, tôi đã gặp Nguyễn Trọng Tạo và Nguyễn Hoa. Không cần rào trước đón sau, chúng tôi đọc thơ và hát cho nhau nghe trong men nồng “quốc lủi”. Và từ ngày ấy, chúng tôi thành “Ba anh em họ Nguyễn” như nghĩa cử Lương Sơn Bạc cho đến tận hôm nay.

Nguyễn Trọng Tạo quê Diễn Châu, Nghệ An. Đấy là vùng đất Hoan Diễn của xứ Âu Lạc xưa, nơi có đền Công thờ Thục An Dương Vương với huyền sử vua cha chém Ái nữ Mỵ Châu rồi tuẫn tiết trên đèo Mụ Dạ, nơi có Lèn Hai Vai như vị tướng bị chặt đầu và sông Bùng như dòng nước mắt của bà tướng khóc chồng tuôn trào ra biển. Nguyễn Trọng Tạo sinh ra ở đấy vào ngày 25-8-1947, trùng với ngày sinh và ẩn tuổi Hợi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Không biết có phải do trời tạo, đất sinh mà từ miền quê huyền sử ấy đã hun đúc nên một chàng nghệ sĩ đa tài “cầm-kỳ-thi-hoạ” cho thời hiện đại này. Đa tài sau Văn Cao và Nguyễn Đình Thi.

Tôi có ý nghĩ như vậy, bởi khi tôi gặp Tạo, hắn đã có thơ in thành tập, đã đoạt liền ba giải thưởng thơ hay trong năm của ba tờ báo lớn, đã từng vẽ tranh bán ở chợ Vinh thuở thiếu thời, và vừa viết xong bài hát Làng Quan Họ quê tôi phỏng lời thơ của Nguyễn Phan Hách. Bài hát đã được Thanh Hoa cùng tốp nữ Đài Tiếng Nói Việt Nam thu thanh, để rồi nổi tiếng mãi đến bây giờ và chắc còn vang mãi mai sau. Nghe nói hồi nhỏ Tạo đã tự làm một chiếc đàn violon khá đẹp và đã có lần diễn tấu cho toàn trường cấp 3 Diễn Châu nghe, nhưng từ khi gặp Tạo, tôi chưa hề thấy hắn chơi một loại nhạc cụ nào, mà xướng âm thì khá vững. Còn vốn hoà âm, khúc thức… Tạo thụ hưởng từ thầy Ngô Trí Thậm và qua vài lớp sáng tác âm nhạc trong quân đội cũng đã đủ để viết ra một tổ khúc hợp xướng Đất nước Bác Hồ và cuộc hành quân không nghỉ khá hoành tráng thời chống Mỹ cứu nước. Vậy nên, đó cũng là tạng của một nhạc sĩ dị biệt. Về thơ, cũng ngay từ dạo ấy, Tạo đã có những đột phá mang khát vọng cách tân như không nhiều nhà thơ khác thời đầu thanh bình. Tạo khởi xướng ra “Thơ đời thường” nhằm đối trọng với thơ tụng ca nhan nhản lúc bấy giờ, để rồi phóng ra một Tản mạn thời tôi sống giữa năm 1981 làm chấn động thi đàn. Với thơ, Tạo vô cùng khó tính. Tôi có bài thơ Những giọt mưa làm lại đến lần thứ ba rồi mà Tạo đề nghị tôi “giỡ ra làm lại, không thì tiếc quá”, và tôi đã làm theo đề nghị của hắn, để có được bài thơ Những giọt mưa đồng hành đoạt giải báo Văn nghệ sau đó. Chúng tôi chơi với nhau như vậy, bươn trải hết biên giới Tây – Nam lại biên giới Bắc. Rồi cả “Ba anh em họ Nguyễn” đều cùng về học Trường Viết Văn Nguyễn Du khoá đầu tiên.

Đấy là những ngày tụ quần ấm áp không bao giờ quên. Ấm áp và trong trẻo. Lúc đó Trại sáng tác Quân đội đã chuyển về Vân Hồ. Tạo và Nguyễn Hoa ở chung một phòng. Hành trình hai chiều Vân Hồ với nhà tôi 60 Hàng Bông là hành trình đi về trong thương mến của “Ba chàng họ Nguyễn” chúng tôi. Khi thì tôi tới Vân Hồ, khi thì Tạo và Nguyễn Hoa lên Hàng Bông. Ở không gian nào thì cũng vẫn là rượu, thơ và nhạc. Đấy là thời kỳ tích điện và bắt đầu phóng ra vài luồng điện lạ vào đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Một trong những luồng điện lạ đó của Tạo là bài thơ dài Tản mạn thời tôi sống. Bài thơ nhức nhói bao nhiêu câu hỏi đòi phải được trả lời, đòi phải có sự chuyển đổi. Đó là thơ “Đổi mới trước Đổi mới” như có nhà phê bình nhận xét: “Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi/ Câu trả lời… thật không dễ dàng chi”. Bài thơ được công chúng hào hứng đón nhận, nhưng cũng chính bài thơ đó đã dội ngược về Tạo bao nhiêu áp lực của những thế lực bảo thủ đương nhiệm. Những khát vọng cách tân của chúng tôi “đi tìm ngọn lửa nào mới mẻ cho thơ” đã vấp phải những lực cản mạnh mẽ. Và Tạo là người đầu tiên phải trả giá cho khát vọng này. Anh buộc phải dở dang khoá học ở Trường Nguyễn Du, nhận lệnh của quân đội “Đi nhận nhiệm vụ mới”, nhưng thực ra là về lại đơn vị cũ ở Quân Khu Bốn, nơi anh đã gắn bó suốt cả thời chiến tranh. Song ở đời, bao giờ “cùng” cũng “tắc biến”. Khi con người đã mang trong mình khát vọng, thì ở đâu, khát vọng đó cũng có thể biến thành hiện thực. Khát vọng đó đã được Tạo viết trong tập thơ Thư trên máy chữ gửi gắm tới bạn bè quan niệm nghệ thuật của mình ngay sau những ngày đầu rời xa Hà Nội: “Rồi một ngày thành phố sẽ nổ tung/ Bởi những hạt Sự Thật”. Đêm lột xác ấy có gì vừa tan vỡ vừa đau đớn. Đấy là đêm tiễn Tạo về lại Khu Bốn, chúng tôi thức uống cùng nhau trắng khuya. Vừa chớm sáng thì Tạo lên đường. Còn tôi và Nguyễn Hoa thì ở lại với ý chí “chai rượu vỡ vụn/ chứng tỏ là thuỷ tinh” của Tạo đang vương vãi muôn mảnh xung quanh.

Những năm tháng “hoạ vô đơn chí” đã ập đến nặng nề như muốn đánh gục Tạo. Giấc mơ sau chiến tranh về Hà Nội làm văn chương tan vỡ. Vợ chồng thì ly hôn. Cô em gái ruột dạy học tận Đắc Lắc bị nhiễm độc máu. Tạo phải bám bệnh viện để chăm sóc người em chỉ còn 1% hy vọng sống. Nhờ đức độ của giám đốc Nhà Văn Hoá Quân Khu Bốn – nhà văn Đậu Kỷ Luật, Tạo được phép công tác trong “cơ chế thoáng” để có thể tháng này Đắc Lắc, tháng sau Đà Nẵng, tháng sau nữa Hà Nội… theo cùng em gái. Vừa chăm sóc em, Tạo vừa viết báo vừa đi nói chuyện thơ và làm đủ mọi việc để có tiền cho em chữa bệnh. Chính sự tận tình nuôi em của Tạo đã làm lay động con tim bao bác sĩ và bạn bè. Mọi người đều sắn tay vào cuộc với Tạo. Và sau 6 tháng trời ròng rã ở bệnh viện với 3 lần thay máu, 1 lần phẫu thuật, cô em ruột đã thoát khỏi lưỡi hái tử thần, trở về quê tiếp tục nghề dạy học. Thật là một kỳ tích ngoài nghệ thuật. Một kỳ tích nhân bản sau bài thơ Làng có một ngày như thế và bài hát Làng Quan Họ quê tôi.

Sau khi hoàn thiện kỳ tích trên, Tạo rảnh rang thời gian giành cho nghệ thuật. Tạo viết liên tiếp hai cuốn văn xuôi cho thiếu nhi là Miền quê thơ ấuCa sĩ mùa hè, sau này được tái bản nhiều lần và được giải thưởng Văn học nghệ thuật Cố Đô; cho xuất bản tập truyện ngắn Khoảnh khắc thời bình trong đó có truyện được dịch ra nhiều thứ tiếng. Hàng loạt bài thơ mới và trường ca Tình ca Người lính ra đời. Năm nào Tạo cũng ra Hà Nội “cho đỡ nhớ”, và mỗi lần chia tay, Tạo lại đề nghị đến Thuỷ Tạ uống bia hơi để “nhắm một miếng Hồ Gươm”. Thỉnh thoảng chúng tôi lại thu xếp cùng nhau một chuyến song hành xuyên Việt. Vừa đi vừa tích điện, vừa phóng điện. Những cuộc rượu bật sáng. Những sẻ chia ngất ngưởng với Thanh Thảo, Trần Hinh. Những dào dạt nồng men với Trịnh Công Sơn, Đinh Cường… “Ba chàng họ Nguyễn” chúng tôi quyết định ấn hành một tập thơ chung tại nhà xuất bản Hà Nội để làm kỷ niệm - tập Sóng nhà Đêm biếc Tôi yêu năm 1986. Đấy cũng là năm bắt đầu của thời kỳ Đổi mới.

Qua nửa thập niên phiêu bạt giang hồ lãng tử, Tạo lập gia đình và định cư tại Huế. Những năm tháng “sông Hương hoá rượu ta đến uống/ ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say” cùng bạn bè Huế, nói như Tạo: “Sông Hương và Huế đã ném vào thơ tôi một vốc sương mù”. “Người ham chơi” Nguyễn Trọng Tạo đã cho ra hàng loạt tác phẩm thơ Sóng Thuỷ tinh, Gửi người không quen, Thư trên máy chữ và Tản mạn thời tôi sống, và đặc biệt nhất là Đồng dao cho người lớn tung ra cái nhịp chẵn trì tục như một cách tân phương Đông làm ngỡ ngàng những người làm thơ, đọc thơ vốn quen nếp cũ. Tập thơ xứng đáng được trao giải thưởng Hội Nhà Văn Việt Nam, nhưng tiếc thay khi vào chung khảo nó đã bị Thư mùa đông của Hữu Thỉnh đánh gục, khiến bao người yêu thơ buồn tiếc. Tạo hơi bị đau một chút, nhưng hắn lại gượng dậy đưa ra một tiết tấu pop Nghệ cho ca khúc Đôi mắt đò ngang tình tứ đến quyết liệt, khiến tác giả Xa khơi Nguyễn Tài Tuệ thán phục như một bước tiến trong khai thác âm hưởng ví dặm. Rồi hắn lại lãng đãng với một Con dế buồn đồng cảm cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường qua giọng hát Mỹ Linh quyến rũ đến mê hồn…

“Người ham chơi” Nguyễn Trọng Tạo vẫn chưa chịu dừng lại. Lãng du 15 năm như nàng Kiều ở miền Trung, hắn lại quay về Hà Nội “nương thân” tít trên tầng sáu của nhà tập thể Phương Mai thực hiện giấc mơ xưa. Cứ tưởng ra Hà Nội để làm báo Thơ lại rơi về làm Tạp chí Âm nhạc cùng tôi sau khi đã cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Quang Lập khởi ra tạp chí Cửa Việt nổi đình đám, và đã vẽ măng-sét mới, dựng “phom” mới cho tạp chí Sông Hương. Vẫn một quyết liệt cách tân thơ theo kiểu riêng hắn. Vẫn một lối uống rượu có khi xuyên đêm không cần ngủ. Vẫn một tụ quần bè bạn đầy thương mến để rồi lại trào ra một Khúc hát sông quê đồng điệu qua thơ Lê Huy Mậu da diết đến tận gan ruột người xa xứ, bởi giọng nhấn nhá như lên đồng của Anh Thơ. Bên cạnh tạp chí Âm Nhạc, Tạo thuyết phục Hữu Thỉnh ra báo Thơ, và chính hai tay hắn đã dựng lên tờ báo Thơ (cũng như vẽ cờ Thơ cho Ngày Hội Thơ) để trang trải khát vọng về thơ Việt của mình. Hình như một mình hắn cặm cụi trong lặng lẽ vừa thu gom bài vở, vừa biên tập tỉ mỉ, vừa trình bày rất “moder” giống như đã từng trình bày Cửa Việt và làm biết bao bìa sách khá tân kỳ đã từng đoạt giải thưởng. Báo Thơ do Tạo “tự nấu nướng” đã tồn tại được hai năm với biết bao lời tán thưởng.

Song, hình như từ khi sang thế kỷ mới, với một tâm niệm không chịu “lưu ban thế kỷ cũ”, muốn tự mình làm những gì mình tâm huyết và thích thú, mùa thu 2005 “Người ham chơi” Nguyễn Trọng Tạo tự gò mình vào công việc mới kết hợp cùng bạn bè ở Sài Gòn lập ra công ty VVT mà hắn thường gọi đùa là “Vừa vừa thôi”, “Vừa và to”, “Vui và thú”, “Vớ vẩn thế”… Nhưng thực ra VVT là chữ viết tắt của Văn hoá và Truyền thông, với những chức năng làm văn hoá nghệ thuật vốn là sở trường của Tạo. VVT đã làm sách văn học, trong đó Tạo rất tâm đắc với tập sách “Những nhà thơ giải thưởng Nobel” dày chẵn nghìn trang khổ lớn, và vừa qua đã kết hợp với tạp chí Sân Khấu ra phụ san hàng tháng mang tên Sao Việt với ý tưởng là “ngôi nhà chung của hiền tài” mà hắn và cộng sự đã nung nấu từ lâu. Đúng là một cuốn tạp chí “đẹp để đọc” chứ không phải “đẹp để nhìn” như nhiều tạp chí màu mè loè loẹt hiện nay.

Đã gần qua tuổi tri thiên mệnh, xem ra “Người ham chơi” con Hợi cầm tinh vẫn chưa chịu ngồi chiếu lão làng. Tập thơ mới Thế giới không còn trăng gồm 60 bài của Tạo lại đĩnh đạc trình làng sau 7 năm tận lực cho thơ. Hình như hắn vẫn cứ “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” cho thoả chí làm trai tang bồng cùng trời đất. Vâng, nếu không thế thì hắn không còn là Tạo nữa.


Hà Nội, ngày chớm đông 2006
Nguyễn Thuỵ Kha

Bài đã in trên Thời báo Tài chính Việt Nam.
25.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Trọng Tạo: “Nếu còn biết bất ngờ...”

LÊ MỸ Ý (LMY): Thưa ông Nguyễn Trọng Tạo, trong cuộc phỏng vấn này, tôi đang được trò chuyện với nhà thơ hay nhạc sĩ, hay là cả hai?

NGUYỄN TRỌNG TẠO (NTT): Cứ trò chuyện với Nguyễn Trọng Tạo là được rồi. Còn các “chức” danh khác, chẳng qua người ta đặt cho thôi.

LMY: Và ông còn là một hoạ sĩ nữa. Ông đã từng thiết kế hàng trăm bìa sách và đã đoạt hai giải thưởng bìa sách?

NTT: Tôi không nghĩ mình là hoạ sĩ, nhưng cũng có thế đấy. Với tôi, thơ là nghiệp, nhạc là hứng, hoạ là chơi. Hay nói cách khác, thơ là chánh quán, nhạc là trú quán, hoạ là trọ quán.

LMY: Vậy tôi xin được bắt đầu từ thơ của ông. Ông là người đã xuất bản rất nhiều tập thơ, và Đồng dao cho người lớn hình như được đánh giá cao hơn cả?

NTT: Vâng, đúng là tôi tâm đắc nhất với tập thơ Đồng dao cho người lớn, viết tại Huế từ năm 1986 đến năm 1994. Đây là một tập thơ tôi đã viết khác hẳn hệ thống thơ chống Mỹ. Những nhà thơ trước đó thường viết theo lối ca ngợi, ca ngợi dân tộc, ca ngợi đất nước, ca ngợi lý tưởng, ca ngợi nhân dân. Đến tập thơ này của tôi, tôi đã viết với một tinh thần rằng, chúng ta hãy sống trong sự mờ ảo của tâm hồn con người, chúng ta phải biết đi qua hết những gì quá rõ ràng như giới tuyến Bắc Nam. Mặc dù trong thời chống Mỹ, để vượt qua được giới tuyến Bắc Nam là một điều quá thiêng liêng, cụ thể là máu xương của cả dân tộc. Nhưng vượt qua giới tuyến rồi, chúng ta còn phải vượt qua sự huyền ảo của con người. Sự huyền ảo ấy chính là tiếng nói thơ ca hiểu theo một cách rộng rãi nhất, là một Nhân Văn không còn biên giới. Suốt một thời làm thơ, tôi là một người thích chiêm nghiệm, và cũng là một người thích đổi mới. Nhưng có lẽ chỉ sống ở Huế, tôi mới thấy hết sự huyền ảo của nghệ thuật, mới ý thức thực sự nghệ thuật là tinh thần huyền ảo trong trần gian. Nó làm nhoè mờ các ranh giới và vượt thoát ra ngoài các ranh giới. 500 năm trước đây, đại thi hào Nguyễn Trãi đã tìm ra được 3 chữ “An-Nhữ-Chỉ”, nghĩa là, hãy yên tâm trong đường chỉ giới của chính mình. Nhưng đến thế kỷ XX, Yanit Ritsot (HyLạp) đã phát hiện ra rằng, “nếu tôi thấy được chân giới của tôi, tôi sẽ xuyên qua chân giới ấy”. Chỉ vì một đường chân giới mà người ta mất 5 thế kỷ mới đi qua được. Đấy là cuộc đi qua bức tường Đông Tây. Cũng như sự đập vỡ bức tường Berlin vậy. Còn chúng ta thì phải đi qua chiến tranh suốt 20 năm mới nhận diện được sự huyền ảo trong thơ ca nghệ thuật. Do vậy, tôi nghĩ rằng, tôi đã cố gắng đi qua chân giới để làm nên tập thơ “Đồng dao cho người lớn”, một tập thơ mà người ta vẫn thường nhắc tới khi nói về thơ ca Việt Nam sau 1975.

LMY: “Sự thực của tinh thần huyền ảo trong trần gian” mà ông nói trong tập thơ của mình, hiểu rộng hơn, cụ thể hơn là gì, thưa ông?

NTT: Đó là sự huyền ảo tâm linh của con người. Nó nói lên tất cả những đau xót, sự nghĩa lý, những nhân tình thế thái của cuộc đời một cách huyền ảo. Những thứ mà trước đây người ta vẫn thường hiểu rành rọt, về sau thì khác, theo một tinh thần huyền ảo. Ngay trước thời gian ở Huế, ở Hà Nội tôi cũng thường hiểu mọi thứ một cách rành rọt, nhưng khi về ở Huế, tôi đã có thêm con mắt thứ ba để nhìn sự vật. Con mắt bịa đặt. Nghệ thuật huyền ảo chẳng qua là một sự bịa đặt, nhưng sự bịa đặt ấy làm cho người ta tin là thật, hơn cả thật, đấy là những trạng thái sống vô cùng kỳ lạ. Trước đây, chúng ta đã biết một G. Macket của chủ nghiã hiện thực huyền ảo, và trước cả ông, là một bậc thầy F. Kapka. Tôi không phải là Macket hay Kapka, nhưng vẫn nói ra được sự thật một cách “bịa đặt” mà người ta có thể tin.

LMY: Thưa ông, tại sao chỉ có thể ở Huế, thơ ông mới mang một tinh thần huyền ảo? Những nhà thơ khác không ở Huế thì không có tinh thần ấy trong thơ ư?

