Julia Hartwig (1921-?) là một trong những nhà thơ nữ xuất sắc nhất của Ba Lan ngày nay. Bên cạnh Wislawa Szymborska, bà chiếm một chỗ đứng cực kỳ lớn lao trong toàn cảnh văn học đất nước này, không chỉ như một nhà thơ, mà còn như người viết tiểu luận phê bình, dịch giả, nhà chuyên khảo văn học Pháp. Bà sinh năm 1921 ở Lublin, thành phố lịch sử ở đông nam Ba Lan, và khởi sự viết văn từ thời còn học trung học. Suốt thời chiến tranh [1939-1944] bà học văn học và triết học tại Đại học Varsovie [trường hoạt động không công khai], từng tham gia đội quân Nội địa, làm giao liên trong tổ chức kháng chiến bí mật chống Đức quốc xã cho đến ngày chiến tranh chấm dứt, và bà trở lại hoàn tất việc học tại một đại học công giáo ở Lublin. Giữa 1947 và 1950 bà sống ở Pháp, được học bổng theo học văn chương Pháp các thế kỷ XIX và XX, và làm việc tại Tòa Đại sứ Ba Lan. Trở về Varsovie, bà cho xuất bản cuốn văn xuôi đầu tiên Z Niedalekich Podrozy [“Không xa”, Warsaw, 1954] gồm những bài du ký, và cùng năm đó bà kết hôn với nhà thơ Artur Miedzyrzecki và cùng chồng cho ra đời nhiều tác phẩm văn xuôi khác, trong số đó có bốn cuốn viết cho thiếu nhi [1961-1969] và nhiều bài dịch & chuyên khảo về các tác giả Pháp, đặc biệt là Arthur Rimbaud, Apollinaire [1962] và Gérard de Nerval [1972]. Từ 1972-1974 bà là khách mời của International Writers Program của Đại học Iowa ở Mỹ. Có thể nhờ đó nhiều nhà thơ trẻ Ba Lan đã có dịp được đến tham dự Chương trình viết văn của đại học này?
Tập thơ đầu tiên của bà xuất bản năm 1956, nhưng thơ bà xuất hiện từ 1945, trước tiên là trên một tờ báo định kỳ ở Cracovie, sau đó là trên những tạp chí văn học lớn của thủ đô. Từ đó bà đã cho xuất bản trên sáu tập thơ, trong số đó nổi bật là những tập Bez Pozegnania [“Không giã từ”] và Nie Ma Odpowiedzi [“Không trả lời”]. Bà cũng cho xuất bản một tập thơ văn xuôi và một cuốn viết về những chuyến đi cùng với chồng là nhà thơ Artur Miedzyrzecki ở Hoa Kỳ: Dziennik amerykanski [“Nhật ký Mỹ”, 1980.]
Bên cạnh các nhà thơ Pháp như Apollinaire, Rimbaud, Max Jacob, Cendras, Supervielle và Henri Michaux, bà còn dịch nhiều nhà thơ Mỹ qua tiếng Ba Lan; và ngoài một cuốn sách dịch giới thiệu các nhà thơ nữ Mỹ, bà còn cùng người chồng nay đã quá cố của mình cho ấn hành tuyển tập các nhà thơ Mỹ: I Sing Modern Man [1992]. Thơ Julia Hartwig đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, và bà từng nhận nhiều giải thưởng ở Ba Lan, Pháp, và Mỹ, kể cả Giải thưởng Jurzykowski và Giải thưởngThornton Wilder của Trung tâm Dịch thuật Đại học Columbia, và Giải thưởng thơ Georg Trakl của Áo. Năm 1977, Tổ chức Fondation d’Hautevillers ở Pháp đã trao Giải thưởng Dịch thuật [Prix de Traduction] cho hai vợ chồng bà, và một Giải thưởng mang cùng tên đã được Pen Club Quốc tế trao cho riêng bà.
