Thơ đọc nhiều nhất
Thơ thích nhất
Thơ mới nhất
Tác giả cùng thời kỳ
Dịch giả nhiều bài nhất
Tạo ngày 21/07/2007 11:32 bởi
Vanachi, đã sửa 2 lần, lần cuối ngày 30/09/2016 14:37 bởi
hongha83 Czesław Miłosz (30/6/1911 - 14/8/2004) là nhà văn, nhà thơ, nhà dịch thuật Ba Lan, giải Nobel Văn học 1980, sinh ở Seteksniai, khi đó còn thuộc Đế chế Nga, sau đó là Ba Lan, sau nữa là Liên Xô và cuối cùng là Cộng hoà Lithuania độc lập, và mất tại Krakow. Kí ức về tuổi thơ của nhà văn in đậm trong tiểu thuyết Thung lũng Issy. Học Đại học King Stefan Batory ở Wilno, Ba Lan (nay là Vilnius, thủ đô Lithuania), đăng những bài thơ đầu tiên trên tạp chí của trường. Năm 1933, ông xuất bản tập thơ Bài ca về thời gian bị đóng băng (giải thưởng Hội Nhà văn Ba Lan 1943). Từ 1935, ông làm việc cho đài phát thanh Ba Lan, in tập thơ Ba mùa đông. Trong thế chiến I, ông viết thơ chống phát xít, xuất bản trường ca Thế giới: bản trường ca ngây thơ đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp sáng tác.
Sau chiến tranh C. Milosz hoạt động ngoại giao, làm việc ở New York, Washington. Năm 1951, vì bất đồng chính trị, ông xin tị nạn tại Pháp. Tiểu luận Trí tuệ bị cầm tù là tác phẩm nổi tiếng đầu tiên của ông được Phương Tây biết đến. Năm 1952, tiểu thuyết Giành chính quyền đoạt giải thưởng Văn chương Châu Âu. Năm 1960, C. Milosz sang Mỹ, trở thành giáo sư ngôn ngữ và văn học Slavơ tại trường đại học California, Berkely, năm 1970 nhập quốc tịch Mỹ. Ngoài sáng tác C. Milosz còn dịch Kinh Thánh từ tiếng Do Thái cổ sang tiếng Ba Lan và thơ của nhiều nhà thơ Châu Mỹ. Năm 1980, ông nhận giải thưởng Nobel vì “các sáng tác thể hiện nỗi đau khổ của con người không được bảo vệ trong một thế giới mà họ đã phải đến sống sau khi bị đuổi khỏi thiên đường”. C. Milosz được coi là một trong những nhà thơ Ba Lan vĩ đại nhất, sánh ngang với Adam Mickiewicz. Sáng tác của Milosz gồm cả tiếng Ba Lan và tiếng Anh.
Tác phẩm:
- Bài ca về thời gian bị đóng băng (Poemat o czasie zastyglym, 1933), thơ
- Ba mùa đông (Trzy zimy, 1936), thơ
- Thế giới: Bản trường ca ngây thơ (The world: a naive poem, 1943), trường ca
- Bài ca bất khuất (Invincible song, 1943), thơ
- Giải cứu (Rescue, 1944), thơ
- Giành chính quyền (Zdobycie wladzy, 1952), tiểu thuyết
- Trí tuệ bị cầm tù (Zniwolony umysl, 1953), tiểu luận
- Thung lũng Issy (Dolina Issy, 1955), tiểu thuyết
- Châu Âu ruột thịt (Rodzinna Europa, 1958), tự truyện
- Thành phố không tên (Miasto bez imenia, 1969), thơ
- Những điều nhìn thấy ở bờ vịnh San Francisco (Widzenia nad zatoka San Francisco, 1969), tập truyện kí
- Lịch sử văn học Ba Lan (The history of Polish literature, 1969), sách giáo khoa
- Mảnh đất Ulro (The land of Ulro, 1977), tiểu luận
- Hoàng đế trên Trái Đất: quan điểm lập dị (Emperor of Earth: modes of eccentric vision), tiểu luận
- Tiếng chuông trong mùa đông (Bells in winter, 1978), thơ
- Sách của Job (Ksiega Hioba, 1980), bản dịch Kinh Thánh
- Bài ca ngọc trai (Hymn of the pearl, 1982), thơ
- Nhân chứng thơ ca (Swiadectwo poezji, 1983), thơ
- Trái Đất ngoài tầm với (Nieobjeta Ziemia, 1986), thơ
- Sử biên niên (Kroniki, 1987), thơ
- Những tỉnh thành (Provinces, 1991), thơ
- Bắt đầu từ phố của tôi (Zaczynajac od moich ulic, 1992), tập truyện ký
- Đối mặt trước dòng sông: Thơ Mới (Facing the river: New Poems, 1995), thơ
Czesław Miłosz (30/6/1911 - 14/8/2004) là nhà văn, nhà thơ, nhà dịch thuật Ba Lan, giải Nobel Văn học 1980, sinh ở Seteksniai, khi đó còn thuộc Đế chế Nga, sau đó là Ba Lan, sau nữa là Liên Xô và cuối cùng là Cộng hoà Lithuania độc lập, và mất tại Krakow. Kí ức về tuổi thơ của nhà văn in đậm trong tiểu thuyết Thung lũng Issy. Học Đại học King Stefan Batory ở Wilno, Ba Lan (nay là Vilnius, thủ đô Lithuania), đăng những bài thơ đầu tiên trên tạp chí của trường. Năm 1933, ông xuất bản tập thơ Bài ca về thời gian bị đóng băng (giải thưởng Hội Nhà văn Ba Lan 1943). Từ 1935, ông làm việc cho đài phát thanh Ba Lan, in tập thơ Ba mùa đông. Trong thế chiến I, ông viết thơ chống phát xít, xuất bản trường ca Thế giới: bản trường ca ngây thơ đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp sáng tác.
Sau chiến tranh…