NTT: Tôi chỉ nói riêng trường hợp tôi. Ở Huế, tôi thấy có nhiều điều kiện. Thứ nhất, không gian Huế rất lạ lùng, nó nằm giữa hư và thực. Thiên nhiên Huế là một thiên nhiên mơ hồ. Thứ hai, ở Huế, người ta có một tâm thái rất cục bộ. Tôi là dân ngụ cư nên càng mơ hồ bao nhiêu càng dễ hoà nhập bấy nhiêu. Một điều nữa, trong tâm thái mình bắt gặp có sự mơ hồ ấy mà sinh ra huyền ảo. Có lẽ những nhà thơ trụ cột của Việt Nam thế kỷ XX đều từng sống ở Huế: Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên... Xa hơn nữa là Cao Bá Quát, Nguyễn Du... Tôi có cảm giác như là nếu không sống ở Huế thì người ta không thể làm thơ như thế. Đến như văn Hoàng Phủ Ngọc Tường hay nhạc Trịnh Công Sơn cũng trở thành ảo diệu một cách riêng biệt. Tuy nhiên, những điều ấy chỉ xảy ra với những người có thực tài mà thôi. Còn một điều nữa, tôi nghĩ Huế một thời là thủ phủ của đạo Phật, cái sắc sắc không không ấy của Phật giáo đã đi vào tâm thức huyền ảo của thơ ca. Nguyễn Bính là một trường hợp bén duyên với Huế hết sức kỳ lạ, chỉ cần 3 tháng ở Huế cũng đủ để ông trở thành một nhà thơ mà lịch sử văn học không thể không nhắc tới.

LMY: Đã có “duyên nợ” nào giữa ông và Huế vậy, thưa ông?

NTT: Tôi lấy vợ Huế, sinh con ở Huế, sống ở Huế, làm thơ ở Huế. Duyên nợ ấy xem như tiền định.

LMY: Có phải vì tiền định ấy mà thơ ông luôn phảng phất nét Huế? Còn nhiều nghệ sĩ cũng đã vì Huế mà “nối vòng tay lớn” cùng nhau?

NTT: Tôi nghĩ nó không chỉ “phảng phất nét Huế” đâu, mà chính là thấm đậm hồn Huế. Cũng như Bùi Giáng và Thu Bồn bắt thần Huế nhốt vào câu thơ của họ: Dạ thưa xứ Huế bây giờ - Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương, hay Con sông dùng dằng con sông không chảy - Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu, tôi cũng có câu thơ để cho Huế nhớ: Sông Hương hoá rượu ta đến uống - Ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say. Nhắc đến thơ Huế sau 1975, có người nói rằng, nếu không có Nguyễn Trọng Tạo thì Huế sẽ hẫng hụt, sông Hương sẽ chảy mạnh hơn nhiều, bởi họ nghĩ thơ tôi đã cân bằng lại sông Hương bằng những câu thơ: Sông Hương cân bằng thành thị với làng quê, hay: vầng trăng loã thể ướt đầm - sẩy chân thi sĩ vớt nhâm mỹ nhân. Đúng là duyên kiếp tiền định. Nhưng tôi vẫn nghĩ, những người tài họ vẫn gặp nhau, họ nối vòng tay lớn qua Huế, hay vì Huế thì tôi không rõ. Còn tôi, nói khiêm tốn tôi tài mọn, nhưng cũng nhờ Huế mà có tình bạn với Hoàng Phủ Ngọc Tường và Trịnh Công Sơn, hai nhà văn hoá hành văn mà tôi vô cùng kính nể.

LMY: Sinh ở Nghệ An, từng ở Huế, bây giờ là Hà Nội, sau này ông sẽ định cư thật sự ở đâu?

NTT: Điều ấy quan trọng thế sao? Thôi thì thế này, năm 1975 tôi đi qua Huế và thiển nghĩ rằng, nếu làm văn chương thì nên ở Hà Nội, làm kinh tế thì nên ở Sài Gòn, về hưu thì nên ở Huế. Nhưng tôi lại là một người sáng tác, sáng tác làm gì có hưu (cười).

LMY: Nghĩa là ông sẽ không bao giờ ở Huế nữa?

NTT: Ít nhất là đến lúc này, tôi vẫn nghĩ là tôi ở Hà Nội. Nhưng càng ngày, tôi càng nhớ cái làng nhỏ có núm rau của tôi bên bờ sông Bùng xứ Nghệ.

LMY: Trở lại với tập thơ “Đồng dao cho người lớn”, khi viết lời tựa tập thơ này, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đặt cho ông cái tên là “Người Ham Chơi”? Ông có thích từ này và thấy mình “ham chơi”?

NTT: Người Ham Chơi là một danh hiệu quá sang cho một thi sĩ, hay nói rộng hơn là cái từ quá sang cho một nhà sáng tạo. Bởi vì nếu có một người nói mình giỏi mà không biết chơi thì tôi chưa tin người ấy giỏi; còn nói mình biết chơi mà không giỏi thì là chuyện bình thường; nhưng bất cứ một người nào vừa làm giỏi vừa chơi giỏi thì đấy mới thực là người chơi vĩ đại. Nói cho cùng, khi Hoàng Phủ Ngọc Tường dùng từ Người Ham Chơi theo gốc chữ Latinh là Homoludus, thì tự nó đã mang theo cả nghĩa người làm lẫn người biết rồi. Tôi hiểu, phải quí tôi lắm Hoàng Phủ mới gọi như vậy. Hình như danh hiệu Người Ham Chơi, Hoàng Phủ chỉ dành cho Nguyễn Trọng Tạo và Nguyễn Công Trứ - người đồng hương xứ Nghệ. Đấy là một quà tặng vô giá. Nhưng nếu không chơi với tôi, chắc chi Hoàng Phủ đã hào phóng như vậy.

LMY: Vâng, người ta sẽ bất ngờ khi thấy ông không “ham chơi” chút nào. Rất nhiều tập thơ, tập văn, bài báo, bìa sách, minh hoạ, ca khúc, và các bài viết mang tính lý luận phê bình...của ông đã công bố. Ông có thấy như vậy là nhiều, thưa ông?

NTT: Không! Như tôi đã nói, từ “Người Ham Chơi” mang cả nghĩa người làm. Riêng tôi thì không phân biệt mình làm hay chơi. Còn người biết, nói cho cùng, chẳng ai biết gì cả. Trên thế giới này, người ta vẫn thường nói ba chữ “bất khả tri” hoặc “càng biết càng đau”. Tôi cảm thấy mình chưa đau hơn bất kỳ ai.

LMY: Vậy trong các công việc trên nhiều lĩnh vực văn học nghệ thuật mà ông tham gia, đâu là “công việc” Nguyễn Trọng Tạo nhất? Đó có phải là lĩnh vực mà ông đã thành công?

NTT: Tôi làm báo để sống, làm thơ để chết, làm nhạc, vẽ bìa sách, uống rượu... để vui. Người ta có thể chết vì một tình yêu, người ta cũng có thể chết vì lợi nhuận. Nhưng đối với riêng tôi, làm thơ cũng có nghĩa là làm tất cả. Việc này có thể nói như một nhà thơ nghiệp dư trên đỉnh đèo Hải Vân tên là Lại Phiền Hà: “Em làm thơ để em làm người”. Tất nhiên là tôi thành công nhất trong thơ. Nhưng khi ngẫu hứng, tôi đã làm nhạc. Ấy thế mà tới đâu cứ xướng “Làng Quan Họ quê tôi” lên là người ta biết ngay đấy là nhạc của Nguyễn Trọng Tạo. Phải nói là hạnh phúc vô cùng khi anh vừa là nhà thơ vừa là nhạc sĩ.

LMY: Với nhạc, ca khúc “Làng Quan Họ quê tôi” có phải là đỉnh cao của ông?

NTT: Có một ca khúc khác mà tôi thích hơn “Làng Quan Họ quê tôi”, đó là “Đôi mắt đò ngang”. Nó ra đời năm 1995, sau “Làng Quan Họ quê tôi” 17 năm, và năm 1997 được sinh viên bình chọn là ca khúc mới hay nhất trong đêm nhạc của 4 nhạc sĩ tại đại học Văn Hoá Hà Nội. Sau khi bài này được phát trên đài truyền hình và đài phát thanh, nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ là người từng viết “Xa khơi” và “Tiếng hát giữa rừng Pác Bó” nổi tiếng, đã tìm tôi và nói rất đúng ý tôi - ông rất thích “Đôi mắt đò ngang”, và cho rằng, bài này còn hay hơn cả “Làng Quan Họ quê tôi”. Ở quê tôi, người ta hát “Đôi mắt đò ngang” cả trong đám cưới. Bài hát này cũng đã đoạt giải thưởng Hồ Xuân Hương Nghệ An và giải thưởng của Uỷ ban toàn quốc Văn học nghệ thuật Việt Nam. Điều đó làm tôi thấy vui vì hoá ra những điều mình thích cũng được ghi nhận, dù không được sôi nổi như cái thời “Làng Quan Họ quê tôi” được hát trên cả nước, được JVC Nhật Bản thu đĩa và dàn nhạc giao hưởng Lep-zich trình tấu ở Đức. Về bài “Đôi mắt đò ngang” mà tôi rất thích ấy, tinh thần của nó là đi ngược lại với những rào cản, ràng buộc từ trước, ngược với lời ru quá cẩn thận của người xưa. Đó cũng là sự thoát khỏi An-Nhữ-Chỉ của Nguyễn Trãi: “Chìm trong đôi mắt ấy, đò đầy anh cứ sang...” (hát). Còn bây giờ thì tôi đang sướng về ca khúc mới “Khúc hát sông quê” phổ thơ Lê Huy Mậu. Nhiều người đã hát bài này cho tôi nghe qua điện thoại di động.

LMY: Trên các diễn đàn văn nghệ, tại sao ông hay chọn đọc bài thơ “Chia” và nhiều bạn trẻ cũng thích bài hát “Một dại khờ một tôi” do nhạc sĩ Phú Quang phổ nhạc từ bài thơ này?

NTT: Tôi cực kỳ tâm đắc với bài thơ này. Người ta thường chia cho những con số trên 1 như Tố Hữu từng chia trái tim làm “ba phần tươi đỏ” chẳng hạn, còn tôi, tôi chỉ chia cho 1. Chia mà vẫn còn nguyên, chia cho1 cũng có nghĩa là tất cả, là sự hiến dâng tất cả. Một bài thơ “Chia” mà có đến mười mấy chữ một. Còn lý do tôi hay đọc bài thơ này vì nó là một bài lục bát dễ thuộc, lục bát kiểu Nguyễn Trọng Tạo:

chia cho em một đời say
một cây Si
với
một cây Bồ Đề
khi đọc phải ngắt nghỉ, dừng lại đúng chỗ, nếu không thì sẽ không phải là bài thơ lục bát của tôi.

LMY: Trong số những người cùng thời, nếu nói về tài năng thi ca, ông phục ai?

NTT: Nguyễn Hoa, người đã viết được một câu thơ vĩ đại: “Em là muối ướp nỗi đau tươi mãi”, Nguyễn Thuỵ Kha, người đã viết được câu thơ đầy can đảm:“Đưa người yêu qua nhà người yêu cũ”. Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Khắc Thạch, Nguyễn Duy, Hoàng Phủ Ngọc Tường... đều là những thi tài.

LMY: Tại sao, thưa ông?

NTT: Không biết!

LMY: Vì sao ông viết nhiều tiểu luận phê bình thơ?

NTT: Tôi viết tiểu luận phê bình để ghi lại những cảm xúc khi đọc thơ, ghi lại những suy nghĩ về thơ, để tranh luận với những quan điểm trái với quan điểm của tôi. Nhưng cũng có lúc tôi viết vì thấy bực mình tại sao thời của tôi không có những nhà phê bình thơ đích đáng. Một dân tộc yêu thơ ca bậc nhất mà lại thiếu nhà phê bình thơ. Rất may Thơ Mới còn có Hoài Thanh. Nếu tôi sống cùng thời với Hoài Thanh khi ông soạn “Thi Nhân Việt Nam” chắc tôi sẽ tìm đến chơi với ông ấy. Đấy là người đáng chọn để đàm đạo về thơ.

LMY: Theo tôi biết, thế hệ của ông vẫn có những nhà phê bình thơ đấy chứ, chẳng hạn như nhà thơ Vũ Quần Phương?

NTT: Vâng. Phê bình thơ của ông ta gần với văn bình giảng ở trường phổ thông, rất dễ đọc. Bây giờ có một người trẻ có thể nói chuyện về thơ là Nguyễn Đăng Điệp, một người rất quan tâm đến giọng điệu thơ, một vấn đề rất quan trọng của thơ. Anh ta nói được một đôi điều khá hay. Nên đọc cuốn sách “Giọng điệu trong thơ trữ tình” anh ta mới xuất bản gần đây. Còn một người nữa là Nguyễn Phan Cảnh, tác giả cuốn “Ngôn ngữ thơ” rất đáng đọc. Tôi thích đọc hai cuốn sách đó vì tác giả khám phá sâu vào nghệ thuật thi ca, và mặc dù họ cách nhau đến vài thế hệ.

LMY: Lý do nào khiến trong những tranh luận của mình, ông luôn đặt thơ trẻ lên hàng đầu?

NTT: Trái đất không bao giờ quay ngược. Nếu nó quay ngược, hoặc dừng lại thì nhân loại sẽ chết. Quan tâm đến thơ trẻ là việc tự nhiên như trái đất quay, là một qui luật tất yếu. Người xưa quan niệm công kênh trẻ con trên vai đấy mới là người ông, người cha tốt. Tôi không phải là ông cha gì, nhưng chuyện ấy cũng đi theo một qui luật, các nhà thơ trẻ sẽ bước lên vai những người trước, còn chuyện có đặt được chân lên vai thế hệ trước hay không là việc của họ. Có một điều đối với những người trẻ là không nên đòi hỏi ở họ sự chuẩn mực mà người trước đã tạo ra, mà hãy hy vọng từ họ những cái mới lạ, khác cách và tươi mới, bởi chính họ sẽ tạo ra những chuẩn mực mới cho thời đại. Theo thống kê học thì những phát kiến quan trọng nhất của đời người thường xảy ra ở lứa tuổi từ 24 đến 28. Tuổi trẻ là tuổi mở ra những cái bất ngờ. Đặc biệt đối với thơ, tính bất ngờ là vô cùng quan trọng, nó làm thay đổi tần số xung động của tâm hồn. Cho nên nhiều lúc người ta cứ bảo là tôi bênh bọn trẻ quá đáng. Tôi còn hơn cả bênh, đấy là sự trân trọng. Tuổi trẻ đối với sáng tạo thơ bao giờ cũng có những đột phá không thể lường được. Và quả thực, thơ ca sau thế hệ tôi đã mở ra một chân trời mới. Điều tất yếu này không phải ai cũng nhận ra, và không phải ai cũng trân trọng cả đâu.

LMY: Tuổi trẻ của ông có làm nên điều gì bất ngờ không, thưa ông?

NTT: Năm 14 tuổi tôi đã làm cho cậu (cha) tôi bất ngờ khi tôi viết được bài thơ đầu tiên, chịu ảnh hưởng của Hàn Mặc Tử. Nhưng bài thơ đó của tôi hơn 20 năm sau (thời đất nước đổi mới) người ta mới cho in, vì thời trước đó đang phải in những bài thơ xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc. Làm sao người ta có thể in thơ tôi viết: “Trăng trên ngọn liễu trăng ngồi - Tôi trên ngọn liễu tôi rơi bây giờ” hay “Bây giờ tôi dịu tôi hiền - Biết đâu dại tôi điên bao giờ “... được? Chỉ nghe dại dại điên điên là họ đã không thích rồi. Một bất ngờ nữa là năm 1981, sau khi cho in bài thơ “Tản mạn thời tôi sống” trên báo Văn Nghệ với những câu “Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi - Câu trả lời thật không dễ dàng chi” hoặc “Như con chiên sùng đạo chợt bàng hoàng - Nhận ra Chúa chỉ ghép bằng đất đá” tôi liền bị “bay” khỏi Hà Nội mất 15 năm, ngang với thời gian lưu lạc của nàng Kiều. Còn bây giờ thì có người đã coi “Tản mạn thời tôi sống” như là “bài thơ dự báo cho dòng thơ đổi mới” của ta (cười).

LMY: Hình như ông cũng viết nhiều về âm nhạc?

NTT: Những năm làm báo Âm nhạc, tôi và Nguyễn Thuỵ Kha là hai cây bút tác chiến của tờ báo này và một số tờ báo khác, nhưng tôi không viết nhiều về âm nhạc bằng Kha. Tuy nhiên tôi cũng có một số bài được người ta thích như “Nguyễn Thiên Đạo - hợp lưu văn minh Đông Tây”, “Ngọc Đại - Phó Đức Phương, lửa và nước tương đồng”, “Nhạc sĩ và sao và sự vong ơn”, “Tốp, tốp và tốp đi về đâu?”, “Bản sắc dân tộc và âm nhạc hôm nay”, “Âm nhạc ơi, ngươi ở đâu?”... Nói chung là tôi cổ vũ, bênh vực cho âm nhạc có tính khai phá, phê phán thứ âm nhạc cũ rích, rẻ tiền, mồi chài, chợ búa... Nếu tập hợp lại, tôi cũng có thể in thành một tập sách “Âm nhạc ơi, mi ở đâu?”.

LMY: Người ta bảo tên tuổi ông gắn liền với một số nhà thơ trẻ?

NTT: Họ nói thế là họ cho Nguyễn Trọng Tạo ăn theo các nhà thơ trẻ? Không bao giờ có điều đó. Nếu nói ngược lại thì đúng. (Cười). Chẳng qua là những người không thích thơ trẻ mới nói thế. Còn chính tôi là người đi tìm kiếm các nhà thơ trẻ, đến với họ và biết họ là ai. Nếu nói đọc thơ trẻ thì không phải ai cũng đọc họ một cách trân trọng như Nguyễn Trọng Tạo. Nếu chưa đọc họ với thái độ trân trọng, chưa đọc kỹ họ thì đừng có phán bừa. Đấy là căn bệnh chộp giật của phê bình. Phải tiếp cận, chia sẻ, phải nhìn theo kiểu “trái đất quay” thì mới hiểu được thơ trẻ, còn nếu chỉ nhìn thơ trẻ với cái nhìn kẻ cả thì người ta sẽ la lối, chụp mũ, rồi cho rằng bọn trẻ con ấy thì có tư tưởng gì? Đấy là những người cổ hủ, thô thiển, chỉ nhìn thấy họ, sau lưng họ mà không nhìn thấy trước mặt. Họ không có mắt ở trước mặt mà chỉ có mắt ở sau gáy. Còn tôi là một người bình thường, có mắt ở mặt.

LMY: Ông thường nhắc nhiều tên tuổi các nhà thơ trẻ, vậy ai là người ông thực sự quan tâm nhất?

NTT: Người làm thơ trẻ mà tôi quan tâm nhất, đó là Văn Cầm Hải. Đó là một người còn hơn cả Kapka trong thơ vì Kapka không làm thơ. Còn nếu Kapka làm thơ chắc cũng gần bằng Văn Cầm Hải (cười). Còn lại những người khác là Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Lê Vĩnh Tài, Lê Mỹ Ý, Lý Đợi... Có những người xướng tên lên cũng chả ai biết và cũng chả ai đọc. Họ đi theo con đường thơ bằng tư duy khác cách, tôi từng nói trên báo là tư duy lập trình, tư duy của thời đại mới. Còn Nguyễn Quang Thiều (lớp thượng cận) có thể có một đóng góp lớn khiến một số người trẻ thích, nhưng Nguyễn Quang Thiều là một nhà thơ không có bài dở và cũng không có bài hay.

LMY: Cơ sở nào khiến ông khẳng định về Văn Câm Hải như vậy, thưa ông?

NTT: Văn Cầm Hải là một tư duy rất khác biệt trong thơ Việt Nam, chưa từng có trong thơ Việt Nam. Anh ta viết rất khác, rất lung tung, rất phức tạp nhưng đọc kỹ, ở đằng sau vẫn thấy có một văn hoá nâng đỡ thơ ca, đó là cảm quan Việt trong thế giới hiện đại.

LMY: Nhà thơ Hoàng Hưng từng nói Văn Cầm Hải và cả Nguyễn Quốc Chánh đều có sự bắt chước siêu thực?

NTT: Nguyễn Quốc Chánh là một người hiểu biết về phương Tây, đặc biệt là chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa siêu thực. Còn Văn Cầm Hải thì đấy là một người dung hợp và sáng tạo ra một thứ hậu siêu thực ở Việt Nam. Những thi ảnh chắp nối, gãy khúc rất khó nắm bắt. Những tư tưởng ẩn khuất, nhiều khi chỉ đọc được bằng cảm giác. Cảm giác được thì đó là sự tổn thương của một thế giới tâm linh hiên đại. Hải đã tạo ra một thế giới hiện đại có thể đổ vỡ nhưng tâm linh con người thì luôn tổn thương và khát khao tồn tại.

LMY: Tại sao khi nhắc tới người này, lại thường chỉ thấy sự chỉ trích của các nhà phê bình, thưa ông?

NTT: Ở nước ta rất ít người biết Văn Cầm Hải. Thơ Hải là thơ khó đọc, vì vậy đôi khi những sự chỉ trích gay gắt lại mang ý nghĩa của câu chuyện “thầy bói xem voi”.