Không như một số các nhà thơ Ba Lan cùng thời, như Zbigniew Herbert chẳng hạn, thơ Hartwig tương đối ít thấy bóng dáng chính trị. Bà chống lại mọi kiểu danh xưng, phân loại, và lúc nào cũng để lộ một bản sắc riêng lẻ, không thời thượng – nếu có phải gọi tên thì đó chính là nhân bản. Cái nhân bản thường tình của những số phận cô đơn, phải tiếp cận sự sợ hãi, phù du của cuộc đời, cả cái vui cái buồn, và sự sáng tạo – những đề tài bàng bạc trong thơ bà. Giọng điệu đồng cảm của bà tuy nhiên vẫn là một giọng điệu trong suốt, những cảm xúc kiềm chế nhờ đó nghe không quá mềm yếu, không quá bộc lộ tình cảm.
Ngoài những tác phẩm thơ và văn xuôi như Pozegnania [“Giã từ”, Warsaw: Czytelnik, 1956], Wolne Rece [“Bàn tay tự do”, Warsaw, 1969], Dwoistosc [“Hai mặt”, Warsaw, 1971], Czuwanie [“Thức dậy”, Cracow, 1978], Dziennik Amerykanski [“Nhật ký Mỹ quốc”, Warsaw, 1980], Chwila Postoju [“Khoảnh khắc ngừng”, Cracow, 1980], Obcowanie [“Quen thuộc”, Warsaw, 1987], Czulosc [“Dịu dàng”, Cracow, 1992], Nim Opatrzy Sie Zielen [Cracow, 1995], Zobaczone [Cracow, 1999], Przemija Postac Swiata [Warsaw, 1999], Zawsze Od Nowa [Warsaw, 1999], Zawsze Powroty - Dzinniki Podrozy [“Nhật ký một chuyến đi”, Warsaw: Sic!, 2001], Nie Ma Odpowiedzi [“Không trả lời”, Warsaw, 2001], Wiersze Amerykanskie [“Thơ Mỹ”, Warsaw, 2002], Blyski [“Ánh chớp”, Warszawa, 2002], Mowiac Nie Tylko Do Siebie. Poematy Proza [“Không phải chỉ trò chuyện với tôi. Thơ văn xuôi”, Warszawa, 2003], Bez Pozegnania [“Không giã từ”, Warsaw, 2004], Julia còn xuất bản nhiều sách cho thiếu nhi, như Jasi i Malgosia [“Hansel và Gretel”, cùng với Artur Miedzyrzecki, Warsaw, 1961]; Przygody Poziomki [“Nhữnc cuộc phiêu lưu của một cây dâu hoang”, cùng với Artur Miedzyrzecki, Warsaw, 1964]...
Nguồn:
http://tienve.org/home/li...rtwork&artworkId=6171
Julia Hartwig (1921-?) là một trong những nhà thơ nữ xuất sắc nhất của Ba Lan ngày nay. Bên cạnh Wislawa Szymborska, bà chiếm một chỗ đứng cực kỳ lớn lao trong toàn cảnh văn học đất nước này, không chỉ như một nhà thơ, mà còn như người viết tiểu luận phê bình, dịch giả, nhà chuyên khảo văn học Pháp. Bà sinh năm 1921 ở Lublin, thành phố lịch sử ở đông nam Ba Lan, và khởi sự viết văn từ thời còn học trung học. Suốt thời chiến tranh [1939-1944] bà học văn học và triết học tại Đại học Varsovie [trường hoạt động không công khai], từng tham gia đội quân Nội địa, làm giao liên trong tổ chức kháng chiến bí mật chống Đức quốc xã cho đến ngày chiến tranh chấm dứt, và bà trở lại hoàn tất việc học tại một đại học công giáo ở Lublin. Giữa 1947 và 1950 bà sống ở Pháp, được học bổng theo học văn chương Pháp…