Kính mặc:
Riêng nghĩ tiên thê tôi Ngô thị:
Vẻ ngọc rất làu;
Dấu hương duy nức.

Duyên loan phượng sum vầy nhà hảo hợp, dịu dàng khăn áo, giúp nên mũi thỏ dùi mài;
Điềm huỷ hùng hằng ứng thuở sinh thành, lẩn quất chiếu chăn, may thấy cánh chung chồng chất.

Niềm hiếu kính chăm bề tông sự;
Thói mục uyên thoả kẻ thân nhân.

Đeo tiếng quan càng săn sóc việc muôn, nương song hãy như ngày bồng mạc;
Sửa tiệc lễ chẳng hẹp hòi của nả, mở tráp nào thừa giống trâm thoa.

Ghi công dành bút đỏ thơm tho;
Trao ân có tiên vàng lạng tỏ.

Cõi quạnh để mặc ai cầm sách, sá buồn non nước thú biên quan;
Mành thưa riêng nâng bạn cửi canh, lần tưởng xiêm đai phen ngụ mị.

Nỗi dâu bể xảy gập ghềnh đường thế;
Dấu bèo mây cùng nênh nổi quê người.

Gió lay vách trúc chốn cư bần, hái ngọn quất luống ngập ngừng bóng núi;
Khói toả nhà xuân cơn quái hiếu, dâng tiến tần từng khẳm niệm doành khe.

Cửa treo khăn thêm nhiễm khí gió sương;
Lò hong thuốc phải đợi dâng ngày tháng.

Hư chứng để gày hoa ủ liễu, tễ linh đan khôn kẻ đỡ đần;
Trưng thư vâng giục ngựa giồi xe, chén biệt tửu tiếc chàng xa thắc.

Nâng gối đam toan đường ngụ tự;
Chau mày gượng quẩy gánh chinh hành.

Ngày dài hằng trằn trọc bóng hè, còn ước thuở dịch đồng tin lành trao tới;
Dặm diễn luống bơ vơ lòng khách, bao ngờ điềm xuy cữu giấc mộng trêu ngươi.

Góc trời tin phó, tấc dạ rụng rời;
Đàn lấy việc tang, trăm đường xốc nổi.

Nghĩ chạnh nhẽ hai mươi tám năm nâng nhắc, tới thuở trọn đời lìa dứt, cớ chi nên cách lý chẳng gần nhau;
Ăn năn vì hai ba nghìn dặm ruổi rong, ví xưa trái hẹn dùng dằng, dẫu mà phải tội tình nào sá quản.

Khi mơ bặt chẳng thấy người lan ngọc;
Trong chở che khôn đền nghĩa tao khang.

Suối vàng nát ngọc chìm hương, xe tiên dễ nơi nao tìm lúc;
Tàn lửa đưa thoi lụi tắt, lá thu thêm độ nữa đổi thay.

Tới chốn tân cư;
Bày đàn pháp cúng.

Tiết Địa Tạng độ vong vừa kịp;
Chốn thiên đường siêu hoá còn mong.

Nam vô... Ngửa trông:
Thương tới tôi tình nặng phân ly;
Độ cho kẻ tiết tròn trinh thuận.

Nước công đức rửa trong mầu túc cấu, rủi run về một mối chân như;
Hương kiến tri sực nức chốn tông từ, mảng tượng có đôi phen trắc giáng.

Lại xin:
Niềm khấn [?] giám bề trung nghĩa, ngỏ mình tôi đành vẹn vẽ dấu huân danh;
Đặn lấy thơ làu quyển thi thư, hộ nhà tôi được dặc dài dòng khánh trạch.


Nguyên chú: Tiết trung nguyên năm Quý Sửu [1793].

Phạm Văn Ánh phiên âm từ chữ Nôm.

Đây là bài văn tế bà vợ đầu của Phan Huy Ích là Ngô Thị Thục, em gái Ngô Thì Nhậm, con gái Ngô Thì Sĩ. Bài này nguyên nằm trong tờ sớ viết bằng chữ Hán, nhưng được chính tác giả diễn Nôm.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]