LMY: Thế còn các nhà thơ trẻ mà ông vừa kể tên, ông có nhận xét gì về họ?

NTT: Ly Hoàng Ly là nhà thơ và hoạ sĩ, thi ảnh của Ly rất cũ nhưng cô ấy lại có tài sắp đặt các thi ảnh, có lẽ là ảnh hưởng chi phối từ hội hoạ, thành ra lạ và có sức quyến rũ. Phan Huyền Thư là người mang trong mình một văn hoá cổ điển nhưng lại có cá tính “Thị Mầu thời hiện đại” nên thơ mạnh, sắc và chua (chanh). Vi Thuỳ Linh là sự xô bồ bạo liệt, ném hết tất cả tâm can ra xã hội, nên thơ cuộn lên có bài hay, có bài tầm thường, nhưng dù sao cũng đã tạo ra một ý thức quyết liệt hết mình với thơ, dám trình bày một “cái tôi không xấu hổ”. Nguyễn Hữu Hồng Minh nôn nóng đi tìm tư tưởng mới trong những trạng thái sống bất thường, đang mất nhiều hơn được; nhưng đừng ngại khi mất mười mà chỉ được một...

LMY: Những bài phê bình thơ trẻ của ông hầu như lúc nào cũng gặp lời “cự nự” từ một số nhà phê bình khác như Nguyễn Thanh Sơn, Lê Quý Kỳ, Nguyễn Hoà... Ông có bực mình không?

NTT: Tôi chẳng bực mình gì cả, bởi vì tôi đọc kỹ họ mới thấy họ không hiểu mấy về thơ. Họ rất thiếu rung động thơ nên không cảm nhận được cái tinh tế thơ, nhưng lại thích dạy dỗ về thơ. Đành chia sẻ với họ về tinh thần can đảm.

LMY: Thưa ông, cứ tranh cãi mãi với nhau như vậy trên báo ông không sợ sẽ ảnh hưởng đến tên tuổi của mình?

NTT: Chả sao cả, vì đấy mới là Nguyễn Trọng Tạo. Tôi không thích làm ra vẻ cao đạo, và thường gọi những người thích cao đạo là nhà nho dởm. Tôi không phải nhà nho dởm, cũng không phải nhà nho, nên tôi phải bàn trong sự hiểu biết của mình. Điều ấy đôi khi lại khiến nhiều người thích thú và ủng hộ. Một lần Hoàng Hưng kể với tôi rằng, Nguyễn Thanh Sơn hỏi anh: “Chú thấy cháu viết như thế nào?”, và anh đã trả lời Sơn: “Cháu viết rất hay, chỉ có điều quan trọng là cháu viết về thơ mà không hiểu thơ là gì!”. Sự thật có mất lòng không?

LMY: Ông có thể nói thật ý nghĩ về phê bình?

NTT: Phê bình không được dối lòng mình. Thấy hay, thấy dở có thể viết hoặc không viết, nhưng khi đã viết là phải có chính kiến. Khi tôi viết cuốn “Văn chương cảm và luận”, là tôi chỉ viết cái tôi thích viết, thấy hay thì khen thấy dở thì chê, chẳng vị tên tuổi của ai. Nếu cứ đua nhau chạy theo những tên tuổi có sẵn, dễ đẻ ra một nền phê bình ăn theo tên tuổi. Phê bình phải phát hiện những tên tuổi mới, là tìm vàng trong cát, làm sáng giá cái hay đang bị khuất lấp. Nhà thơ Viên Mai đời Thanh nhờ tỉ mẩn lý giải cái hay cái dở trong thơ thiên hạ mà trở thành nhà phê bình thơ kỳ tài. Thơ ta bây giờ chất thành núi mà các nhà phê bình thơ thì vẫn vô cảm với thơ, hoặc thiên về mạt sát thơ. Khi tôi phản ứng về những “thói hư” ấy, là vì tôi quá yêu cái hay cái đẹp của văn chương. Nhiều người cứ quen nghĩ là thợ rừng thì phải bổ búa vào cây, có ai nghĩ phải chăm những cây non thì mới có rừng?

LMY: Những nhận xét, phê bình về thơ của ông có thể là một cứ liệu xác đáng để mọi người, dư luận xã hội căn cứ vào đó nhận định thơ trẻ không?

NTT: Đấy là chuyện không thể áp đặt. Nhưng nhìn chung, dân trí thơ chưa ngang tầm với những nhà thơ cách tân tài năng. Muốn bước đi của thơ tiến tới thì phải đồng thời nâng cao dân trí thơ. Những cuộc thuyết trình cho Thơ Mới trước đây như là sự dọn đường cho cách tân thơ rất thành công. Và như vậy, trong bầu trời đầy sao là công chúng, những tài năng chính là những ngôi sao rực sáng xác định cho bầu trời, như là sao Bắc Đẩu dẫn đường. Một bầu trời mà không ai biết đến những ngôi sao sáng, đó là bầu trời mù.

LMY: Vậy ông có sợ dư luận trong bầu trời những ngôi sao nhỏ quanh mình không?

NTT: Tôi không phải là người không biết sợ. Nhưng tại sao tôi lại phải sợ nhỉ?

LMY: Mọi người đều biết có khá nhiều dư luận về ông, kể cả tốt lẫn xấu. Ông nghĩ thế nào?

NTT: Dư luận tức là luận thêm ra, phải không? Việc riêng của mình chỉ mình biết là đủ. Người ta chẳng ai biết hết về ai cả. Đời tư tôi rất phức tạp. Vợ không biết. Con không biết. Mà người ta biết hết về mình có phải là điều hay không nhỉ?. Một cây đa có ma, mọi người bảo thế nhưng bọn trẻ con vẫn đến ngồi chơi, người nông dân đi làm đồng vẫn dừng nghỉ chân mà chẳng ai thấy ma đâu cả. Muốn biết cuộc đời tôi, tốt nhất là hãy đọc tôi.

LMY: Ông có cho mình là người nổi tiếng?

NTT: Tất nhiên. Chỉ có nổi ít hay nổi nhiều thôi. Nếu không, sao thiên hạ lại mất thì giờ để đàm tiếu về tôi?

LMY: Theo ông, điều gì hay nhất mà thế hệ của ông đã làm được? Và điều gì là dở nhất?

NTT: Điều hay nhất thế hệ nhà thơ chúng tôi làm được là đánh giặc và làm thơ. Điều dở nhất là rất kém ngoại ngữ.

LMY: Trong “Bài thơ khác”, hình như ông có dấu một bí mật bất ngờ?

NTT: Bài thơ này là một câu chuyện có thật. Sự thật nó xảy ra bất ngờ mà tôi không biết trước. Tôi nghĩ, nếu một ai còn biết bất ngờ thì còn biết làm thơ, nếu không, sẽ chỉ như một cái cây đã khô.

LMY: Chân dung của ông do chính ông phác thảo cũng sẽ bất ngờ đến mức “tin thì tin không tin thì thôi” chứ, thưa ông?

NTT: Tin thì tin không tin thì thôi. Tôi núp dưới cái bóng râm của tên tôi!

LMY: Xin cảm ơn nhà thơ!


Hà Nội, 18.3.2003
Lê Mỹ Ý thực hiện

Bài đã đăng trên vannghesongcuulong.org
chia cho em một đời say
một cây si/ với/ một cây bồ đề
tôi còn đâu nữa đam mê
trời chang chang nắng tôi về héo khô
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thơ trữ tình Nguyễn Trọng Tạo

“Ôi, có những câu hát ta biết bao giờ hát lại. Những tấm ảnh thời thanh xuân của em chẳng là những câu hát như vậy đó sao?”. Đó là những câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo trong bài Những tấm ảnh thời thanh xuân mà mỗi lần đọc, tôi thấy như được trở lại thời thanh xuân của chính mình, và trở lại thời thanh xuân của một ai đấy nữa! Thanh xuân của tình yêu đầu đời! 54 bài thơ trong tập thơ nhỏ xinh và mỏng mảnh này là 54 trạng huống tình yêu, say đắm và buồn, buồn như một ngày xuân không còn hoa cúc, buồn như cây khóc lá, buồn như một đêm tỉnh giấc, ta chợt thấy nỗi buồn đang ngồi bên: “Là khi tỉnh giấc trong đêm/ một mình ta thấy ngồi bên nỗi buồn”… và một van nài lạ lùng, hi hữu:

Buồn ơi, Buồn có thương tôi.
Đừng làm tôi phải mồ côi Nỗi Buồn.
(Xon-nê buồn)
Cách nói, cách cảm và cách thơ ấy chỉ riêng Nguyễn Trọng Tạo mới có. Ngoa ngôn chăng, thậm xưng chăng, phách lối chăng? Ai nghĩ gì thì nghĩ, nhưng Tạo không thể sống nổi nếu không có một Nỗi buồn cặp kè bên cạnh: “Buồn đừng đi, Buồn đừng tan/ mất Buồn còn lại tro tàn mà thôi!” Trong con mắt nhà phê bình Trần Mạnh Hảo thì thế nào Nguyễn Trọng Tạo cũng sẽ biến thành một nhà “Buồn học”, nhưng nếu thay nỗi buồn kia thành niềm vui chẳng hạn, thì cơ sự sẽ ra sao? Chẳng lẽ lại phải đọc là: “Vui đừng đi, vui đừng tan/ Mất vui còn lại tro tàn mà thôi!” Vô duyên biết mấy, nông nổi và hạn hẹp vô cùng!

Hình như, với Nguyễn Trọng Tạo, tình yêu là cặp song sinh với Nỗi Buồn. Cả tập thơ với 54 bài này, tôi không bắt gặp Tạo cười hơ hớ lần nào, chỉ thấy anh đã buồn và sẽ lại buồn hơn, ngay cả trong một ngày vui là ngày có Quà sinh nhật:
hai mươi bài hát vui
hát tặng một nỗi buồn
hai mươi bài hát buồn
hát tặng nỗi buồn hơn…
Ngay cả một ngày vui là trong tiệc cưới của Em: “Nếu ngày mai khi tiệc cưới của em/ bạn bè đến nói cười và chúc tụng/ xin em hãy coi tôi như bè bạn/ và xin đừng dù khẽ gọi tên tôi…” giọng điệu bài thơ này phảng phất chất giọng Nguyên Sa một thời xa lắm, nhưng nó hiện đại hơn vì không sướt mướt và quá bi luỵ, nó ở một chiều kích khác của tâm thức,
tôi còn đi. Mưa gió. Đường dài
trái tim phải lội qua bao thác lũ
dẫu gió lạnh thổi mãi con chim nhỏ
em đừng buồn - trời rộng phía yêu thương…
(Nếu ngày mai)
Nỗi buồn trong tình yêu của Nguyễn Trọng Tạo đã được nâng lên thành một triết lý hoặc là một định đề - bất di bất dịch. Nhiều khi nỗi buồn của anh lại khiến cho người đọc phải bật cười, cười trong cay đắng và như thế còn hơn cả nỗi đau thương.
hoa đã tặng. Người đã không còn nữa.
em đã yêu. Em đã bỏ tôi đi
sẽ dở hơi nếu là tôi đứng khóc
nhưng cười vui thì tôi sẽ còn gì?
Nói tập Thơ trữ tình của Nguyễn Trọng Tạo là thơ tình yêu thì đúng rồi, nhưng hình như chưa đủ, chưa thoả đáng, chưa thấu suốt cái nội hàm của nó. Thơ tình của Tạo chứa cả một trời thế sự, một biển tâm linh, thăm thẳm linh hồn người. Không có tình yêu con người, tình sự sống, tình yêu hoa cỏ, gái trai, sẽ không viết được những câu thơ đau xót như thế này, và cũng hài hước như thế này:
Anh làm vua không ngai, em vẫn là hoàng hậu
chàng hoàng tử khóc nhè, nàng công chúa hờn dai
chợt thương quan không dân
chợt thương ngai không chủ
thương những đời người chung thân
trong áo mão cân đai…
(Cổ tích thơ tình)
Và rồi đây nữa:
Chặt cây mà bắc cầu sang
Không em, anh sống lang thang hai lần
Ước chi em giận một tuần
Em xa vài tháng, em gần… cả năm.
(An ủi)
Phẩm chất cốt lõi trong thơ tình Nguyễn Trọng Tạo trở thành bức thông điệp gửi tới người đọc là tình yêu, yêu đến hết mình, đến tan xác, đến rỗng không, đến không còn hồn vía:
Chia cho em một đời tôi
một cay đắng
        một niềm vui
                 một buồn
tôi còn cái xác không hồn
cái chai không rượu tôi còn vỏ chai.
(Chia)
Người biết yêu đến tận cùng thì cũng biết hiến dâng đến tận đáy. Nhiều khi nhà thơ tự ví mình như bông hoa ly vàng, nhỏ tí xíu, khuất lấp trong muôn ngàn loài hoa rực rỡ, khiêm nhường và cao thượng: “Dẫu nhỏ nhoi tôi có một cái tên/ khi ngập nước và khi thì ngập nắng/ hoa li vàng mùa hạ chính là tôi…” và một niềm run rẩy rất đỗi dịu dàng, mong manh và thuỷ chung biết bao:
Biển đầy vơi thương nhớ, biển xanh ơi
Thân thể ai hồng hào pha ngọn sóng
Da thịt người chạm vào tôi nóng bỏng
Rồi có thể người quên
Còn tôi mãi giữ gìn…
(Hoa li vàng)
Càng đi sâu vào mê cung thơ tình Nguyễn Trọng Tạo, người đọc càng khám phá thêm những miền tâm trạng mới, đặng làm phong phú thêm, chất lượng tâm hồn người. Cái mà nhà thơ tưởng mất lại là phù sa bồi đắp cho tâm tưởng ta thêm phì nhiêu, và đó chính là cái mà ta được:
tôi về khép lại căn phòng
thấy trong lồng ngực như không có gì
trái tim đã bỏ tôi đi
ai mà nhặt được gửi về giùm tôi.
(Gửi)
Ở đây chỉ là cách nói, cách diễn đạt bằng thơ những điều khó nói. Tuy nhiên một nhà thơ thực sự tài năng không nhờ vào cách nói, phải có một nội lực cường tráng để có gì mà nói! Với nhà thơ “trữ lượng tâm hồn” là điều cần thiết hơn cả, cái mỏ ấy hệt như một mỏ dầu, càng khai thác, càng phát sáng. Và tôi không nghi ngờ Tạo là một mỏ dầu có trữ lượng cao, anh đã từng làm cháy, thậm chí thiêu đốt bao tâm hồn yêu và đang yêu:
cho thơ tôi được nói lời
tình-yêu-tôi, gửi tới người-tôi-yêu.
bởi tôi tin những sớm chiều
người không quen… sống rất nhiều cho tôi.
(Thơ gửi người không quen)
Đọc Thơ trữ tình của Nguyễn Trọng Tạo, bạn đọc sẽ không muốn ngồi trong nhà nhìn ra mưa nữa, mà bạn sẽ… nhảy ra đường. Ra đường để làm gì thì chưa biết, nhưng cứ phải ra đường, để có thể đắng cay nhặt lại được một “nỗi buồn” nào đó, đau xót và quyết liệt vô cùng:
một ngày người bán rẻ ta
ta thành đồ vật giữa nhà người dưng
một ngày người đến rưng rưng
mua gì vô giá? xin đừng mua ta
(Nỗi buồn kiêu)
Yêu và buồn là cặp trẻ song sinh, Nguyễn Trọng Tạo đã minh chứng cho điều ấy.

Ai từng quen biết Nguyễn Trọng Tạo, chỉ ngồi với anh một buổi chiều thôi, uống rượu và nghe anh hát Làng quan họ quê tôi hay Khúc hát sông quê… sẽ cảm nhận rằng, Tạo là người vô tư lắm, hồn nhiên và sung mãn lắm! Không, không phải vậy đâu, Nguyễn Trọng Tạo vốn là người cả nghĩ, đến nỗi: “Người đẹp nhìn tôi trên đường/ về đêm tôi cảm thấy buồn…”, đến nỗi nhìn ai cũng ngỡ là mình thuở ấy, thuở xa xôi nào:
có ai ngồi xuống chỗ chúng mình kia
chàng trai ấy cùng với cô gái ấy
cô gái đẹp sao giống em đến vậy
và chàng trai run rẩy giống anh sao
cỏ biếc xanh như cỏ đêm nào…
(Cỏ xanh đêm trước)
Trong tập thơ này của Nguyễn Trọng Tạo, tôi đặc biệt yêu thích bài Thơ tình người đứng tuổi. Có cảm giác rằng anh viết cho tôi, và viết riêng cho một người nào đấy nữa, một người nào trong vô vàn chúng ta:
bây giờ cao bổng vòm cây
dòng sông trôi đã vơi đầy tháng năm
áo tôi đạn xé bao lần
tóc người hao mấy mùa xuân đợi chờ
(Thơ tình người đứng tuổi)
Con người ngỡ là từng trải, từng trải qua chiến trường, qua cả “tình trường” mà không hề chai sạn, cứ run rẩy như thuở mới vào đời, như một khúc mộng mơ, như một kẻ mắc nợ. Nợ cái gì thì chưa biết, nhưng Tạo là con nợ của trăm năm:
tôi còn mắc nợ áo dài
một làn gió trắng một bài thơ hay
tôi còn mắc nợ mi mày
một con thuyền lá xanh đầy mắt nai
(Tôi còn mắc nợ áo dài)
Trắng nợ như thế thì sẽ còn nợ tiếp, nợ chung thân, nợ tử hình! Tử hình rồi còn chưa hết nợ: “Có lúc ngôn từ biệt tích/ đam mê trơ đá gan lỳ/ em mèo ơi đừng đến nữa/ sợ em dựng dậy tử thi!…” (Chiêm cảm). Và đến nông nỗi ấy thì phải giấu biệt mình đi, lặn một hơi để không ai tìm thấy nữa:
có một chàng đơn độc
bước trên đường Không Tên
có một nàng Hạnh Phúc
ở số nhà Lãng Quên…
(Nỗi nhớ không tên)
Nguyễn Trọng Tạo đã tự mình làm ra một đường phố, một số nhà cho riêng mình, đấy là số nhà Lãng Quên trên đường Không Tên vậy! Có tin được không? “Tin thì tin không tin thì thôi”. Và tôi gọi tập Thơ trữ tình của Nguyễn Trọng Tạo là Bức tranh tình không năm tháng!…


Hà Nội, tháng 4 năm 2004
Trịnh Thanh Sơn

Thơ trữ tình: NXB Hội Nhà văn - Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, ấn hành, 2004

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
chia cho em một đời say
một cây si/ với/ một cây bồ đề
tôi còn đâu nữa đam mê
trời chang chang nắng tôi về héo khô
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Trọng Tạo: chớp mắt với ngàn năm

Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ oà bí mật: “có thương có nhớ có khóc có cười/ có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi”. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn (1). Cách nói Đồng dao cho thấy được ý hướng sáng tạo của Nguyễn Trọng Tạo. Thơ anh là những khúc hát ngân lên từ cõi nhớ của một kẻ nhà quê lưu lạc. Lưu lạc mà vẫn nhớ mình là nhà quê, là phương Đông chính hiệu. Vì thế, nếu có đọc thơ Tây cũng là một cách mở rộng, tham bác để cho cái chất nhà quê vừa gắn với cổ điển, vừa đáp ứng được nhu cầu hiện đại. Hai câu thơ trên đây khép lại bài thơ mà cũng là để mở ra về phía “ngàn năm” từ cái “chớp mắt” khóc cười nghệ sĩ. Những câu thơ đẫm niềm riêng nhưng cũng là những trải nghiệm khóc cười nhân thế. Nó như bật ra từ tuệ nhãn, vừa mới mẻ vừa mang theo cái uyên súc Đường thi. Đó là một kiểu chiêm nghiệm, một cách nói khác của Bùi Giáng: “Bây giờ riêng đối diện tôi/ Còn hai con mắt khóc người một con”. Nói thế để thấy rằng Nguyễn Trọng Tạo đã biết lắng lại và tự giác ngộ mình trước cõi tham-sân-si trần tục. Mối tương quan giữa chớp mắt và ngàn năm đẩy cảm xúc lên tầm mỹ học về nhân sinh qua cái nhìn của một người biết mình cũng đầy ưu, nhược như ai. Nhưng người thơ ấy biết tự dặn mình coi thơ như một tôn giáo, đứng trước thơ phải thanh khiết và để lại sau lưng những phiền luỵ không đâu. Là một thi sĩ có ý thức đổi mới, Nguyễn Trọng Tạo thấu hiểu một cách sâu sắc, rằng, sự sống còn của người viết là phải nương thân vào chữ nghĩa. Nơi ấy, hồn nằm trong xác và xác ngụ trong hồn. Không còn cách nào khác, tư cách của nhà thơ chỉ có thể đo ướm bằng sự toả sáng của chữ. Tại đó, anh ta trình với mọi người cái vân tay vân chữ của mình trên tờ căn cước bằng giấy trắng mực đen. Hay, dở đã thuộc về kẻ khác. Mọi phân trần hay biện hộ của nhà thơ đều trở thành vô nghĩa.

