鄭地懷公子僑

咸林回幹幾經冬,
不與尋常小國同。
君子高風兼有四,
惠人遺愛并無窮。
道旁碑碣漫苔長,
郊外松揪落炤紅。
溱洧到來詢往事,
一條淺水自流東。

 

Trịnh địa hoài công tử Kiều

Hàm Lâm hồi cán kỷ kinh đông,
Bất dữ tầm thường tiểu quốc đồng.
Quân tử cao phong kiêm hữu tứ,
Huệ nhân “Di ái” tính vô cùng.
Đạo bàng bi kiệt man đài trưởng,
Giao ngoại tùng thu lạc chiếu hồng.
Trăn, Vị đáo lai tuân vãng sự,
Nhất điều thiển thuỷ tự lưu đông.

 

Dịch nghĩa

Người giỏi trở về thành Hàm Lâm, trải đã mấy mùa đông,
Không tầm thường như các tiểu quốc khác.
Chí khí cao phong của người quân tử, lại thêm tứ đức sáng ngời,
Ơn huệ giúp người, hai chữ “Di ái” để lại đến muôn đời.
Bia đá bên đường rêu xanh mọc dầy,
Cây tùng cây thu ngoài thành lá rụng, ngời lên ánh đỏ.
Đến hai dòng sông Trăn, sông Vị hỏi về câu chuyện cũ,
Một dòng sông cạn tự chảy xuôi về đông.


Công tử Kiều (quen đọc là Kiểu) người đời Xuân Thu (tr.CN - 522 tr.CN), tên là Kiểu, tự Tử Sản và Tử Mỹ, thuỵ Thành Tử. Ông là cháu Mục Công, con trai Tử Quốc nên gọi là Công Tôn Kiểu. Thời Hán - Sở tranh bá, nước Trịnh nhỏ bé nằm giữa hai nước hùng mạnh, Tử Sản chủ trương “Tị kháng đắc nghi, bảo trì vô sự” (Tránh phản kháng thì thích hợp, giữ yên thì vô sự). Khi Tử Sản chết, Khổng Tử gọi là “Cổ chi di ái” (Lòng nhân ái thời xưa để lại) để chỉ việc Công Tôn Kiểu làm cầu cứu người qua sông.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]