Đọc nhiều nhất
Thích nhất
Mới nhất
Lời tựa của ấn bản đầu tiên
Tác giả của tập sách này chưa từng suy nghĩ như hôm nay. Anh ta bỏ nhiều ngày đi lang thang trong sự hư hỏng đương thời, mắc những sai lầm và dốt nát. Những đau buồn trở nên rất xứng đáng, từ đó chúng đã cảnh báo anh ta và Thiên Chúa đã cho anh ta ân sủng hiểu được lời cảnh báo ấy. Anh ta đã phủ phục trước bàn thờ bị bỏ bê lâu ngày, anh ta tôn thờ Đấng Toàn Thiện và kêu cầu Đấng Toàn Năng, như một người con vâng phục Giáo Hội, bất xứng nhất nhưng có đầy thiện ý.
Tình cảm về sự yếu đuối và kỷ niệm về sự sa ngã đã hướng dẫn người viết khi soạn tác phẩm này vốn là sự tuyên xưng đức tin đầu tiên sau một thời gian dài im lặng trong văn học: tác giả hy vọng rằng người ta sẽ không tìm thấy ở đây điều gì trái với đức bác ái mà khi trở thành kitô hữu tác giả phải dành nó cho những người tội lỗi mà trước đây tác giả đã từng sống buông tuồng như họ.
Tuy nhiên đôi ba bài đã phá vỡ sự im lặng mà tác giả chủ tâm bắt mình phải viết, nhưng độc giả sẽ nhận thấy rằng chúng hướng đến những hành động công khai, những biến cố rõ ràng đã được an bài khiến người ta chỉ thấy trong những bài thơ ấy sức mạnh một chứng từ cần thiết, một lời thú tội (confession) được thúc giục bởi ý tưởng của một bổn phận tôn giáo và của niềm hy vọng vốn có của người Pháp.
Từ rất trẻ, nghĩa là cách nay mười, mười hai năm, tác giả đã cho in những bài thơ hoài nghi và sầu muộn. Tác giả dám cho rằng những bài thơ này luôn có sự hài hoà và sẽ không làm khó chịu một lỗ tai công giáo tinh tế nào: đó sẽ là vinh quang quý báu nhất cũng như niềm hy vọng đáng tự hào nhất của tác giả.
Paris ngày 30 tháng 7 năm 1880
Lời tựa của ấn bản đầu tiên
Tác giả của tập sách này chưa từng suy nghĩ như hôm nay. Anh ta bỏ nhiều ngày đi lang thang trong sự hư hỏng đương thời, mắc những sai lầm và dốt nát. Những đau buồn trở nên rất xứng đáng, từ đó chúng đã cảnh báo anh ta và Thiên Chúa đã cho anh ta ân sủng hiểu được lời cảnh báo ấy. Anh ta đã phủ phục trước bàn thờ bị bỏ bê lâu ngày, anh ta tôn thờ Đấng Toàn Thiện và kêu cầu Đấng Toàn Năng, như một người con vâng phục Giáo Hội, bất xứng nhất nhưng có đầy thiện ý.
Tình cảm về sự yếu đuối và kỷ niệm về sự sa ngã đã hướng dẫn người viết khi soạn tác phẩm này vốn là sự tuyên xưng đức tin đầu tiên sau một thời gian dài im lặng trong văn học: tác giả hy vọng rằng người ta sẽ không tìm thấy ở đây điều gì trái với đức bác ái mà khi trở thành kitô hữu tác giả…
- “Vẻ đẹp của đàn bà, vẻ yếu ớt với bàn tay xanh trắng...” “Beauté des femmes, leur faiblesse, et ces mains pâles...”
- “Kỵ sĩ tốt lành đeo mặt nạ, cưỡi ngựa nhanh...” “Bon chevalier masqué qui chevauche en silence...”
- “Em hãy nghe bài ca êm dịu...” “Ecoutez la chanson bien douce...”
- “Và tôi thấy lại người con một: chàng dường như...” “Et j'ai revu l'enfant unique : il m'a semblé...”
- “Gaspard Hauser hát...” “Gaspard Hauser chante...”
- “Hãy yêu mến thầy! Thầy là nụ hôn hoàn vũ...” “Il faut m’aimer ! Je suis l’universel Baiser...”
- “Phải yêu mến thầy. Thầy là những kẻ Điên con gọi...” “Il faut m’aimer. Je suis ces Fous que tu nommais...”
- “Con đáp lại: Ôi lạy Thầy đã nói với hồn con...” “J’ai répondu : Seigneur, vous avez dit mon âme...”
- “Tôi không hiểu tại sao...” “Je ne sais pourquoi...”
- “Kẻ thù hoá trang thành Buồn Chán...” “L'ennemi se déguise en l'Ennui...”
- “Từng lớp rào dậu lên cao...” “L’échelonnement des haies...”
- “Hy vọng loé lên như cọng rơm trong chuồng ngựa...” “L’espoir luit comme un brin de paille dans l’étable...”
- “Nhân loại vốn bao la...” “L’immensité de l’humanité...”
- “Thành phố lớn! Một đống om sòm...” “La grande ville. Un tas criard de pierres blanches...”
- “Biển xinh đẹp hơn cả...” “La mer est plus belle...”
- “Đời sống khiêm cung với công việc buồn tẻ, dễ dàng...” “La vie humble aux travaux ennuyeux et faciles...”
- “Bầu trời trên mái nhà...” “Le ciel est, par-dessus le toit...”
- “Tiếng kèn đồng buồn thương cho rừng rú...” “Le son du cor s’afflige vers les bois...”
- “Bàn tay ấy là tay tôi đấy...” “Les chères mains qui furent miennes...”
- “Những ngày đẹp ảo loé sáng tận chiều, hỡi hồn tôi...” “Les faux beaux jours ont lui tout le jour, ma pauvre âme...”
- “Thiên Chúa nói cùng tôi: Hãy yêu mến thầy. Con thấy đó...” “Mon Dieu m’a dit : Mon fils, il faut m’aimer. Tu vois...”
- “Trẻ nhỏ sinh ra trong những thành phố lớn...” “Né l'enfant des grandes villes...”
- “Không, thế kỷ ấy thuộc về nước Pháp và phái Jan-xê...” “Non. Il fut gallican, ce siècle, et janséniste...”
- “Lạy Chúa, ngài đã làm con thương tích vì yêu...” “Ô mon Dieu, vous m'avez blessé d'amour...”
- “Ôi Sầu Thảm với Vui Mừng các người đi khập khiễng từ xa...” “Ô vous, comme un qui boite au loin, Chagrins et Joies...”
- “Chúng ta chỉ xúc phạm Thiên Chúa...” “On n'offense que Dieu qui seul pardonne...”
- “Những hương thơm, sắc màu, luật pháp...” “Parfums, couleurs, systèmes, lois...”
- “Linh hồn tôi ơi, sao em buồn bã...” “Pourquoi triste, ô mon âme...”
- “Lạy Chúa, quá nhiều! Thật tình con không dám...” “Seigneur, c’est trop ! Vraiment je n’ose...”
- “Mọi tình yêu của thế gian...” “Toutes les amours de la terre...”
- “Một giấc mơ đen tối...” “Un grand sommeil noir...”
- “Hãy đi đường em, thôi đừng lo lắng...” “Va ton chemin sans plus t'inquiéter...”
- “Giọng kiêu ngạo: hét oai hùng như kèn xuất trận...” “Voix de l'Orgueil : un cri puissant comme d'un cor...”
- “Các ngài rồi trở lại, tay đầy ơn tha thứ...” “Vous reviendrez bientôt, les bras pleins de pardons...”