Thuộc típ người tài hoa đa mang lắm mối, nhưng trước sau, hồn vía Nguyễn Trọng tạo vẫn sống chết với thơ. Tại đây, anh dựng lên xác tín nghệ thuật của mình: “Thi ca là ngôn từ rung lên bằng âm nhạc” (2). Cấu trúc thơ Nguyễn Trọng Tạo hàm chứa rất nhiều âm nhạc là vì thế. Nhạc cất lên từ nhịp: “Chia cho em/ một đời tôi/ một cay đắng/ một niềm vui/ một buồn” (Chia). Nhạc cất lên từ vần: “tình trao mắt cho thơ/ trời xanh mi ướt bờ/ tình trao nắng cho mưa/ chìm vào nhau bất ngờ” (Rượu chát), từ sự bung phá một cách phóng túng để diễn tả chính sắc màu của nhịp điệu: “ôi nhịp điệu- thân xác không mang nổi/ ta thoát khỏi ta/ như đứa trẻ thoát áo quần quá chật” (Nhịp điệu Tây Nguyên)… Nhưng thủ pháp thường gặp nhất trong thơ Nguyễn Trọng Tạo là cách tổ chức điệp khúc. Điệp trong bài, điệp bằng lối hai câu song song, nương tựa nhau… Những thủ pháp ấy bắt nguồn từ niềm đam mê nhịp chẵn theo quan niệm của Nguyễn Trọng Tạo (khác với nhịp lẻ của thơ Trung Hoa). Nhưng đó không phải là kiểu hài thanh cân đối cổ điển mà trên sự cân đối ấy nhằm tạo nỗi chơi vơi trong tình điệu thẩm mỹ của anh. Với Nguyễn Trọng Tạo, hình thức điệp cú và điệp cấu trúc có khả năng đạt các hiệu quả nghệ thuật: 1- sự chặt chẽ trong cấu tứ và sự trùng phức về giai điệu; 2- sự nhoè mờ của các “vân chữ”; 3- trên cơ sở đó tạo nên những bất ngờ và bung phá. Dĩ nhiên, thủ pháp này cũng tiềm ẩn một nguy cơ: khi cảm xúc vơi hụt, tỉnh nhiều mà say ít, thơ sẽ rơi vào tình trạng ít ý nhiều lời. Hiện tượng này cũng từng xảy ra với chính Nguyễn Trọng Tạo. Nhưng nhìn chung, Nguyễn Trọng Tạo đã kết hợp được hài hoà giữa ý tình và âm nhạc. Xin đừng hiểu rằng một khi thơ giàu nhạc thì ý tưởng bị khuất chìm. Chính các nhà tượng trưng đã từng nêu lên một tuyên ngôn bất hủ: “Âm nhạc đi trước mọi điều”. Những câu thơ sau đây của Paul Verlaine sẽ mất đi rất nhiều dư vị nếu ta tước bỏ nhạc thơ: “Đang khóc trong lòng tôi/ Như đang mưa trên phố/ Buồn chán gì vô cớ/ Đang len vào lòng tôi” (3). Ở nước ta, thơ hàn Mặc Tử, Hoàng Cầm, Vũ Hoàng Chương… đều là những thế giới đầy âm nhạc. Điều quan trọng là nhạc thơ phải diễn tả được nhạc lòng, là một thành tố trong nghệ thuật tổ chức cấu trúc giọng điệu. Âm nhạc chính là một thủ pháp khiến người đọc dễ say với cái say thi sĩ vốn là một phần bản thể Nguyễn Trọng Tạo. Là người ít nhiều tìm hiểu giọng điệu thi ca, tôi nghĩ, ngoài âm và nghĩa dồi dào, thơ phải có giọng. Không có giọng, anh ta lập tức bị biến khỏi bản đồ thơ. Với cách hiểu như thế, tôi nghĩ, Nguyễn Trọng tạo là người có giọng điệu riêng. Nhưng cái nốt riêng ấy không tự dưng mà có. Thực lòng, tôi không tìm thấy nó ở thời “Gương mặt tôi yêu” mà phải đến những ngày khúc “Đồng dao cho người lớn” ra đời, tôi mới thấy rõ đó là cách nói của Nguyễn Trọng Tạo. Những câu thơ của anh mang chất giọng tưng tửng, ngu ngơ ngỡ như chơi vơi nhưng kỳ thực chứa rất nhiều ngẫm ngợi, trí tuệ. Một chất giọng mà khi đọc kỹ ta mới thấy hết cái da diết bên trong. Học lấy cái nhoè mờ trong thi pháp phương Đông, Nguyễn Trọng Tạo đã biết tựa vào âm nhạc để trình bày các ý tưởng của mình. Đây chính là yếu tố tạo nên chất phiêu lãng trong giọng điệu thơ anh. Phía sau những âm giai phiêu lãng ấy là chiều sâu của cảm hứng về nhân thế, là những lăn lóc thân phận. Chiều sâu mỹ cảm thi ca Nguyễn Trọng Tạo trước hết bắt nguồn từ yếu tố cơ bản này.

Là kẻ lang bang lữ thứ, tất nhiên, Nguyễn Trọng Tạo thường nói đến say: “Sông Hương hoá rượu ta đến uống/ ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say” (Huế 1); “chín can… rượu chẳng còn đâu/ còn em hoá rượu. Cúi đầu anh say…” (Rượu cần). Đó cũng là một hình thức nhà thơ phiêu diêu về tâm tưởng, một cách lang thang trong cõi nhớ của mình. Từ làng quê xứ Nghệ đến với Huế, văn hoá Nguyễn Trọng Tạo được bồi đắp thêm một lần nữa. Có thể nói, Huế đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên hồn cốt thơ Nguyễn Trọng Tạo. Phải chăng, anh đã học được ở đây cái uyên sâu của đời sống tâm linh trầm mặc? Với cách xây tứ khá độc đáo, tôi nghĩ, Huế 1 thuộc số những bài thơ ấn tượng nhất về Huế trong thơ ca sau 1975. Những cơn say của Nguyễn Trọng Tạo cho phép anh nhìn sâu vào bản thể hồn mình, hiểu hơn về những bước chân lưu lạc của mình. Bởi thế, say còn là một hình thức tự vắt kiệt, tự đốt cháy: “Tôi còn cái xác không hồn/ cái chai không rượu tôi còn vỏ chai” (Chia). Sống thế là đến đáy. Là dám chấp nhận. Hoá ra, ở những giây phút thăng hoa nhất, men thơ men tửu men đời đã hoà lẫn trong nhau. Nguyễn Bính xưa cũng như thế: “Tôi uống hồn em và uống cả/ Một trời quan tái mấy cho say”. Tôi nhớ, trong căn hộ chung cư tầng sáu mà Nguyễn Trọng Tạo đang nương thân ngoài đời, có một tấm ảnh rất ấn tượng anh chụp với tiên chỉ Văn Cao qua bàn tay của nhiếp ảnh gia Nguyễn Đình Toán. Chai rượu choán lấy mặt tiền của ảnh và hai kẻ tài hoa, một anh một em nâng ly mừng thơ nhạc và chia sẻ muộn phiền. Nhưng vấn đề là sau những cơn say và những ngày tháng phiêu du ấy, Nguyễn Trọng Tạo còn lại gì? Còn lại một nỗi cô đơn. Theo ý tôi, cô đơn là phần sâu nhất trong bản ngã Nguyễn Trọng Tạo. Cái mầm cô đơn ấy có đủ vị, có cả niềm cay đắng xen lẫn nỗi ngọt ngào “Trái tim đã bỏ tôi đi/ ai mà nhặt được gửi về giùm tôi”. Một đời đuổi bắt cái đẹp hoá ra cũng là để tìm chính mình, tìm lại một nửa cái tôi đang nằm đâu đó trong đời. Tiếng gọi của tâm linh đấy chăng? Hay đó là những thầm thì của nỗi đê mê, đắm đuối tạo thành sự phân thân không định trước. Ai nghĩ gì, kệ họ. Riêng mình, nguyễn Trọng Tạo thật lòng: “Tin thì tin không tin thì thôi”. Những câu thơ tưng tửng, ngu ngơ và da diết này cũng là một kiểu tuyên ngôn, một cách gây sự với đám đông của Nguyễn Trọng Tạo. Nó như một chuỗi “phản đề” trước khi nhà thơ nêu lên “chính đề” là gan ruột của người viết:

Nhưng tôi người cầm bút, than ôi
Không thể không tin gì mà viết.
Nhìn từ chiều lịch đại, Nguyễn Trọng Tạo thuộc thế hệ các nhà thơ chống Mỹ. Thơ anh cũng từng một thời phơi phới tin yêu, một thời tha thiết thật lòng “mỗi chiếc lá đều ghi lời tự nguyện”. Sự trong trẻo ấy thật đáng quý nhưng rõ ràng có phần đơn giản. Trong khi những cây bút như Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Mạnh Hảo… đã được nhiều người nhớ thì Nguyễn Trọng Tạo vẫn mải miết kiếm tìm. Phần hay nhất của thơ Nguyễn Trọng Tạo nằm ở thời hậu chiến. Đây là giai đoạn Nguyễn Trọng Tạo chủ trương một thứ thơ đời thường. Hướng về đời thường, thơ gần hơn với con người, những vui buồn nhân thế cũng được đề cập đến sâu sắc hơn. Theo ý tôi, mặc dù thập kỷ 80 của thế kỷ XX có sự nỗ lực đổi mới của nhiều nhà thơ, nhưng cần ghi dấu ba giọng điệu đáng chú ý: Ý Nhi, Nguyễn Trọng Tạo, Dư Thị Hoàn. Những bài thơ của họ thể hiện rất rõ sự “vỡ giọng” và sự thay đổi về tư duy nghệ thuật. Đó là quá trình tự nhận thức lại chính mình và người khác. Những thần tượng một thời giờ đây đã hết uy lực: “Khi đang đắm yêu có tin được bao giờ/ Rồi một ngày người yêu ta đổi dạ/ Rồi một ngày thần tượng ta tan vỡ/ bạn bè thân thọc súng ở bên sườn” (Tản mạn thời tôi sống). Đây là những câu thơ hàm chứa rất nhiều cay đắng ở bên trong vì nó nói về sự đổ vỡ. Mà có sự đổ vỡ nào lớn hơn là sự đổ vỡ về tình yêu và thần tượng! Sau 1975, thơ ca Việt Nam từ quỹ đạo của cái ta trở về với cái tôi cá nhân. Nhưng đó không phải là cái tôi tách rời hoàn cảnh như thơ ca lãng mạn. Đó là cái tôi như một điểm tựa để nhìn về nhân thế và con người trong sự phức tạp và nhiêu khê khó lường. Góc nhìn đời tư và những dằn vặt cá nhân được quan tâm thể hiện. Những điều ấy đều có mặt trong thơ Nguyễn Trọng Tạo thời sau - thời mà cái nhìn riêng của anh được mài sắc hơn, sự thay đổi cái nhìn nghệ thuật diễn ra quyết liệt hơn: Như con chiên sùng đạo chợt bàng hoàng/ Nhận ra Chúa chỉ ghép bằng đất đá. Trong hoàn cảnh ấy, con người đang tìm mình, loay hoay kiếm tìm các giá trị, đường chân trời không hẳn cứ trong veo như trước đây ta vẫn tưởng. Đây là thời điểm các cây bút phải biết xác lập vị thế của mình trong dòng chảy lịch sử. Bản lĩnh nghệ thuật của nhà thơ phải được thiết lập bằng quan niệm riêng của anh ta về đời sống. Biết bứt thoát khỏi những quy phạm nghệ thuật của thời đã qua, Nguyễn Trọng tạo đã trổ được cái nhìn riêng về “cõi nhân gian bé tí” nhưng lại hết sức rộng lớn này với những thay đổi vừa mang tính bất thường, vừa mang tính quy luật. Tản mạn thời tôi sống (1981) là thi phẩm cho thấy cái nhìn rất nhạy cảm của nhà thơ. Đây là bài thơ được nhiều người nhớ. Có thể, những người khó tính sẽ nhận thấy ở bài thơ này mạch thơ còn dàn trải, câu chữ chưa thật chắt lọc. Đúng thế, cái hay của bài thơ không nằm nhiều ở cấu trúc hay ở sự kỳ công về nghệ thuật mà nằm nhiều hơn ở khả năng tiên cảm chính xác và đầy chất triết lý: “Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa/ như thời đã đi qua như thời rồi sẽ đến”. Nguyễn Trọng Tạo đã lấy hai câu thơ mang âm hưởng ví dặm để làm giai điệu nền tảng cho dòng cảm xúc “trái mùa” tản mạn của anh. Thực ra, bài thơ đâu có tản mạn, nó xoáy vào người đọc một câu hỏi buốt nhói, một vấn đề quá lớn: “Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi/ Câu trả lời thật không dễ dàng chi”. Chính vì cái câu hỏi quá riết róng ấy mà Nguyễn Trọng Tạo từng phải lao đao. Phải đến những năm đổi mới, những băn khoăn kia của Nguyễn Trọng Tạo mới được “giải oan”. Người ta bắt đầu nhận thấy một sự thật: bài thơ đã khái quát được tâm thế của một thời. Về sau, kiểu câu hỏi nhạy cảm ấy lại xuất hiện trong thơ Hữu Thỉnh: Tôi hỏi người: - Người với người sống với nhau thế nào?, trong văn xuôi Phùng Gia Lộc: Cái đêm hôm ấy đêm gì?... Không quá khó khăn, người đọc nhận thấy phía sau niềm trắc ẩn kia của Nguyễn Trọng Tạo là nỗi cô đơn, đắng đót của kẻ mang bản mệnh đa đoan. Mà Nguyễn Trọng Tạo đâu có che giấu cái tôi bản thể của mình:
vẽ tôi mực rượu giấy trời
nửa say nửa tỉnh nửa cười nửa đau
vẽ tôi thơ viết nửa câu
nửa câu ma quỷ đêm sâu gọi về…
(Tự hoạ)
Đây là những câu thơ ngất ngưởng, đùa đấy mà cũng là thật đấy. Ngẫm ra, chỉ những ai dám là mình mới có cái ngất ngưởng, tếu táo đến nhường ấy: “vẽ tôi lặng nhớ mưa xa/ tiếu lâm đời thực khóc oà chiêm bao”. Tôi nghĩ, cái khóc cười qua những dòng tự hoạ trên đây có phần gần gũi với tâm trạng Khi vui lại khóc, buồn tênh lại cười của cây hát nói tài danh đất Nghi Xuân Nguyễn Công Trứ. Trong thơ, nhiều khi quá cố công để tìm đến cái sâu sắc lại gặp phải sự hời hợt, trơn lỳ, bởi đó là cái “cố” bằng lý tính. Nhưng nhiều khi, nhà thơ ngỡ như bất lực lại chính là lúc nẩy lên những ý lạ đến khó ngờ. “Tâm trạng nhạc tính” của người sáng tạo một khi bắt gặp những chớp loé tư tưởng sẽ tạo nên sự bùng nổ. Điều này khiến tôi chợt nhớ đến một ý kiến rất hay của E. Weber: “Tảng đá tư tưởng rơi vào tâm trạng này và dấy lên những đợt sóng tinh thần, những đợt sóng này vươn tới sự biểu hiện bằng ngôn ngữ và sẽ phải trở thành thơ” (4). Đó là phút “giời cho”, là trạng thái “ngây ngất”, “mê sảng” như A. Pushkin có lần bày tỏ. Có lẽ trong đời, Nguyễn Trọng Tạo đã hơn một lần bắt gặp giây phút “giời cho” mà Tản mạn thời tôi sống là một ví dụ điển hình. Những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo thường là những bài thơ xuất phát từ cái nhìn sâu vào bên trong, lắng nghe âm vọng đời sống qua tiếng gõ rất riêng của cái tôi “nửa khóc nửa cười” ấy. Thời gian 1 là bài thơ có những bước nhảy độc đáo về tứ:
còn chi bóc nữa?
hãy bóc hồn tôi
tôi thành tờ lịch
bóc sang luân hồi.
Khúc Xonê buồn cũng có cách nói khá ấn tượng:
Là khi tỉnh giấc trong đêm
Một mình ta thấy ngồi bên: nỗi buồn
Là khi cạn một ly tràn
Đáy ly ta lại thấy làn mi xanh.
Những câu thơ này ít nhất cho phép người đọc nhận thấy hai điều. Trước hết, hé ra chiều sâu của một nỗi cô đơn thường trực; thứ hai, mở ra một trường liên tưởng lớn nói về sự cô đơn và khát khao chia sẻ. Ý tưởng ấy, đến Nguyễn Trọng Tạo, được hoá vào hồn lục bát, lấy cái duy tình để diễn tả cái duy linh: “Buồn ơi Buồn có thương tôi/ Đừng làm tôi phải mồ côi nỗi buồn!...” Buồn là em, là người đẹp, là một nửa của tôi, là ai đến bên tôi “khít ơi là khít” như Hàn Mặc Tử xưa kia một mình trong bãi biển đầy trăng chập chờn ma mị. Nếu Đồng dao cho người lớn mở ra bước chuyển về thi pháp, đưa thơ đến với chất giọng triết lý sau cái vỏ ngu ngơ như thật như đùa thì Chia lại là một nỗ lực cách tân của Nguyễn Trọng Tạo trên con đường làm mới thể thơ lục bát. Với Nguyễn Trọng Tạo, việc cách tân không đồng nghĩa với việc phải đập vỡ và tẩy chay mỹ học truyền thống. Anh biết nâng niu di sản văn hoá quê hương và cố gắng tạo nên sự “hoà giải” giữa cái cũ và cái mới trong thơ. Bởi thế mới có chuyện “Một cây si với một cây bồ đề” (Chia); “con đường từ ghét đến yêu/ đỏ đen sấp ngửa liêu phiêu một đời” (Ví dụ 4)... Trên nền ổn định của thể loại, Nguyễn Trọng Tạo có nhiều cách xoay trở. Anh chơi vần, tạo ấn tượng thị giác bằng cách biến đổi cấu trúc dòng thơ, xây dựng những hình thức nhịp điệu, tiết điệu mới:
chia cho em một đời Thơ
một lênh đênh
                        một dại khờ
                                              một tôi
chỉ còn cỏ mọc bên trời
một bông hoa nhỏ lặng rơi mưa dầm…
Lục bát Nguyễn Trọng Tạo không nghiêng hẳn về âm hưởng ca dao như Nguyễn Duy, không sấn sổ táo tợn như Đồng Đức Bốn sau này, và cũng khác với cách “gảy khúc trăng vàng” của làng quê Bắc bộ như Phạm Công Trứ trong lời thề cỏ may. Cái riêng của lục bát Nguyễn Trọng Tạo là sự phiêu diêu của cảm xúc, ma lực của âm nhạc và sự kỹ lưỡng nghiêng về phía sang trọng của chữ nghĩa. Đây là thế mạnh nhưng cũng là một cái bẫy với chính nhà thơ cho dù anh muốn quẫy đạp và vượt thoát khỏi tiền nhân. Đây đó vẫn có những câu mang hơi hướm của Nguyễn Bính. Nhưng thời Nguyễn Bính, sự nới giãn cấu trúc dòng thơ để tạo nên sự lạ hoá trong cấu trúc văn bản hãy còn quá hiếm. Còn hiện thời, hình thức xuống thang, ngắt câu thành những đoạn ngắn nhằm lạ hoá khuôn hình sáu-tám trở thành ngón chơi của nhiều người. Song có thể nói, Nguyễn Trọng Tạo thuộc số những người tiên khởi. Trong số những khúc lục bát hay của Nguyễn Trọng Tạo, bên cạnh Chia, tôi đặc biệt ấn tượng với Mẹ tôi. Thi phẩm này không mang mang nỗi niềm như Trông ra bờ ruộng của Hữu Thỉnh mà sử dụng giọng kể nhà quê rất thích hợp:
mẹ tôi dòng dõi nhà quê
trầu cau từ thuở chưa về làm dâu
áo sồi nâu, mấn bùn nâu
trắng trong giải yếm bắc cầu nên duyên.
Nói thế để thấy rằng, mặc dù kỹ lưỡng và có ý thức trau chuốt ngôn từ, nhưng khi cần, Nguyễn Trọng Tạo biết cách đổi giọng để vần điệu hài hoà với cảm xúc. Từ những chuyện đời ngỡ như thật riêng tư, bài thơ mở ra một khung trời tâm tưởng, và bóng mẹ trở nên da diết lạ lùng: mẹ tôi tóc bạc răng đen - nhớ thương xanh thẳm một miền nhà quê. Sức hút của bài thơ này nằm ở sự giản dị của ngôn từ và giọng kể chứ không nằm ở kỹ xảo thuần tuý. Vậy là sau rất nhiều lưu lạc, vẫn có một miền quê ẩn sâu trong hồn thơ Nguyễn Trọng Tạo:
ngác ngơ giữa phố
một thằng nhà quê
nhớ thương mộ tổ
biết bao giờ về
(Lưu lạc)
Tôi nghĩ, cái gốc quê ấy không đơn giản là nơi sinh trưởng, lớn lên nhìn từ góc nhìn địa lý mà rộng hơn, là hồn vía văn hoá của quê mình, dân tộc mình ám vào hồn thơ Nguyễn Trọng Tạo và qua nhạc, qua vần điệu, tiết tấu, chữ nghĩa mà rung lên thành thơ:
Cỏ may khâu áo làng quê
Cớ chi gió thổi bay về trời cao
Ta lên sân thượng chạm vào
Cỏ may. Ta cúi xuống chào… Cỏ may!
(Cỏ may trên sân thượng)
Trước đây, người ta thường nhắc đến hình ảnh Cao Bá Quát đê thủ bái mai hoa. Nay kẻ hậu sinh Nguyễn Trọng Tạo cũng biết lãnh tinh thần hướng về cái đẹp ấy trước cỏ may. Đó là một hành động nghĩa khí và nghệ sĩ. Nhưng nếu hoa mai trong thơ Cao Bá Quát có ý nghĩa như một siêu mẫu nói về sự thanh cao quen thuộc trong hệ từ vựng thơ ca cổ điển thì cỏ may trong thơ Nguyễn Trọng Tạo là hình bóng của quê hương, là nỗi niềm của một con tim nhạy cảm: “loanh quanh sân thượng mà thương cánh đồng”. Một nhành cỏ may bất chợt đã đánh thức cái nhìn hoài nhớ tuổi xưa của Nguyễn Trọng Tạo. Bài thơ gợi lên một tình yêu da diết và sâu sắc. Trong con người ấy, quê hương bao giờ cũng bình dị và thiêng liêng. Thêm một lần nữa, tôi muốn khẳng định, cái chất nhà quê cứ chảy hoài trong kẻ lưu lạc kia đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất làm nên dải phổ cảm xúc thơ Nguyễn Trọng Tạo. Nhưng cũng cần lưu ý thêm rằng, đó là chất nhà quê vùng Hoan Diễn - Nghệ An và đã được bồi đắp thêm những tố chất văn hoá của các vùng quê khác mà bước chân lưu lạc của Nguyễn Trọng Tạo đã từng đặt chân đến. Thế mới ngu ngơ, tưng tửng nhưng cũng hết sức ngọt ngào mềm mại. Đó là cái mềm mại hiện lên sau cái vẻ gẫy gập, trúc trắc, xa xót của những câu ví dặm quê anh.

