韶州江次奉餞廣東張臬台回治

諟譯重三恰奉琛,
封川東下誦棠陰。
柔懷久仰天王澤,
款晤方知地主心。
肇水波澄蘭棹邇,
韶山風動繡衣臨。
分岐翹盼台纏浪,
早有鴻遷報好音。

 

Thiều Châu giang thứ phụng tiễn Quảng Đông Trương niết đài hồi trị

Thị dịch trùng tam kháp phụng sâm,
Phong Xuyên đông hạ tụng đường âm.
Nhu hoài cửu ngưỡng thiên vương trạch,
Khoản ngộ phương tri địa chủ tâm.
Triệu Thuỷ ba trừng lan trạo nhĩ,
Thiều Sơn phong động tú y lâm.
Phân kỳ kiều phán Thai triền lãng,
Tảo hữu hồng thiên báo hảo âm.

 

Dịch nghĩa

Mang ngọc báu đến nơi, hai ba lần phiên dịch,
Ở Phong Xuyên tới phía đông nghe ca tụng bóng cây cam đường.
Đã lâu ngóng trông ân trạch thiên vương đối xử ân cần,
Mới biết lòng tốt của người chủ địa phương tiếp đãi tử tế.
Sông Triệu lặng sóng, mái chèo lan lướt gần,
Núi Thiều gió lộng, bóng áo gấm đi tới.
Lúc chia tay kiễng nhìn chòm sao Thai rực sáng,
Mong sớm có chim hồng báo tin mừng.


Nguyên dẫn: Bảy ngày trong quán khách đã được ông đãi ngộ chu đáo, trên đường sông nghìn dặm lại được ông làm bạn đồng hành. Cuộc gặp gỡ đẹp như sao như phượng, cảm xúc về sự hợp tan như móng chim hồng in trên tuyết. Tạm mượn vài lời để tỏ chút tình thân mến.

Thiều Châu là châu được đặt từ đời Tuỳ, đến đời Thanh vẫn là một phủ, đến thời Dân quốc thì bỏ, thuộc tỉnh Quảng Đông, huyện Khúc Giang nay là trị sở cũ. Sông Triệu và Thiều Sơn là chỉ sông núi vùng này.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]