☆☆☆☆☆ 1224.41
Nước:
Việt Nam (
Hiện đại)
254 bài thơ
42 người thích: Thichanlac, Nguyễn Lãm Thắng, xehi, Mạnh Hùng 1994, Ngoc Xịt, Nguyễn Gia Linh, trucnhan, ladyburg, peihoh, hueart, Bùi Hải, genius812, sontuoc, hang1012, Hạ đỏ, vinhsa, Lá Vàng, Dương Quang Huy, hoctrotruonghuyen, (^.^:-:-*"HuYpRo"*-:-:^.^), 1235, Tuấn Khỉ, anh trang xua, Nguoicuatudo, Nam Thiên Phú, Noble, Bad22, Duy Phi, Minhhien123, Vũ Quỳnh Anh, HinaBee, beTum, Hiền Thảo, vothicamgiang222, Cherry blossom, Futuree Hope, Thanh Khương, Minh Tú, Lnnp7A1ltv, Phương Tiểu Di Cô Nương, Lười Boiz, onggiaongheo
Thơ đọc nhiều nhất
Thơ thích nhất
Thơ mới nhất
Tác giả cùng thời kỳ
Tạo ngày 09/06/2004 15:36 bởi
Vanachi, đã sửa 4 lần, lần cuối ngày 06/09/2009 20:43 bởi
karizebato Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh ngày 7/12/1948 tại xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn, Thanh Hoá. Năm 1966 ông nhập ngũ, trở thành lính đường dây của bộ đội thông tin. Nguyễn Duy từng tham gia chiến đấu nhiều năm trên các chiến trường Khe Sanh, Đường 9 - Nam Lào, rồi sau này là mặt trận phía Nam, mặt trận phía Bắc (1979). Sau đó ông giải ngũ, làm việc tại tuần báo Văn nghệ, Hội nhà văn Việt Nam và là Trưởng đại diện của báo này tại phía Nam.
Nguyễn Duy làm thơ rất sớm. Tác phẩm đầu tay của ông là bài thơ Trên sân trường viết từ đầu những năm 60, khi còn là một học sinh phổ thông ở trường Lam Sơn, Thanh Hoá. Nhưng phải mãi đến năm 1973, ông mới thực sự nổi tiếng với chùm thơ đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt Nam. Và cũng bắt đầu từ đấy, chúng ta có Nguyễn Duy, một thi sĩ đặc sắc cuối những năm chiến tranh và lại rực rỡ trong hoà bình.
Nguyễn Duy có bộ 3 bài thơ theo thể tự do nổi tiếng mang tính thời sự, viết về những trăn trở, suy nghĩ của ông về tương lai đất nước, tương lai của con người và môi sinh: Đánh thức tiểm lực, Nhìn từ xa... Tổ quốc, Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ. Trịnh Công Sơn đã có nhận xét về Nguyễn Duy: “Hình hài Nguyễn Duy giống như đám đất hoang, còn thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý mọc trên đám đất hoang đó...” Ông được tặng Giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Tác phẩm:
- Cát trắng (thơ, NXB Quân đội, 1973)
- Phóng sự 30475 (thơ, NXB Văn nghệ, 1981)
- Em sóng (kịch thơ, NXB Kim Đồng, 1983)
- Ánh trăng (thơ, NXB Tác phẩm mới, 1984)
- Khoảng cách (tiểu thuyết, NXB Phụ nữ, 1985)
- Nhìn ra bể rộng trời cao (bút ký, NXB Văn nghệ, 1986)
- Mẹ và Em (thơ, NXB Thanh Hoá, 1987)
- Đãi cát tìm vàng (thơ, NXB Văn nghệ, 1987)
- Tôi thích làm vua (ký, NXB Văn nghệ, 1988)
- Đường xa (thơ, NXB Trẻ, 1989)
- Quà tặng (thơ, NXB Văn học, 1990)
- Về (thơ, NXB Hội nhà văn, 1994)
- Sáu & Tám (thơ, NXB Văn học, 1994)
- Tình tang (NXB Văn học, 1995)
- Vợ ơi (thơ, NXB Phụ nữ, 1995)
- Bụi (thơ, NXB Hội nhà văn, 1997)
Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh ngày 7/12/1948 tại xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn, Thanh Hoá. Năm 1966 ông nhập ngũ, trở thành lính đường dây của bộ đội thông tin. Nguyễn Duy từng tham gia chiến đấu nhiều năm trên các chiến trường Khe Sanh, Đường 9 - Nam Lào, rồi sau này là mặt trận phía Nam, mặt trận phía Bắc (1979). Sau đó ông giải ngũ, làm việc tại tuần báo Văn nghệ, Hội nhà văn Việt Nam và là Trưởng đại diện của báo này tại phía Nam.
Nguyễn Duy làm thơ rất sớm. Tác phẩm đầu tay của ông là bài thơ Trên sân trường viết từ đầu những năm 60, khi còn là một học sinh phổ thông ở trường Lam Sơn, Thanh Hoá. Nhưng phải mãi đến năm 1973, ông mới thực sự nổi tiếng với chùm thơ đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt…
- Bài ca phiêu lưu
- Tí tẹo Bắc Âu
- Nhớ nhà
- Saint Louis, 14.6.1995
- Texas, 16.6.1995
- Boston, 21.6.1995
- New York, 7.7.1995
- Washington, 12.7.1995
- Hollywood, 21.7.1995
- San Diego, 28.7.1995
- Bolsa, 30.7.1995
- San Jose, 3.8.1995
- San Francisco, 5.8.1995
- Quận Cam, 9.8.1995
- Vớ vẩn
- Mirage
- Washington, mùa phơi
- Paris, mùa phơi
- London, mùa phơi
- Amsterdam, mùa phơi
- Cái nhìn từ bảo tàng Louvre
- Giác đấu
- Feria de Nimes
- Địa Trung Hải
- Nửa đêm
- Chỉ khác nhau cái nhìn, em ạ...
- La Loire
- Đường hầm qua biển Manche