Thế ra, với Nguyễn Trọng Tạo, chuyện mê mải với vần, nhịp, câu, chữ đâu phải chuyện hình thức đơn thuần. Nói cách khác, Nguyễn Trọng Tạo đã biết nâng cái nhà quê trong anh lên tầm hiện đại. Lao động chữ, đúng như Leonov từng nói, nhằm bảo đảm cho mỗi tác phẩm “phải là một phát hiện về nội dung và là một phát minh về hình thức”. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Trọng Tạo lại hăng hái cổ vũ cho thơ trẻ. Đơn giản, đó là điểm gặp của một người mang ý hướng cách tân và những nỗ lực cách tân của thế hệ mới. Biết là trong những cách tân kia của tuổi hai mươi, vẫn còn có nhiều bất cập, non nớt thậm chí vụng về. Nhưng không nên nhìn những cây bút măng tơ ấy bằng cái nhìn của mẹ chồng: Xưa kia ai cấm duyên bà… Thực ra, đổi mới là nhu cầu của bất cứ cây bút nào. Một khi nhu cầu ấy không còn nữa thì cũng là lúc sự nghiệp thơ của người đó chấm dứt. Tôi nghĩ, trong quá trình làm mới thơ mình, Nguyễn Trọng Tạo đã có những thành công đáng trân trọng. Sự đổi mới ấy không dựa vào những thủ pháp đồng hiện, cắt dán, những hình ảnh mang màu sắc lập thể, những từ ngữ lạ tai, chói mắt mà là quá trình trở về với nhịp chẵn, với lục bát đồng dao, với vần lưng vần nối để nói lên tâm tính người hiện đại. Câu chữ của anh nhô lên từ truyền thống nhưng không bị áp chế bởi cái nhìn xưa cũ mà có những phá cách về nghệ thuật. Sự phá cách ấy không nhằm tạo ra thời thượng trong nghệ thuật mà bắt nguồn từ nhu cầu đổi mới cảm xúc và giọng điệu của chính bản thân anh. Vì thế, nó diễn ra tự nhiên chứ không rơi và gượng ép như nhiều người vẫn nghĩ.

Bên cạnh những vần thơ về nhân thế, về nỗi cô đơn xa xót, cảm hứng về tình yêu cũng là một nhịp mạnh trong thơ Nguyễn Trọng Tạo. Thậm chí, lắm khi nhà thơ ngỡ rằng đó là một phần cốt yếu của thơ anh: vẽ tôi con Lợn cầm tinh/ con Gà cầm tháng con Tình cầm tay. Vâng, cái con tình ấy xuất phát từ nòi tình Nguyễn Trọng tạo. Tài hoa đa đoan là thế, Nguyễn Trọng Tạo mê đắm với những khoé mắt đa tình, những làn tóc rối, những ngón nhỏ thon mềm cũng là điều dễ hiểu. Không chỉ có những khúc hát nhẹ nhàng tha thiết kiểu “người ở đừng về”, Nguyễn Trọng Tạo còn nói đến sự bốc lửa, đê mê. Cảm giác Biển Hồ hay là Thơ bên miệng núi lửa là một bài thơ như thế. Một kiểu nuy trang nhã: “Anh nín thở đến kiệt cùng máu ứa/ Cột lửa phun nham thạch phì nhiêu/ Rồi chết lịm trong vỗ về mơn trớn/ Mười ngón dài thon của gió chiều…” Lại có khi, tình yêu gắn với được-mất, hoài tiếc, nhớ nhung:
rồi cũng khóc như em khóc cho điều đã mất
trâm Cỏ Thi. Ừ nhỉ, cỏ thôi mà
nhưng nước mắt…cũng như em, tôi đã
thêm một lần tái diễn trước cỏ hoa.
(Tái diễn)
Cái chất libido trong thơ Nguyễn Trọng Tạo có nhiều cung bậc khác nhau, khi nồng nàn bốc lửa, cuồng nhiệt đắm say, khi ngơ ngẩn một niềm hối tiếc, khi xót xa máu ứa… Nhưng tất cả đều trang nhã, nó không quá mạnh như lứa thi sĩ trẻ sau anh. Cũng phải thôi, đó là cách nói của hai thế hệ. Thế hệ sau bảy lăm dám nói thật những cuồng nhiệt của mình cho dù đó là một sự thật gây sốc với nhiều người nhất là những người đạo đức giả. Còn Nguyễn Trọng Tạo, anh biết tìm đến cách nói “nửa phô mình ra nửa giấu lại mỉm cười” trong nguồn mạch thi hoạ phương đông. Đây cũng là một lựa chọn để tạo thành một bản tính trong thơ.

Mặc dù thơ tình là phần thể hiện khá rõ phẩm chất tài hoa nơi anh nhưng một khi quá ỷ vào tài hoa mà tình chưa thật đậm, nhà thơ có thể hút hồn người đọc bằng âm điệu nhưng sự lắng lại về chiều sâu ý tứ chưa thật nhiều. Thậm chí, có khi Nguyễn Trọng Tạo chưa thoát khỏi sự mòn cũ cho dù anh luôn có ý thức tìm đến những cách thức biểu hiện mới. Mới hay, giữa ý thức đổi mới và cái mới thực sự được kết tinh trong tác phẩm bao giờ cũng là một khoảng cách. Khoảng cách ấy ngỡ mỏng thôi nhưng kỳ thực, đó là cả một thế giới. Chỉ khi nào Nguyễn Trọng Tạo biết mở rộng cái nhìn nhạy cảm của mình, khi những trăn trở của anh gắn với trăn trở của nhiều người, khi niềm cô đơn và tê tái chắt lại thành triết lý qua những bài thơ mang chất giọng vừa sâu sắc vừa phiêu diêu thì thơ anh mới đủ sức sống lâu dài trong tâm trí người đọc.

Với những gì đã có, Nguyễn Trọng Tạo thực sự là người có những đóng góp đáng quý trong quá trình đổi mới thơ ca. Trong những thi phẩm xuất sắc nhất của mình, anh đã ngộ ra được lẽ sống của thơ là sự đổi mới không ngừng. Chính vì thế mà anh trở thành một gương mặt sáng giá trong đội ngũ những nhà thơ mấy thập niên qua.


Nguyễn Đăng Điệp

1. Nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn cũng cho rằng bài thơ Tin thì tin không tin thì thôi trong tập Đồng dao cho người lớn “có lẽ là bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng tạo” (Xem Lời giới thiệu Nguyễn Trọng Tạo - Thơ, NXB Kim Đồng, H.2003)
2. Nguyễn Trọng tạo trả lời phỏng vấn, Phan Hoàng thực hiện, báo Sài Gòn giải phóng, thứ bảy, ngày 22. 9. 2001.
3. Theo bản dịch của Vương Tử Ba trong Tuyển tập thơ hay của Pháp, NXB Văn học, H.1995.
4. Dẫn theo M. Arnaudov - Tâm lý học sáng tạo văn học, Hoài Lam và Hoài Hoài Ly dịch, NXB Văn học, H.1978, trang 536.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
chia cho em một đời say
một cây si/ với/ một cây bồ đề
tôi còn đâu nữa đam mê
trời chang chang nắng tôi về héo khô
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thơ tình và người đẹp

(Lê Mỹ Ý phỏng vấn nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo)

LÊ MỸ Ý (LMY): Ông là một trong những người nổi tiếng đặc biệt là với những bài thơ tình. Thơ tình của ông là từ cảm hứng với các người đẹp mà ra, hay do cảm xúc... tưởng tượng?

NGUYỄN TRỌNG TẠO (NTT): Tôi có trên 100 bài thơ tình, và nhiều bài được bạn trẻ chép vào sổ tay hoặc thuộc nằm lòng. Trên 100 bài thơ ấy có phải để dành cho trên 100 đối tượng tình yêu hay không thì chính tôi cũng không giải thích được. Nhà thơ Neruda viết 100 bài thơ tình chỉ để dành tặng riêng cho một người phụ nữ ông yêu. Còn tôi thì không phải như vậy. Có bài thơ sinh ra chỉ vì một đối tượng tình yêu duy nhất, nhưng cũng có khi đối tượng chỉ là cái cớ của bài thơ tình tôi viết, bởi nó khơi dậy toàn bộ ký ức tình yêu của tôi. Có một bài thơ tình rất nhiều thế hệ sinh viên thuộc, đó là bài Không đề, mở đầu bằng câu “Anh trót để tình yêu tuột mất…” lại là bài thơ tôi viết tặng cho mối tình đầu của một anh bạn nhà thơ có thời sống ở Qui Nhơn. Đó là nhà thơ Ngô Thế Oanh. Sau cuộc chia tay với mối tình đầu, Oanh chỉ còn yêu những cô gái có đôi mắt giống đôi mắt của người yêu đầu tiên. Điều đó ám ảnh tôi rất ghê. Cái đôi mắt đó cũng đẹp như đôi mắt người yêu đầu tiên của tôi, nó luôn ám ảnh tôi. Và nó ám ảnh vào đoạn kết bài thơ: “Anh trót để ngôi sao bay khỏi cát/ Biếc xanh em mãi chớp sáng vòm trời/ Điều CÓ THỂ đã hoá thành KHÔNG THỂ/ Biển bạc đầu nông nổi tuổi hai mươi”. Nhưng cũng có bài thơ sau khi công bố, tôi nhận được điện thoại của “đối tượng thứ thiệt” nói rằng: “Có nhiều người tặng thơ cho em nhưng em nghĩ họ tặng ai cũng được; chỉ bài thơ của anh là tặng riêng em”. Khi ấy, tôi thấy mình thật hạnh phúc. Đấy là trường hợp bài thơ Nỗi nhớ không tên:

Lang thang đường phố Huế
nhớ chiều nào xa Vinh
trời thắp vì sao xanh
thương nhớ về mắt biếc

Đường xưa toàn người đẹp
Nay đỏ trời phượng bay
Huế dầm mưa Nguyễn Bính
Vinh nắng hừng phương ai

Còn chi là rượu nữa
uống hoài mà không say
bia biệt ly quán lạ
ngả nghiêng bao tháng ngày

Ngỡ sông là cánh tay
Mát mềm như ngà ngọc
ngỡ chiều như chiều nay
gió thổi mùa xanh tóc

Có một chàng Đơn Độc
bước trên đường Không Tên
có một nàng Hạnh Phúc
ở số nhà Lãng Quên…
LMY: Có lần tôi đã hỏi ông rằng, đã có bao nhiêu người đẹp đi qua cuộc ờii ông, ông chỉ cười. Cho đến thời điểm này, ông đã có thể tạm thời “thống kê” chưa?

NTT: Một câu hỏi như thế thường làm khó cho những người đàn ông đang có vợ, hoặc đang yêu, hoặc đang có… bồ. Có lần tôi định viết các chuyện tình của anh nhà thơ bạn tôi, nhưng anh ta chỉ vào vợ mà nói: “Vợ tôi vẫn còn đó, ông viết sao để cô ấy không tự tử được không?”. Thế thì còn công khai cai gì được nữa! Nhưng với tôi thì câu hỏi của Mỹ Ý cũng có thể trả lời được. Cười cũng là một cách trả lời đấy chứ. Vâng, tôi đã gặp một người đàn ông trong giới nghệ thuật, cái giới mà người ta thường cho là “lăng nhăng nhất trần đời” khi anh ta đã trên 50 tuổi mà vẫn chưa biết đến người đàn bà thứ 2 là gì. Còn một anh bạn thích đùa của tôi lại cứ đòi phải lập Câu lạc bộ 1000. Cái con số 1000 làm tôi nhớ đến thi sĩ đẹp trai nhất thế giới là Xergay Esenin của Nga. Người ta nói rằng, phải có đến 1000 người đẹp đi qua cuộc đời thi sĩ này. Có ai tin điều đó không? Riêng tôi thì tôi tin, bởi thơ tình Esenin vô cùng chân thành và quyến rũ, còn ảnh chân dung ngậm tẩu thuốc của anh ta thì đã trở thành một món hàng đắt giá không chỉ cho phụ nữ yêu thơ của nhiều thế hệ. Nhưng ai lại đi “thống kê” những người đẹp đi qua đời mình? Để làm gì nhỉ? Để tự kiểm hay để khoe khoang? Làm thế e có xúc phạm đến phái đẹp hay không?

LMY: Tôi nghĩ cũng không nghiêm trọng đến như ông nghĩ đâu. Nhưng câu hỏi này chắc là ông không phải trả lời khôn khéo đến thế đâu: Mối tình dài nhất và ngắn nhất trong cuộc đời ông káo dài bao lâu?

NTT: Mối tình ngắn nhất của tôi vừa đúng 3 ngày từ khi “tỏ tình” với nhau. Một tình yêu song phương hẳn hoi. Nhưng khi biết gia đình tôi thành phần địa chủ (dù đã được sửa sai thì vẫn mang tiếng địa chủ), cô gái đã từ chối ngay tình yêu của tôi. Mối tình dài nhất chính là mối tình đầu. Cô gái hoa khôi của trường cấp 3 ngày ấy giờ tóc đã điểm bạc, nhưng trong mắt tôi, cô ấy vẫn cứ xinh đẹp như thuở nào. Đến nay cô ấy vẫn sống độc thân, và thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gọi điện cho nhau. Mấy năm trước tôi có làm một bài thơ tặng cho cô ấy, đăng báo hẳn hoi. Tên bài thơ là Gửi H.:
Bây giờ ngày ấy mai sau
em mười bảy tuổi và câu thơ buồn
giọt mưa rơi xuống cội nguồn
bởi chưng mái giột mưa còn ướt anh

một ngày héo một ngày xanh
một đời nhớ một đời thành lãng quên
mấy chàng yêu cũ điên điên
chuyền nhau điện thoại gọi em đường dài

yêu nhiều sao chẳng kết ai
trớ trêu đời thực sắc tài kỵ nhau
bây giờ ngày ấy mai sau
người không còn tuổi và câu thơ thiền...
LMY: Vậy là khi yêu, ông đều làm thơ tặng người ta?

NTT: Nếu làm được điều đó thì thật tuyệt vời. Làm được một bài thơ hay cho người yêu càng tuyệt vời hơn nữa. Nhưng rất nhiều khi, tôi đã không làm được điều đó. Đấy là một món nợ to lớn trong đời một nhà thơ.

LMY: Phụ nữ thông minh có nằm trong “typ” mà ông yêu không? Người xưa thường quan niệm phụ nữ đẹp đi kèm với kém thông minh, phụ nữ thông minh thì không xinh đep. Nhung ngày nay quan niệm đó có lẽ đã khác đi nhiều. Một người phụ nữ hiện đại, nếu xinh đẹp, phải biết chứng tỏ sắc đẹp của mình (không chỉ ở bề mặt), điều đó đòi hỏi cô ta cũng phải rất thông minh? Giữa một người phụ nữ thông minh và một người phụ nữ đẹp, ông chọn ai?

NNT: Tôi chọn cả hai. Nhà thơ Xuân Quỳnh vừa đẹp vừa thông minh, đã có một quan niệm độc đáo: Sắc đẹp của phụ nữ chính là tài năng của họ. Đấy là một cách nói cực đoan hóm hỉnh. Và tôi nghĩ, thông minh cũng là một vẻ đẹp của nữ giới. Cả hai thứ đẹp và thông minh đều là “của Trời cho”.

LMY: Theo ông, giữa vợ và người yêu, có những điểm gì khác nhau? “Vợ đẹp là vợ người ta”, nhưng những người phụ nữ trong cuộc đời ông đều rất mặn mà, vậy khi sống với họ, ông có mệt mỏi vì phải ghen tuông?

NTT: Người yêu là người yêu. Vợ là người yêu mà ta đã cưới. Hay vợ là người không yêu mà ta đã cưới? Hay vợ là người không yêu mà ta đã cưới rồi mới yêu? Tôi có một câu thơ trong bài Tự hoạ nói về điều chị hỏi: “Vẽ tôi thấy Đẹp là mê/ Thấy ghen là sợ thấy quê là nhà”.

LMY: Có lẽ, phụ nữ phải ghen tuông và đau khổ vì ông không ít thì đúng hơn? Nhưng đã có người phụ nữ nào khiến ông đau lòng nhất?

NTT: Hơn một người. Trong tình yêu, không gì đau lòng hơn là khi anh vỡ mộng về họ. Thú nhận là nhiều khi tôi đã quá hy vọng về người mình yêu. Và vì thế mới sinh ra vỡ mộng.

LMY: Nếu phải nói một câu rất ngắn gọn về phụ nữ, ông sẽ nói gì?

NTT: Hãy yêu và kính trọng họ.

LMY: Là một người nổi tiếng, và những người nổi tiếng trong giới văn nghệ sĩ Việt Nam thì thường bị gán cho là “hay lăng nhăng”. Cá nhân ông có ngoại lệ?

NTT: Nếu nói “lăng nhăng” thì giới nào chẳng “lăng nhăng”. Nhưng cái giới nghệ sĩ thường nổi máu bốc đồng hơn cả. Vui nhanh buồn lâu là đặc tính của họ. Và người đời cũng thường quá tò mò về tài năng và đời tư của nghệ sĩ, nên lắm chuyện thêu dệt cũng trở thành giai thoai. Tôi cũng không ngoài “tầm ngắm” của đàm tiếu thường nhật. Nhưng tôi biết là trong quan hệ tình cảm hay đúng hơn là trong tình yêu, tôi luôn sống thật với chính mình. Tôi không nghĩ yêu chân thật là “lăng nhăng”, dù anh ta có yêu tới 1000 phụ nữ. Một người đàn ông có thể qua một nghìn phụ nữ, nhưng làm sao họ có đủ năng lượng yêu để yêu 1000 phụ nữ?

LMY: Ông có dễ xiêu lòng bởi những cô gái chân dài? Người phụ nữ như thế nào thì dễ quyến rũ ông và khiến ông thèm muốn người ta nhất?

NTT: Tôi có một nhược điểm là không thích phụ nữ cao hơn mình. Vậy nên đối với các nữ vận động viên bóng chuyền xinh đẹp hay hoa hậu số đo thời hiện đại chú trọng chiều cao là là tôi “ngán” lắm. Tôi tự an ủi mình rằng, nếu họ có yêu mình, chắc họ cũng chỉ yêu xa xa mà thôi. Còn người phụ nữ khiến tôi bị quyến rũ hay thèm muốn lại chính là người phụ nữ có vẻ đẹp thánh thiện.

LMY: Khi sex với một người phụ nữ, ông sử dụng bản năng hay kinh nghiệm?

NTT: Hình như tôi chưa bao giờ chú ý đến điều chị hỏi. Câu trả lời ở đây phải bấu víu vào ký ức. Ký ức tôi mách bảo rằng, có cả bản năng và kinh nghiệm. Vâng, kinh nghiệm làm phong phú phấn hứng của con người. Nhưng về việc này, tôi cứ thích một câu thơ của bạn tôi: “Những câu thơ suốt đời lóng ngóng”. Có lẽ lóng ngóng mới chính là trạng thái thật sự của tình yêu. Chị có tin điều đó không?

LMY: Có lẽ ông nói đúng. Còn một câu hỏi thêm cho ông đây: Lúc đó (sex), vai trò nhà thơ có ý nghĩa gì không?

NTT: Chỉ có nhà thơ dở hơi mới đọc thơ hay làm thơ vào lúc đó… Nhưng tự thân hai chữ nhà thơ đã mang theo ý nghĩa văn hoá của nó. Cái cảm giác chung sống với một người nghệ sĩ hay một người quê mùa có khác nhau chứ. Nếu ai không hiểu được ý nghĩa ấy khi chung sống (hay chung đụng), kể cũng là thiệt thòi lắm. Trường hợp nhiều phụ nữ thèm muốn Esenin cũng là điều dễ hiểu, bởi anh ta không chỉ là một anh chàng đẹp trai đầy sức sống, mà anh ta còn là một nhà thơ vô cùng diệu vợi.


Lê Mỹ Ý

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thơ trên blog đang làm xao động người đọc

1. Net mùa thu là tập thơ có ‎‎ý tưởng lạ: kết hợp bài thơ đăng trên mạng và các comment. Điều này có thể thu hút bạn đọc. Song ngoài điều đó, có phải điểm chính là những bài thơ lạ, mới và hay?

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Trước hết tôi khẳng định đây là tập thơ NET đầu tiên xuất bản tại Việt Nam được chọn trên cơ sở “bầu chọn trực tiếp” của bạn đọc bằng comment (cảm nhận, góp ý) của người đọc văn học mạng (Internet) và quan điểm của Ban Tuyển Chọn (Nguyễn Trọng Tạo - Hà Linh - Phan Chí Thắng). Có bài thơ hiện hàng trăm cảm nhận của bạn đọc và cũng có bài thơ không nhiều comment. Tuy vậy, hầu hết những bài thơ được chọn trong Net mùa thu đã gây được sự chú ý của “dư luận” bạn đọc văn học mạng. Một tập thơ phong phú về đề tài, đa dạng về phong cách và đặc biệt có nét táo bạo về cách tân cả nội dung và hình thức, thậm chí có bài mà báo giấy “sợ” không dám đăng.

2. Khi tham gia tuyển chọn, điều gì làm cho anh thấy hứng thú ở tập thơ này? Anh đánh giá Net mùa thu ở mức độ nào: một tập thơ kỷ niệm hay một tập thơ đáng đọc...?

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Có lẽ hứng thú nhất là hình thức in bài thơ kèm những comment. Tôi nghĩ tới bạn đọc rộng rãi khi đọc xong bài thơ rồi đọc “ý kiến nóng” của người khác về bài thơ đó, họ sẽ có sự so sánh với cảm nhận của chính họ, và điều thú vị sẽ xảy ra là người đọc sẽ “động não” và có “ý thức phê bình” hơn khi đọc thơ. Điều đó làm cho thơ gần gũi và đi sâu vào bạn đọc hơn. Vì vậy, nó vượt qua quan niệm in thơ hiếu hỷ, và tất nhiên tôi tin nó có sức hấp dẫn bạn đọc.

3. “Nhà nhà làm thơ, người người làm thơ”- gần như ai cũng biết. Thế nhưng chúng ta thấy Nhà thơ thực sự có câu thơ in vào trí nhớ bạn đọc lại không phải nhiều. Và các tập thơ hàng ngày, hàng tháng xuất hiện nhưng số lượng chỉ 500-1000 cuốn. Lâu rồi chưa có 1 tập thơ, bài thơ ấn tượng truyền tai nhau, chưa có một nhà thơ trẻ nào được tôn vinh như thời các anh. Cái này theo anh do bối cảnh văn chương hay do chính tác giả, tác phẩm?

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Tôi từng tin “thơ ta vẫn hay”, và hiện nay tôi vẫn tin như thế. Nhưng kinh tế thị trường xáo động đã chi phối xã hội thưởng thức thơ. Nếu nhà thơ trước những năm 1990 được sủng ái hâm mộ vào bậc nhất trong công chúng yêu thơ, thì bây giờ được thay thế bằng minh tinh màn bạc, bóng đá hay hoa hậu. Tôi đọc thơ trên mạng, đặc biệt trên các blog thỉnh thoảng ngạc nhiên về những giọng thơ lạ, những bài thơ lạ và hay mà không thấy xuất hiện trên báo giấy. Có những “tài thơ” như thế đấy, họ chỉ đi tìm tri âm trên mạng.

4. Tình trạng nhà thơ trẻ gần như được nhắc đến hay bị dư luận tranh cãi bởi các xu hướng mới, nhưng cũng mới chỉ được nhớ đến tên hoặc vài câu thơ. Một phần vì chỉ có một số người quan tâm, một phần chỉ được nhắc trên báo, thiếu những bài phê bình thực sự thấu đáo. Phê bình nhờ nhờ, thiếu trình độ hay thiếu bản lĩnh. Phải chăng có một l‎ý giải khác: chúng ta thiếu nhà phê bình như Hoài Thanh, Hoài Chân để có thể mang tới những chọn lựa và cái nhìn sắc sảo hơn với thơ?

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Chỉ những nhà phê bình thực sự đam mê thơ mới có thể phê bình thơ hay. Lòng đam mê cho họ sự gần gũi, hiểu biết về thơ, và đặc biệt là chân thành với thơ. Nhiều comment trên các blog như những bài bình thơ thực sự, những bài “bình nóng” và trực tiếp thường bộc lộ rất rõ chính kiến, cảm xúc của “nhà-phê-bình-bạn-đọc”. Nếu Hoài Thanh còn sống để đọc thơ trên blog, chắc ông cũng sẽ là “nhà phê bình nóng” mà nhà thơ nào cũng sẽ vinh dự khi được ông gõ comment vào bài thơ của họ. Về phê bình thơ hiện nay, tôi lo lắng nhưng chưa hề thất vọng.

5. Với anh, những bài thơ của anh được bạn đọc nhớ đến và thuộc có xuất hiện chậm so với thời gian sáng tác hay là ngay lập tức được đón nhận?

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Khi bài thơ xuất hiện trên blog, sự phản hồi của bạn đọc rất nhanh: khen, chê, hoặc thờ ơ. Những bài nhiều comment cảm nhận, thậm chí thành bài bình luận ngắn, thường để lại ấn tượng cho người đọc. Thời hoàng kim của công chúng thơ trước đây, những bài thơ hay của tôi được người đọc nhớ rất nhanh. Chỉ loại thơ cách tân quá bạo liệt mới phải chờ thời gian “xếp hạng”.

6. Thơ văn rõ ràng đang đi ngược: rất nhiều tác phẩm đăng trên mạng rồi mới quay trở lại in sách. Anh có cho rằng đây là xu hướng của văn học hiện đại? (Trung Quốc đã khá thành công với mô hình này)

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Nếu nhà văn công bố tác phẩm và giữ bản quyền trên mạng trước khi in báo, in sách thì không thể gọi là ngược. Nó như là giai đoạn thăm dò và điều chỉnh khiếm khuyết của tác phẩm cho đến hoàn hảo. Nhiều tác giả đã sửa lại tác phẩm qua ý kiến sâu sắc, thong minh, bất ngờ của bạn đọc mạng. Ngay trong một thời gian nằm trên mạng, có tác phẩm được sửa chữa nhiều lần khác nhau. Vấn đề công chúng mạng khuyến khích nhà văn rất nhiều trong sáng tạo. Cách biên tập và xuất bản chưa chuẩn của ta cũng góp phần thúc đẩy văn học mạng phát triển. Xu hướng hiện đại là xu hướng tự do cho văn học phát triển.

7. Tiểu thuyết, truyện ngắn để tạo nên những cuốn best seller trong bối cảnh hiện nay đang là điều vô cùng khó khăn. Nhưng khi thơ văn đẩy lên mạng ta cũng có thể thấy có một lượng độc giả khá và các bài thơ đã có sự phản hồi. Theo anh, thơ liệu có sự bứt phá nào đấy, hay chỉ là những tác phẩm in đẹp, kỷ niệm, còn giờ là thời của internet-các bài thơ cũng chỉ được đón nhận từ mạng?

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Thời nay cuốn sách bestseller thường cộng hưởng với quảng cáo, tiếp thị. Tất nhiên nó cũng phải có “nội lực” nhất định. Có chiêu quảng cáo độc hơn là “thuê thu hồi sách rồi phạt vi phạm hành chính dăm triệu thôi”. Ha ha, thế đấy, “của cấm là của quí”, bạn đọc tha hồ tìm sách cấm qua chợ đen. Lợi nhuận trôi vào nhà sách, còn tác giả thì ngoài tiền bạc còn được công chúng phong danh hiệu “hiệp sĩ bị trù dập”. Vấn đề thực chất của văn chương phát triển lại nằm ở chỗ khác, đó là văn tài và văn hay.

8. Thời gian vừa qua cũng có một số nhà thơ, khuynh hướng thơ được coi là lạ lẫm, bạo dạn và gây sock xuất hiện. Tuy họ chưa tạo được một khuynh hướng mới, một tên tuổi thơ đủ sức hấp dẫn và lôi cuốn bạn đọc nhưng họ đã dám thể nghiệm, dám sống với suy nghĩ của mình. Ông nghĩ thế nào về các cây viết trẻ và sự đón nhận của công chúng với thơ mới - thơ hậu hiện đại?

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Không ai muốn làm thơ như cũ, phải làm mới. Nhưng rất nhiều, rất nhiều người kể cả người đã nổi tiếng vẫn lực bất tòng tâm. Ngay cả trẻ cũng vậy, nhưng trẻ bao giờ cũng có lợi thế của họ, lợi thế nhất là họ trẻ nên nhìn thế giới mới mẻ hơn. Thơ hiện đại hay thơ hậu hiện đại chủ yếu là thay đổi hình thức, cách nói. Nó cũng chẳng hơn lục bát hay xon-nê Đường luật... về hình thức. Nhưng nếu nó làm cho công chúng thích thì kho tàng thơ sẽ phong phú và mới mẻ hơn. Tôi tin rồi sự phá cách và phá phách của lớp trẻ sẽ đến lúc trưởng thành hơn.

9. Con đường của các nhà thơ trẻ bây giờ gần giống nhau: ban đầu say mê, miệt mài với thơ, với rất nhiều tuyên ngôn và sự dấn thân. Song dần dần bị giảm nhiệt và làm thơ như một sự trang trí, còn hầu hết chuyển nghề báo, văn, hội hoạ, biên kịch... Con đường thơ văn vì thế mà cũng rời rạc? Đây có phải là cách làm không chuyên nghiệp và ngõ cụt của các nhà thơ?

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Đó là đồ thị phổ biến của các nhà thơ trẻ, một đồ thị lên nhanh xuống nhanh rồi đi ngang. Có lẽ nó nhuốm phải căn bệnh “đi tắt đón đầu” “ăn xổi ở thì” mà cha ông đã chỉ ra. Đó không phải phẩm cách của nhà thơ. Cuộc sống khó khăn cũng xô đẩy họ và ta có thể ngậm ngùi thông cảm và chia tay họ. Nhưng với những tài năng văn chương thật sự thì ta vẫn có quyền hy vọng họ sẽ vẽ một đồ thị khác lạc quan hơn.

10. Nếu được chọn 5 gương mặt thơ trẻ, anh sẽ chọn ai? Liệu đủ đủ để chọn 5 hay đông hơn, có thể chọn được 10?

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Thú thực tôi không thích làm giám khảo để lựa chọn nhà thơ. Đối với người trẻ, tôi thích cá tính và dấu hiệu bí ẩn của tài năng. Những tên tuổi thơ trẻ giao thời giữa hai thế kỷ tôi đã nói nhiều đến Văn Cầm Hải, Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly... và họ đã dần tự khẳng định tên tuổi của mình. Giờ thấy xuất hiện Trang Thanh, Dương Anh Xuân, Trương Quế Chi, Nguyên Anh hay Nguyễn Thế Hoàng Linh... Hy vọng thì nhiều, nhưng quan trọng phải là sự tự bứt phá của chính họ. Nếu họ tung thơ lên blog riêng chắc sẽ hiểu rõ mình hơn qua bạn đọc, bởi thơ trên blog đang làm xao động và thu hút sự chú ý của công chúng thơ hiện nay.


9.2008
Hằng Nga thực hiện

Blog Nguyễn Trọng Tạo
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Lý do để hy vọng

Ngày 28 tháng 7 năm 2007, tại Vancouver, đã diễn ra cuộc ra mắt sách lý thú và ít gặp của hai người viết, một trong nước và một ở hải ngoại. Nhà văn Nam Dao từ Quebec với bộ tiểu thuyết lịch sử Bể dâu, gồm hai tập. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo từ Việt Nam với tập Thế giới không còn trăng. Chương trình được tổ chức bởi tạp chí Người Việt hải ngoại (Nhóm Chủ Trương: Vân Hải, Việt Phong, Hà Chính Bình, Trịnh Độ, Đỗ Quyên). Rất đông bạn đọc đã đến dự, đóng góp ý kiến, nhiều người đọc tham luận hội thảo. Sau đây là bài của Nguyễn Đức Tùng.

Thật khó để cùng một lúc nói về hai người khác nhau, nhất là khi một người là nhà viết tiểu thuyết và một người là nhà thơ. Điều may mắn của tôi là ở chỗ nhà văn Nam Dao cũng là người làm thơ và nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cũng không xa lạ gì với văn xuôi. Hôm nay tôi muốn kể với các bạn và hai tác giả, hai vị khách của chúng ta từ xa đến, về những kinh nghiệm của tôi như một người đọc.

Lúc còn nhỏ và khoảng chín mười tuổi, tôi đã bắt đầu tập đọc sách. Thật khó nhớ lại xem cuốn tiểu thuyết đầu tiên hay tập thơ mà ta đọc lúc ấu thơ là cuốn sách nào. Vậy tôi xin gọi đó là những cuốn sách đầu tiên trong đời sống mỗi người.

Mẹ tôi đọc ca dao và kể chuyện cổ tích cho tôi nghe, nhưng cha tôi thường đi xa và ông để lại cho tôi một tủ sách khá lớn. Tuy nhiên, tôi còn nhớ rằng niềm say mê với văn học chỉ bắt đầu trong một buổi trưa hè trong căn nhà của bà ngoại tôi, trên một vựa lúa lớn, nơi tôi tìm thấy cuốn sách đầu tiên của đời mình. Tôi còn nhớ đó là cuốn sách rất cũ, ố vàng của ai để lại nhiều năm, một tập tiểu thuyết đường rừng hình như của Lan Khai. Mặc dù cha tôi là một người đọc sách, ông ít khi ở nhà, vì vậy thuở vào đời, tôi thật sự không có ai hướng dẫn. Vả lại thời đó nước ta còn nghèo và chiến tranh, lượng sách trên thị trường ít, nên người đọc không có nhiều chọn lựa. Tôi đọc tất cả những sách nào cầm được trong tay hay có thể năn nỉ mượn được.

Trước khi các chính phủ ban hành luật kiểm duyệt thì các bậc cha mẹ đã thực thi chúng rồi. Những cuốn sách bị cha tôi cấm đọc hồi ấy, thường là các sách kiếm hiệp và trinh thám. Tôi thường phải chui vào gầm bàn thờ, phía sau bức mành tre để đọc. Chị tôi còn táo bạo hơn, và tôi nhớ có lần chị ấy mê một cuốn võ hiệp Kim Dung, đã chui vào trong chăn và mở đèn pin lên để đọc, trong khi ngoài trời mưa lớn. Cái thú đó bỗng cắt ngang vì bị cha tôi bắt gặp.

Những kinh nghiệm đọc như thế của tuổi thơ, ngày nay kể lại chỉ là những kỉ niệm đáng yêu. Tuy nhiên, việc đọc sách, đối với nhiều người có thể là một công việc gian nan, thậm chí nguy hiểm. Lịch sử của nhân loại và Việt Nam đã để lại biết bao câu chuyện đau thương về việc những người đọc sách, hay cất giữ sách báo bị cấm đoán, hay phát tán các sách báo này, đã bị hành hạ, ngược đãi, thậm chí tù tội ra sao. Ngày nay việc người đọc trong nước đọc sách báo hải ngoại và người đọc hải ngoại đọc sách báo trong nước, cũng không dễ dàng như ta tưởng. Ngày nay ở Việt Nam hay ở hải ngoại, viết là một hành động can đảm. Ngày nay, đọc cũng là một hành động can đảm. Con đường đi từ tác giả đến người đọc là con đường chông gai vạn dặm. Đáng ngạc nhiên thay, cùng một lúc, nó lại ngắn vô cùng, như con đường đi từ tâm hồn đến tâm hồn. Nhà văn Canada David Bergen, một người bạn mới quen của tôi kể cho tôi nghe là trong khi đi Việt Nam để tìm tác giả Bảo Ninh của cuốn Nỗi buồn chiến tranh (Sorrow Of War) mà ông yêu thích, mặc dù không gặp, đã thai nghén tác phẩm The Time in Between, được Nguyễn Tuệ Đan dịch ra tiếng Việt là Ở Lưng Chừng Thời Gian, khá nổi tiếng. Mặc dù theo tôi cả hai cuốn sách nói trên đều chưa phải là những tác phẩm cực kỳ xuất sắc, mối tình tri âm của một người đọc và một nhà văn như thế trong thời hiện đại là điều đáng suy nghĩ.

Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu có người nói với chúng ta rằng: tiểu thuyết của Nam Dao và thơ của Nguyễn Trọng Tạo là các loại sách báo tuyên truyền của nhà nước Việt Nam. Tôi cũng không ngạc nhiên nếu có người khác lại khuyên chúng ta rằng: các tác phẩm của các anh là chống phá nhà nước, chống phá Việt Nam.

Những điều như thế không có ích gì cho văn học và thực sự là không dân chủ. Người đọc hãy lắng nghe tác giả của chúng ta nói về chính mình.

Người ước mình trẻ lại người ước mình già đi
Người ước mình.vĩ đại người ước mình li ti
Ta không trẻ không già
Không li ti không vĩ đại
Ta trung bình nhưng ta không giả dối
(Tội đồ của thời gian)
Nguyễn Trọng Tạo là người có khả năng chỉ ra tính chất đặc trưng của xã hội mà người Việt đang sống với những câu thơ hồn nhiên. Chính vì hồn nhiên nên thơ anh không trở thành phương tiện chuyển tải của các ý tưởng. Những ý định chuyển tải nội dung như thế thật ra là chống lại thơ ca, hạ thấp chúng.
Tôi hỏi Công chúa: Thạch Sanh đi đâu
Công chúa lầu bầu trả lời: không biết

Tôi hỏi Nguyệt Nga: Vân Tiên đi đâu
Nguyệt Nga âu sầu: hình như đã chết

Tôi hỏi cave. Cave cười ngất
Chợt nhận ra mình giữa quán Lý Thông
(Trong quán Lý Thông)
Như thế là Nguyễn Trọng Tạo đã xông thẳng vào quán Lý Thông, tức là cái hang ổ của lịch sử, của bi kịch lịch sử. Ở trong cái quán ấy, nếu tôi được phép nói một cách hình ảnh, anh cũng sẽ gặp Nam Dao từ một cánh cửa khác tiến lại, trên tay cầm bộ tiểu thuyết Bể dâu hai tập, gần một ngàn trang, vừa viết xong.

Nếu thơ là dòng suối thì tiểu thuyết là dòng sông, nếu thơ là dòng sông thì tiểu thuyết là biển cả. Nếu thơ là lời tâm tình của chính tác giả, thì tiểu thuyết là sự mô tả lịch sử bằng những giọng điệu khác nhau, hay trong lý luận văn học, gọi là bằng nhiều mặt nạ (persona). Nhà viết tiểu thuyết Nam Dao huy động rất nhiều các nhân vật tưởng tượng và có thật trong lịch sử vào một mặt trận lớn. Cuộc hội ngộ này dùng để làm gì?

Nam Dao đã từng viết: “Với tôi, lịch sử không là những xác chết và những sự cố biên niên ù lì. Trong tiểu thuyết lịch sử, quá khứ là lịch sử nhìn bởi nhà văn, nhà văn như chủ thể. Đó là thứ quá khứ tái chiếm hữu và tái tạo từ vị thế của chủ thể, với ý thức về giới hạn của sự truy lùng chân lý “khách quan”, một từ lẽ ra không bao giờ nên có ngoài cái chúng ta quen miệng gọi là khoa học tự nhiên! Để tái chiếm hữu lịch sử, nhà văn phải nhìn ngược thời gian, suy xét phân giải những sự cố, và thậm chí phán xử, cách này hay cách khác, những con người có tên tuổi trong chính sử. Minh oan, buộc tội… tuỳ nặng nhẹ, nhà văn bắt họ đội mồ đứng dậy.”

Với tôi, khi đọc tiểu thuyết, câu hỏi thường đặt ra cho mình là “Những sự việc nào đã xảy ra và sẽ xảy ra?” (What?). Bất cứ người đọc nào cũng thích thú theo dõi diễn tiến của câu chuyện kể, và khoan khoái trước sự hồi hộp (suspense). Tính chất giả sử và hư cấu là đặc điểm hàng đầu của tiểu thuyết, tuy nhiên trong Bể dâu, tình chất này, hình như lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, bị thách thức một cách có hệ thống khi tác giả đưa vào những nhân vật lịch sử có thật, với nhiều chi tiết mà ta có thể tin là chính xác hay gần như vậy.

Câu hỏi kế tiếp của tôi là: “Sự việc ấy đã xảy ra như thế nào?” (How?). Tiểu thuyết tự nó bao giờ cũng có tính xã hội, nhưng tiểu thuyết lịch sử không những có tính xã hội mà còn chuyên chở trong nó các sự kiện chính trị vang động của một thời đại.

Nhưng đọc tiểu thuyết lịch sử, trong trường hợp này là cuốn Bể dâu của Nam Dao, tôi thường có một câu hỏi thứ ba, đó là: “Tại sao nó lại xảy ra như thế?” (Why?). Thật ra các nhân vật của tiểu thuyết thường có các cấu trúc và diễn tiến tâm lý phức tạp, hơn là đơn giản. Nếu một nhân vật thuần tuý là xấu (phản diện), hay thuần tuý là tốt (chính diện), thì nhân vật ấy thường là tiêu biểu cho một ý tưởng, hay cùng lắm là những nhân vật phụ, mà không thể trở thành nhân vật chính của tiểu thuyết. Sức mạnh của tiểu thuyết Nam Dao là ở chỗ hầu hết các nhân vật quan trọng của ông đều trải qua những biến đổi tâm lý phức tạp và vì vậy mà rất gần với cuộc đời. Một người kể chuyện thành công thường gây cho người đọc cảm giác muốn đi tìm câu trả lời cho mọi thứ. Nhưng ít khi họ tìm thấy câu trả lời như thế trong các cuốn tiểu thuyết. Theo tôi, Bể dâu thành công nhất ở điều này: cả người đọc lẫn tác giả có vẻ như cùng một lúc đi tìm câu trả lời cho những nhân vật của họ, và cứ mãi mãi theo đuổi như thế. Nhưng một cuốn tiểu thuyết hay không phải là một cuốn từ điển chứa những câu trả lời.

Thế mà người đọc vẫn không thể không tự hỏi: tại sao dân tộc mình lại có một lịch sử rắc rối khốn khổ và con người Việt Nam lại có một lịch sử khiếp nhược đến thế? Tức là, nói như Nguyễn Trọng Tạo: tại sao Lý Thông lại nhiều như thế?

Như vậy, theo tôi, trong khi thưởng thức nghệ thuật kể chuyện của Nam Dao, vốn là hành động chính của người đọc văn học, chúng ta cũng cùng lúc đi tìm câu hỏi: giải thích lịch sử như thế nào?

Cách giải thích của Nam Dao có khác với cách giải thích của tôi. Điều đó tất nhiên là bình thường. Nhưng con người có tìm cách giải thích lịch sử của dân tộc mình thì mới đủ khả năng để tin rằng:
Tôi ngửng lên. Cao vót, một cánh chim trắng liệng tròn. Cái có thể hiểu rất giới hạn. Nhưng tôi hiểu chim sinh ra để bay. Tôi hiểu, tư duy với chúng ta hệt như chim vẫy cánh. Và làm thơ, những nhà thơ mong phục hồi cái chức năng ấy cho chính mình và cho tất cả mọi người.
(Nam Dao, đoạn kết của tiểu thuyết Bể dâu, trang cuối, 981)
Thú vị vô cùng là ở đoạn cuối cuốn tiểu thuyết, Nam Dao lại nhắc đến thơ và nhà thơ. Tôi không biết anh có ý định như thế từ đầu hay đây là cái kết thúc tự nhiên của toàn bộ câu chuyện... qua nhân vật Phan Thượng Dân.

Nhắc đến thơ là nhắc đến cái tình. Trong vài ngày nữa, Nam Dao và Nguyễn Trọng Tạo tạm biệt chúng ta. Trên chuyến bay rời Vancouver về nhà, các anh chắc sẽ thầm đọc:
Mây như sóng như bông như núi trắng mịt mùng
Mây như biển duềnh lên tóc trắng
Không còn sông Visla tiếng khóc cười xa vắng
Bó hoa hồng người tặng chẳng còn tươi
(Trên chuyến bay giã biệt)
Hoa thì không, nhưng tình vẫn còn tươi.

Riêng đối với chúng ta, những người đọc văn học Việt Nam, chúng ta vẫn còn hy vọng. Không những giá trị văn học của tập thơ Thế giới không còn trăng, lãng mạn và nhân đạo, nhưng hoàn toàn thoát ra khỏi khuynh hướng cổ điển, và của tập tiểu thuyết Bể dâu, trải rộng mà vẫn đi vào được từng số phận cá nhân, mà còn bản thân sự hiện diện của hai nhà văn khác nhau, một từ Quebec, một từ Việt Nam, trong buổi tối hôm nay giữa đông đảo người đọc của thành phố Vancouver thân ái và nồng nhiệt, như tôi chứng kiến, là những lý do của niềm hy vọng rằng văn học chúng ta trong thời gian tới sẽ lớn lên hơn nữa, đủ sức xuyên qua các biên giới của không gian và của lịch sử, tìm đến với người đọc, vốn lúc nào cũng rộng lượng và kiên nhẫn đối với các nhà văn.


Nguyễn Đức Tùng
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Trọng Tạo: Hiện sinh pha nỗi hoài nhớ yên lành

(VietNamNet) - Với Nguyễn Trọng Tạo, phong vị trữ tình chưa đến mức lẳng lơ nên rất may nó cũng chưa đánh thức được bản năng gốc đáng sợ nhưng nó khơi dậy trong ta niềm sung sướng pha lẫn nỗi hoài nhớ về những kỷ niệm êm đềm đẹp đẽ và sâu lắng.

Nói đến Nguyễn Trọng Tạo là người ta nhớ ngay đến một nhà thơ, một nhà báo, một kẻ lãng du không bến đỗ nhưng ít ai nhớ đến một Nguyễn Trọng Tạo với những ca khúc khá trong sáng.

Cũng như đa số các nhạc sĩ cùng thời, Nguyễn Trọng Tạo sáng tác bằng cảm hứng bản năng, bằng nguồn sữa dân ca không bao giờ cạn. Người ta nhớ đến một Làng quan họ thấm đẫm chất trữ tình với chiếc nón quai thao, cơn gió, bờ tre, vầng trăng, câu hát gọi bạn vv... rất khác với làng quan họ của nhạc sĩ Phó Đức Phương.

Cảm xúc về quê hương, về ngôi làng ám ảnh Nguyễn Trọng Tạo đến mức anh sáng tác một loạt những ca khúc như: Cảm xúc biển quê, Chèo thuyền trên sông Bùng, Đôi mắt đò ngang, Làng tôi bên dòng Ô Lâu, Khúc hát sông quê vv...Có lẽ anh là nhà thơ yêu thích kinh Thi, thơ Đường nên phần ca từ rất được anh chú trọng, được anh trau chuốt tỉ mỉ như nét vẽ trên tranh thuỷ mặc.

Sự khác biệt thể hiện ở chỗ cùng là làng tôi nhưng với Nguyễn Trọng Tạo phải là một cái làng cụ thể, gắn bó máu thịt với hồi ức tuổi thơ như ngôi làng quan họ có con sông Cầu âu yếm ôm “ngang lưng làng quan họ xanh xanh...” Với Nguyễn Trọng Tạo, phong vị trữ tình chưa đến mức lẳng lơ nên rất may nó cũng chưa đánh thức được bản năng gốc đáng sợ nhưng nó khơi dậy trong ta niềm sung sướng pha lẫn nỗi hoài nhớ về những kỷ niệm êm đềm đẹp đẽ và sâu lắng.

Trong CD Tình khúc 4 mùa, chỉ với 12 ca khúc nhưng Nguyễn Trọng Tạo đã cho thấy sự giao hoà giữa yếu tố lãng mạn mang đậm chất dân dã với nỗi buồn chiêm nghiệm cá nhân trước dòng đời vô cùng vô tận.Phận người, phận dế, bài ca của loài dế trong đêm trăng, suy nghiệm của con người trong đêm vắng mới buồn làm sao, đẹp làm sao!

Cảm nhận về nỗi ngang trái trong tình yêu, tình đời về những tai hoạ ẩn giấu ngay dưới mỗi bước chân buồn bã của lữ khách cô đơn khiến anh viết nên những lời như khóc trong ca khúc Vầng mây bất hạnh. Niềm vui và nỗi đau, hạnh phúc và bất hạnh, sáng và tối,... cùng vật lộn trong tâm hồn của mỗi con người mang bản chất nhị nguyên và Nguyễn Trọng Tạo đã nghe được tiếng động từ cuộc giao tranh ấy nên các ca khúc của anh vừa có tính hiện sinh vừa có nỗi khắc khoải hoài nhớ vẻ đẹp yên lành cổ kính.


Quang Hải
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Trọng Tạo người tự sắm vai mình

Nguyễn Trọng Tạo thuộc lớp nhà thơ tiêu biểu thời kỳ chống Mỹ. Nếu phải phát biểu ngắn gọn về thơ của lớp nhà thơ này thì thơ Hữu Thỉnh là thơ lấp lánh. Thơ Phạm Tiến Duật là thơ thông minh. Thơ Nguyễn Đức Mậu là thơ thơ đậm đà. Thơ Nguyễn Duy là thơ thuần Việt. Thơ Bằng Việt là thơ trí tuệ. Thơ Vũ Quần Phương là thơ sang trọng. Thơ Nguyễn Trọng Tạo là thơ tài hoa. Thơ tài hoa là thứ thơ khiến người ta có cảm tưởng như đó không phải là kết quả logic của tư duy mà là sự thăng hoa của ngôn từ.

Đã và sẽ còn có nhiều công trình nghiên cứu nghiêm túc về họ. Tôi chỉ “Kính nhi, viễn chi”, cứ bạo miệng nhận xét vắn tắt thế. Đúng hay là sai, ý kiến của tôi cũng không mấy quan trọng.

Tôi gặp nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo lần đầu tại Hội nghị viết văn trẻ toàn quốc lần thứ III (tháng 12-1985). Đấy là đêm đi xem ca nhạc do nhà hát ca-múa-nhạc Việt Nam biểu diễn phục vụ hội nghị tại Cung Văn hoá lao động, Hà Nội. Khi nhà văn Chu Lai giới thiệu tôi với nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, anh nói ngay: Lê Huy Mậu phải không? Bài thơ Cầu Tiên in trên Văn nghệ quân đội của Mậu là mình biên tập đấy. Hồi đó, được một nhà thơ nổi tiếng như Nguyễn Trọng Tạo nhớ đến tên, nhớ đến tác phẩm của mình là sướng lắm. Tôi mừng rơn!

Cùng dự Hội nghị viết văn trẻ toàn quốc lần thứ ba với tôi có 156 đại biểu chính thức. Nhiều tác giả trẻ nhưng tên tuổi của họ đã lẫy lừng khắp trong Nam, ngoài Bắc như Nguyễn Quang lập, Nguyễn Đức Thọ, Y Phương, Hồ Anh Thái, Đinh Thị Thu Vân, Nguyễn Trọng Tín… Tôi lọt thỏm vào cái hội nghị “toàn sao” ấy nên không dễ gì gặp được Nguyễn Trọng Tạo lần nữa.

Sau lần đó, tôi có gặp Nguyễn Trọng Tạo một hai lần ở Huế. Chính xác là hai lần. Một lần là khi tôi tham gia đoàn cán bộ văn hoá Đặc Khu Vũng Tàu-Côn Đảo ra Huế thẩm định mấy vở cải lương mới dựng của đoàn cải lương Trùng Dương, và một lần là cùng đoàn cán bộ Tuyên giáo đi tham quan các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên.

Nguyễn Trọng Tạo là người dễ gần. Anh không cố tạo khoảng cách để phân biệt đẳng cấp với người đi sau, với người ngưỡng mộ mình. Tôi nguyên là một Chánh văn phòng. Có thâm niên trong việc tiếp các loại khách. Ngoài khả năng tổng hợp, viết văn bản, tôi còn có khả năng tự biết mình phải ngồi vào vị trí nào trong bàn tiệc. Không ai dạy cả. Không ai bắt mình phải ngồi chỗ này, hay chỗ khác trong bàn tiệc. Nhưng nếu mình láu táu ngồi sai vị trí là có người khó chịu ngay. Là nhà văn, nhưng không phải nhà văn nào cũng dễ tiếp xúc, dễ gần. Tôi nhớ mãi, lần tôi dự hội nghị Văn hoá - Văn nghệ toàn quốc tại Cửu Long. Nhà thơ Hữu Thỉnh có tổ chức một buổi tham quan, tiếp xúc với Hội Văn nghệ Cửu Long. Đoàn chỉ có mấy người, trong đó có nhà thơ T.Th. Tôi cũng lịch sự bắt tay nhà thơ, rồi đi gần cạnh nhà thơ, nghe nhà thơ chuyện trò với nhà thơ Hữu Thỉnh suốt cả buổi. Nhưng tuyệt, ông không hề hỏi tôi công tác ở tỉnh nào, có viết văn hay làm thơ gì không? Nhà thơ Hữu Thỉnh, có lẽ là do thương tình tôi, thỉnh thoảng ông có quay sang nói với tôi một câu gì đó cho đỡ tẻ. Tôi không có cách nào “đi chỗ khác chơi”, đành phải làm chú cún con, lẽo đẽo theo chân hai nhà thơ lớn.

Với Nguyễn Trọng Tạo thì khác. Nguyễn Trọng Tạo nâng niu tất cả. Anh từng viết lời tựa, lời bạt cho các tập thơ trẻ, viết lời giới thiệu in báo cho nhiều tác giả mới có sách đầu tay. Bằng tất cả sự trân trọng cần thiết, mà không phân biệt người ấy đã nổi tiếng hay chưa nổi tiếng. Nguyễn Trọng Tạo khen chê rất chân thành, nhiều khi chân thành đến cực đoan. Người thiếu bản lĩnh, hay người luôn “quan trọng hoá” đẳng cấp của mình thường không dám mạnh dạn thế. Tôi biết, có nhiều nhà thơ đã thành danh hiện nay, nhưng những bước chập chững vào nghề luôn nhận được sự khích lệ, sự quan tâm đúng mực của Nguyễn Trọng Tạo. Không phải chỉ có tấm lòng, Nguyễn Trọng Tạo còn là “nhà” phát hiện tài năng văn học có đẳng cấp trong cả nước. Anh nhanh nhạy, sâu sắc, có khả năng “đọc” được cái tiềm năng văn học dù chỉ mới đọc qua họ một bài, một chùm bài sáng tác đầu tay của họ. Chính nhà thơ Ngô Minh cũng rất khâm phục tài “đọc” tiềm năng văn học của Nguyễn Trọng Tạo.

Sau này, được quen biết, được uống rượu nhiều lần với Nguyễn Trọng Tạo, tôi thấy, anh luôn luôn quên mình là Nguyễn Trọng Tạo. Vui đến giọt rượu cuối cùng. Nhớ hôm liên hoan bế mạc trại sáng tác âm nhạc của Hội nhạc sĩ Việt Nam tại Vũng Tàu, Giám đốc nhà sáng tác Đỗ Mão cắn vào áo Nguyễn Trọng Tạo làm rách toạc cái áo anh đang mặc. Đỗ Mão cởi ngay cái áo của mình đưa cho Nguyễn Trọng Tạo và nói: Đây! Ông mặc cái áo này, đưa cái áo tôi cắn rách đây, cho tôi làm kỷ niệm. Kiến trúc sư Trần Tam Thiên - bạn Đỗ Mão thấy thế, bèn cởi ngay quần dài của mình ra để đổi quần với Nguyễn Trọng Tạo. Tôi thấy, cuộc đùa vui đã có phần hơi “quá trớn”, đã đến lúc phải dừng lại. Tôi sợ Nguyễn Trọng Tạo khó chịu, sợ anh nổi nóng lên thì có mà mất vui. Nào ngờ, anh cũng vui vẻ cởi quần dài ra trao đổi với Trần Tam Thiên ngay tại chỗ. Độ dài của hai vị khá là bằng nhau, nhưng vòng bụng của Trần Tam Thiên phải thua Nguyễn Trọng Tạo vài số. Một anh thì không cài khuy bụng được, còn một anh phải thắt túm quần lại.

Nguyễn Trọng Tạo là người đa tài. Điều đó nhiều người biết. Nhưng tôi còn nể anh ở sức làm việc, năng lực làm việc. Nhớ lần tôi theo chân Nguyễn Trọng Tạo đến nhậu ở nhà hoạ sĩ Văn Sáng. Dọc đường, có điện thoại của báo Gia đình trẻ em hẹn đầu giờ chiều xin anh bài viết về Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VII vừa bế mạc. Nhậu riết, hết chai nọ đến chai kia, đến chiều, tôi sực nhớ ra anh còn nợ bài viết như đã hứa và nhắc anh. Nguyễn Trọng Tạo uống nốt ly rượu dở rồi mới ngồi vào bàn viết – khi anh cầm bài viết, chừng hai trang đánh máy A4 ra, nhậu tiếp, tôi phục lắm. Lại một lần khác, tại nhà khách Dầu khí cạnh nhà tôi, lúc nhậu về, cũng đã khá khuya. Tôi nằm lăn ra giường. Còn Nguyễn Trọng Tạo lôi máy laptốp ra gõ cạch cạch. Tôi thiếp đi lúc nào không biết. Khi tôi tỉnh dậy, thấy Nguyễn Trọng Tạo gục đầu lên màn hình máy laptốp ngủ ngon lành. Tiếng ngáy nghe êm đều như tiếng xe máy chạy rôđa. Tính thức anh dậy lên giường ngủ nhưng thấy anh đang ngủ ngon lành quá, đành thôi. Gần sáng, thức dậy, tôi lại đã nghe tiếng gõ máy laptốp lạch cạch rồi. Anh vừa làm xong cái trả lời phỏng vấn cho một tờ báo nào đó - để ngày hôm sau đã có thể “ngồi” với bạn bè cả buổi được!

Mỗi nhà văn có một phong cách lao động sáng tạo riêng. Các nhà văn lớn, theo chỗ tôi biết, thường có chút gì đó hơi đồng bóng, khác thường. Trời phú cho họ một trí nhớ tuyệt vời, một trí tưởng tượng tuyệt vời. Quá trình sáng tạo là quá trình nhập đồng, là sự thăng hoa của trí tưởng tượng. Tôi không định so sánh Nguyễn Trọng Tạo với những tài năng lớn, tôi chỉ muốn nói về phong cách lao động sáng tạo của Nguyễn Trọng Tạo có gì đó cũng nhập đồng, cũng thăng hoa khác thường. Anh làm việc trong một trạng thái không chuẩn bị sẵn, không theo một kế hoạch trước (hay chí ít anh cũng gây cho tôi cảm giác như vậy) mà bằng những cảm hứng.

Trường hợp ra đời của bài hát Khúc hát sông quê là một minh chứng cho điều đó. Đêm trước, khi tôi chở Nguyễn Trọng Tạo về Nhà sáng tác, Nguyễn Trọng Tạo đã ở trong trạng thái lâng lâng bia rượu. Tôi bỏ tập bản thảo chừng 5 bài thơ trên bàn làm việc rồi về. Rượu là ngà, phòng mát mẻ anh ngủ một giấc ngon lành. Sáng hôm sau, khi tắm biển về, anh mới cầm mấy bài thơ của tôi đọc thử. Và, theo anh nói, chừng khoảng 30 phút, anh đã “ký âm” xong và anh hát thử bài hát Khúc hát sông quê và gọi điện cho tôi. Như mọi người đều biết, bài hát Khúc hát sông quê nhanh chóng tìm được cảm tình của người hâm mộ. Tôi luôn được anh coi là đồng tác giả, nhưng tôi biết, nhiều lắm, tôi cũng chỉ đóng vai trò gây cảm hứng sáng tạo cho anh. Cái làm nên âm hưởng ngọt ngào, vang vọng của bài hát chính là phút thăng hoa Nguyễn Trọng Tạo. Tôi đã học về học thuyết phản ánh của Lênin. Nhưng, tôi thấy, trong lao động sáng tạo đặc thù, đem học thuyết phản ánh của Lênin để giải thích là hơi bị khiên cưỡng. Cảm hứng sáng tạo là cái gì đó gần với duy tâm hơn. Nó ma thuật, vô thức lắm! Khi đọc cuốn Tích hợp đa văn hoá Đông-Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai của Giáo sư Hoàng Phương, tôi thấy, ông giải thích về cơ chế hoạt động sáng tạo có phần đúng. Hình như ngoài con người Nguyễn Trọng Tạo bằng xương, bằng thịt như mọi người đều biết, còn có một Nguyễn Trọng Tạo, ở ngoài Nguyễn Trọng Tạo nữa. Một cơ thể Ơ-ten-lích trừu tượng nhưng có thực, đứng bên ngoài, đứng đằng sau Nguyễn Trọng Tạo sáng tạo ra các tác phẩm.

Đành thì tài hoa nào, sự thăng hoa nào cũng đều bắt nguồn từ một kiến thức thượng thặng. Mà kiến thức thì không thể bằng cách nào khác có được ngoài sự học, sự đọc, sự tích luỹ, sự cày cuốc chăm bẵm trên từng trang sách. Có chăng, đấy là sự hơn đời trong sự đọc, sự học của họ. Nguyễn Trọng Tạo đã tự học như thế nào, tôi không rõ. Nhưng tôi đã vô cùng ngạc nhiên khi đọc tạp chí Văn Học Nước Ngoài của Hội Nhà Văn, thấy anh có tên trong danh sách các nhà dịch thơ. Tạp chí Văn Học Nước Ngoài còn in một lúc gần ba chục bài thơ dịch của anh. Tôi lại ngạc nhiên hơn, khi đọc cuốn Văn chương cảm và luận hơn ba trăm trang của anh. Ngoài cái khả năng phát hiện như tôi đã kể ở trên, Nguyễn Trọng Tạo còn bộc lộ một sức đọc, sức nhớ và sức vận dụng những tri thức khoa học để lý giải nhiều vấn đề mang tính học thuật của văn học, khiến các nhà lý luận phê bình văn học phải nể phục.

Tôi từng nghe bạn bè, người thân Nguyễn Trọng Tạo kể lại, Nguyễn Trọng Tạo vốn là một học sinh giỏi toán của trường cấp III Diễn Châu. Đại sứ Ngô Quang Xuân cũng xác nhận, hồi cùng học cấp III với nhau, Ngô Quang Xuân cũng giỏi như Nguyễn Trọng Tạo, nhưng thua Nguyễn Trọng Tạo ở cái ngón đàn hát. Vì vậy, có một người đẹp mà cả hai cùng theo đuổi thì cuối cùng Nguyễn Trọng Tạo cuỗm mất. Ngô Quang Xuân cú lắm. Ra nước ngoài, anh mày mò học thêm nhạc và học hát. Ngày tôi và Nguyễn Trọng Tạo gặp Ngô Quang Xuân tại khách sạn Mường Thanh (Hà Nội) Ngô Quang Xuân ôm đàn hát Khúc hát sông quê ngon lành.

Tôi có ông anh con bà cô ruột, nguyên là Trưởng ban Tuyên huấn đoàn 22, nơi mà Nguyễn Trọng Tạo từng làm trưởng đoàn văn công ở đó. Anh tôi, nhiều lần ca ngợi Nguyễn Trọng Tạo với tôi. Khi biết được ông em quen biết Nguyễn Trọng Tạo, lại có bài thơ được Nguyễn Trọng Tạo phổ nhạc hát trên tivi, ông anh tôi tự hào lắm! Ngày tôi và Nguyễn Trọng Tạo đến thăm anh, anh tôi lôi chai rượu Tây ra và tuyên bố: Từ ngày anh bị tai biến mạch máu não đến nay, anh bỏ rượu, nhưng hôm nay anh phải uống với hai chú đến say mới thôi!

Từ Bắc chí Nam, Nguyễn Trọng Tạo có nhiều bè bạn. Không ít người mắc chứng “nghiện” Nguyễn Trọng Tạo. Tôi từng chứng kiến có người, tiễn Nguyễn Trọng Tạo lên tàu cánh ngầm xuống Vũng Tàu đi dự trại sáng tác xong, anh ta lại cử con đi xe máy xuống Vũng Tàu, chờ đó, khi nào bác Tạo cần đi đâu thì chở bác đi! Tôi cũng đã nhiều lần lẳng lặng quan sát Nguyễn Trọng Tạo giữa đám đông, và thấy ở đâu Nguyễn Trọng Tạo cũng là tâm điểm chú ý của đám đông. Hôm ăn thịt chó nấu theo kiểu Diễn Châu tại khách sạn Mường Thanh, tôi thấy, ngoài ông Đại sứ WTO Ngô Quang Xuân, còn có anh Ngô Trí Nhân (anh ruột Ngô Quang Xuân) là thiếu tướng cục trưởng cục chiến tranh điện tử, lại có cả một ông thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và nhiều người nổi tiếng khác, nhưng Nguyễn Trọng Tạo vẫn “oách” nhất, được nhiều người nể phục nhất. Chẳng những Nguyễn Trọng Tạo có tài chinh phục đám đông, mà chính anh còn là người mang lại “hồn vía” cho đám đông. Trong bạn bè văn nghệ cũng vậy, Nguyễn Trọng Tạo đến đâu là làm cho câu chuyện ở đó, không khí ở đó bớt tẻ nhạt đi.

Vui là thế, nhưng khi cần Nguyễn Trọng Tạo cũng nóng nảy, quyết liệt. Anh không chấp nhận sự khoe giàu, hãnh tiến về địa vị hay tiền bạc trước đám đông. Anh có thể ngồi cả ngày (chính xác là 25 tiếng đồng hồ) được, nhưng sẵn sàng đứng dậy khi tiệc vừa bắt đầu, nếu không thích. Theo một hệ quy chiếu nào đó, thì Nguyễn Trọng Tạo cũng là người gặp không ít gập ghềnh trên đường đời. Nhưng suy cho cùng, tất cả những khó khăn, khúc khuỷu, gập ghềnh mà người nghệ sĩ phải nếm trải nó cũng chỉ làm cho họ thêm đầy đủ hơn “gia vị” ngọt, lạt, chua, cay của cuộc đời, để hun đúc nên chính họ. Hãy hình dung một Nguyễn Trọng Tạo chính khách, một nhà quản lý, một giáo chức,v,v… thì chưa hẳn đã có một Nguyễn Trọng Tạo hiện diện trong tâm hồn họ, trong sự quý mến của họ như là Nguyễn Trọng Tạo nhà thơ, nhạc sĩ, như là Nguyễn Trọng tạo là tác giả Làng quan họ quê tôiKhúc hát sông quê nổi tiếng.

Tôi thầm nghĩ, làm Nguyễn Trọng Tạo cũng mệt thật. Vừa nhận được tin nhắn của anh đang ở Điện Biên, đang uống rượu, múa xoè với các em Thái Trắng ở Điện Biên, ít hôm sau lại nhận được tin anh và Nguyễn Thuỵ Kha đang trên đường hành phương Nam. Đi đến đâu Nguyễn Trọng Tạo cũng được săn đón, và, nhậu thâu đêm suốt sáng. Ngay như ở Hà nội, ở Huế, ở Vũng Tàu…hễ Nguyễn Trọng Tạo có mặt là lại vui như tết. Tôi không hiểu anh lấy đâu ra sức lực để vui với tất cả hàng lô, hàng lốc bạn bè khắp cả nước như vậy! Nguyễn Trọng Tạo còn rất mệt với điện thoại di động. Người hâm mộ anh khắp cả nước. Họ hứng lên lúc nào là gọi cho anh lúc ấy. Rất nhiều trong số họ chưa từng gặp Nguyễn Trọng Tạo lần nào. Họ có số điện thoại của anh là vừa điện hỏi thăm đâu đó, tệ hơn, họ gọi cho anh lúc đã say ngất ngưởng, giọng rượu khê đặc. Nhiều cuộc điện thoại dai như đỉa, dứt không ra. Tôi cũng không ít lần gây phiền toái cho anh, chỉ vì người ta mê bài Khúc hát sông quê quá, gặp Lê Huy Mậu chưa đã, phải nói được vài câu với Nguyễn Trọng Tạo mới chịu. Có lúc tôi cũng “buôn” anh, đang ngồi với mấy ông quan khách nhưng mê “sông quê” như điếu đổ, nhận hết công lênh về mình thì xấu hổ, đành phải khai là của Nguyễn Trọng Tạo thôi, và thế là người ta đòi nói chuyện với Nguyễn Trọng Tạo. Tôi run lắm, nhỡ Nguyễn Trọng Tạo đang bực bõ điều gì, lão cáu tiết lên thì bỏ mẹ. Nhưng hình như Nguyễn Trọng Tạo biết mình là Nguyễn Trọng Tạo, nên chấp nhận “thương đau”, hầu chuyện khắp cả nước. Anh còn kể, khi ra nước ngoài, phải mở máy liên hệ, làm việc gì đó ở trong nước, nhưng làm việc thì ít mà phải nghe điện thoại thăm hỏi, chuyện trò và hò hát thì nhiều. Anh là người phải trả tiền cho tất cả những cuộc gọi đi từ trong nước. Vậy mà vẫn nghe…

Làm Nguyễn Trọng Tạo mệt thật! Và, biết làm sao được, Nguyễn Trọng Tạo lại vẫn phải đóng vai Nguyễn Trọng Tạo trong cái đất nước Việt Nam tươi đẹp này thôi. Và hơn thế nữa, anh còn phải đóng vai Nguyễn Trọng Tạo vì người Việt Nam yêu nước ở nước ngoài, bởi Nguyễn Trọng Tạo là của họ, là niềm tự hào của họ trước bạn bè thế giới.


Vũng Tàu, 3/8/07
Lê Huy Mậu
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Trọng Tạo như tôi biết

- Ông này (ý à) có mà uống rượu với cả nước!

Ông Thìn, người nổi tiếng tửu lượng của thị xã Cửa Lò vừa khoát tay, vừa nói một câu xanh rờn màu nước biển. Ông nói về cái sự rượu, sự uống của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, trong một cuộc vui với bạn bè xứ Nghệ trên bãi biển đẹp nhất miền Trung này.

Ờ thì đã là nhà thơ, người làm thơ, người sáng tạo chữ, ai không uống rượu. “Bầu rượu túi thơ” mà. Cổ nhân thật vĩ đại khi tìm ra, chế ra thứ nước uống có cồn, khơi nguồn những sáng tạo của nhân loại. Cái sự uống của ông Tạo nổi tiếng lắm. Thời còn sống ở Huế, ông đã từng trắng đêm với nhà văn quá cố Hoà Vang, đi bộ 20 km lên đỉnh Bạch Mã và đã đi hết can 10 lít rượu Phú Cam - Huế. Ông từng uống với nhạc sỹ Văn Cao, Trịnh Công Sơn... và đã thốt lên một bài thơ 2 câu bất tử: “Sông Hương hoá rượu ta đến uống/ Ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say”.

Tôi biết ông mới có mười năm nay, nhưng tôi cũng đã hiểu ra cái cách “hành tửu” của ông. Ông nói uống rượu phải như đi bộ, phải từ từ, đừng có dô dô, 100% là mất mạng như chơi. Hoá ra, ông đã tự tiết chế mình, hãm mình, tu mình trong tửu đạo. Mặc dù vậy, trong địa hạt chơi mà bây giờ ông gọi là địa hạt thích, ông đã có nhiều tác phẩm sống trong lòng người nghe, người đọc, người xem. Ông nói, lúc nào thích thơ thì thơ, thích không vần thì không vần, thích có vần thì có vần, thích nhạc thì nhạc, thích vẽ bìa thì bìa. Xin được kể như phép thống kê thuần tuý ở sự thích nhạc, thích thơ, thích vẽ bìa sách của ông.

Về sự thích 1, ông nói ngày nào cũng có người yêu nhạc của ông hát cho ông nghe qua điện thoại Khúc hát sông quê – ca khúc ông phổ thơ Lê Huy Mậu – nhà thơ đồng hương Xứ Nghệ của ông, hiện đang sống tại Vũng Tàu. Nhạc của ông da diết hơi thở dân ca máu thịt. Dễ hát, dễ thuộc, dễ xoáy vào tâm trạng của nhiều người gốc quê của nước Việt ta. Trước đây, bài Làng Quan họ quê tôi, phỏng thơ Nguyễn Phan Hách đã từng được đài NHK và chương trình karaoke của Nhật Bản chọn là một trong 100 ca khúc hay nhất của Việt Nam hồi thập niên 80 thế kỷ trước... Tôi cũng được ông cho nghe các CD, VCD nhạc của ông tại nhà riêng. Nhạc ông hướng thiện, dẫn dắt, lôi kéo người nghe về phía đông, về phương đông, nơi có tộc bách Việt đã từng chia ly sum họp. Giai điệu hướng về biển xanh và núi cao, mỗi nơi đã có 50 người con trong bọc trăm trứng nở thành. Ông hát về cuộc ly hôn lớn nhất của mọi thời đại. Sự thích này cũng mang về cho ông cả chục giải thưởng Âm nhạc quốc gia.

Về sự thích 2, ông đã xuất bản 9 tập thơ, 4 tập trường ca, 4 tập văn xuôi. Trong các tập văn xuôi, có Văn chương Cảm và Luận, là cuốn sách được sinh viên, học sinh rất thích. Họ tìm được lối đi, cách tiếp cận các tác phẩm văn học. Cuốn sách này như sách giáo khoa cho sinh viên chuyên ngành Văn, cho học sinh thi đại học. Con gái tôi, cả hai đứa đều đọc thêm tập sách này như tập lý luận văn học chính để nâng cao kiến thức mà chưa có được từ nhà trường. Nhờ thế mà hai con tôi thi khối D, văn đều đạt điểm cao, hai cháu đều đỗ cả. Những năm mới quen ông, khi ông từ Huế ra Hà Nội sống, tôi được đọc tập thơ Đồng dao cho người lớn xuất bản năm 1994, tái bản cuối 1999. Lúc đó sách đã phát hành được mấy năm, nên chính ông cũng chỉ còn 1 cuốn lưu tác giả. Tôi mượn ông tập thơ duy nhất còn lại và đã âm thầm đọc bằng bàn phím computer, âm thầm in ra 2 cuốn giấy cứng, thuê nhà sách Tân Dân ở Cửa Nam, đóng thành tập như sách của nhà xuất bản ấn hành. Tôi mang tặng ông 1 cuốn và đề nghị ông đề tặng vào cuốn còn lại cho tôi. Ông ghi: “Tôi chúc mừng cho thơ tôi đã được Vân Đình Hùng làm sống tiếp trên bản đặc biệt này”. Hồi đó là tháng 4 năm 1999.

Cùng năm ấy, ông cho ra tập thơ Nương Thân. Mở đầu tập thơ, trong lời tựa ông viết: “Người ta nói đời là Cõi Tạm. Tôi thấy mình chỉ là kẻ Nương Thân... Trên con đường vô định, tôi đã đi tìm thơ gần trọn cuộc đời, để quay về với ngôn ngữ thơ ca nhịp chẵn của Việt Nam mình. Thơ lục bát, thơ bốn tiếng, thơ tám tiếng... bao giờ cũng tạo nên những cặp đôi thuỷ chung bền vững như một đặc tính vĩnh cửu của tâm hồn người Việt. Những vần lưng, vần nối của lục bát, đồng dao... cứ đi mãi không ngừng từ thế giới hồn nhiên tới triết lý cao siêu... Và bây giờ, cửa căn phòng bấy lâu khép kín của thơ tôi đã mở. Mời bạn hãy bước vào. Rồi bạn sẽ quen dần với thứ ánh sáng u huyền đang hắt lên từ vết nứt của bức tường ngôn ngữ”.

Lời mời gọi trang nhã này cùng với bức tường ngôn ngữ u huyền, người đọc tự dưng tìm được chốn nương thân đồng cảm cùng ông.

Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến viết sau khi đọc thơ Nguyễn Trọng Tạo: Cảm hứng nhân văn của Nguyễn Trọng Tạo không hề dễ dãi, và, lấp lánh vô tận như những cái chớp mắt... Nguyễn Trọng Tạo không làm thơ tả cảnh.

Tôi xin được dẫn vài câu thơ của ông

... mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió
có thương có nhớ có khóc có cười
có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi
... và em thuở ấy đi biệt xứ
sao lại về đây. Lấp lánh. Và…
Thơ viết như thế xin đừng bình. Đụng vào nó vỡ tức thì, tan vào thinh không ngay. Nó thật mảnh mai và nhẹ tựa khí trời. “Thơ anh thản nhiên nhẹ nhàng và dễ dàng như những hình tượng đã có sẵn trên cây, anh chỉ việc rung cây là chúng rụng xuống Thơ anh” - (Thuỵ Khuê – Pari, 1993)

Về sự thích thứ 3 – bìa sách. Ông vẽ bìa có gu riêng, độc đáo và ấn tượng. Ông đã đoạt 2 giải bìa sách đẹp của Bộ Văn hoá Thông tin. Có bìa còn được người ta viết cả lời bình là bìa cuốn Chuyện kể năm 2000 của nhà văn Bùi Ngọc Tấn. Ông còn làm nhiều bìa thơ cho các nhà thơ mà ông yêu quí. Bìa tập thơ Mật ong vàng lũng núi mới đây của nhà thơ Bùi Quang Thanh là một ví dụ.

Để khép lại bài viết này, tôi xin mượn lời nhà thơ Vũ Cao đã viết về Nguyễn Trọng Tạo: “Ta thấy thơ anh không nhằm phục vụ hoặc cổ vũ một trào lưu gì. Anh như một người lẻ loi đứng trên các nẻo đường, mặc cho các lớp người cứ trùng điệp ồn ào qua lại... Thật khó có thể xếp Nguyễn Trọng Tạo vào một lớp nhà thơ nào”. Tôi hiểu rằng, “nhà thơ Núi Đôi” đã đánh giá rất cao bản ngã thi sĩ độc đáo riêng biệt của Nguyễn Trọng Tạo trong lớp nhà thơ cùng thời, ông không chạy theo “phong trào”, không “vụ đề tài” như là mặt nổi của văn chương, mà chỉ luôn hướng tới rung cảm nhân văn về thân phận con người và thời đại.

Phải chăng Nguyễn Trọng Tạo là một “siêu sĩ”? Với tôi và nhiều bạn khác của ông, ông là một trong những nhà thơ đặc biệt được yêu mến, kính trọng bởi tài năng và tính hướng thượng, khiêm nhường…./.


Vân Đình Hùng
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 3 trang (28 bình luận)
[1] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối