蘇秦亭

不是高賢言語科,
縱橫辨舌逞風波。
敝裘歸去空寥落,
刺股重來更揣摩。
弄得侯王兼印佩,
喜看親戚畏金多。
可憐妾婦小哉器,
千載遺亭翳碧沙。

 

Tô Tần đình

Bất thị cao hiền ngôn ngữ khoa,
Tung hoành biện thiệt sính phong ba.
Tệ cầu quy khứ không liêu lạc,
Thích cổ trùng lai cánh suỷ ma.
Lộng đắc Hầu Vương kiêm ấn bội,
Hỉ khan thân thích uý kim đa.
Khả lân thiếp phụ tiểu tai khí,
Thiên tải di đình ế bích sa.

 

Dịch nghĩa

Chẳng phải là bậc cao hiền, mà chỉ là tài nói năng,
Dùng ba tấc lưỡi, đem thuyết Hợp tung, Liên hoành mặc sức gây sóng gió.
Mặc tấm áo lông cừu rách, trở về quê nhà trong cảnh lạnh lẽo nghèo khó,
Đâm dùi vào vế, chỉ để mài thêm chí [cầu danh lợi].
Bỡn cợt các vua chư hầu, được ấn tín đeo lưng,
Vui xem người thân sợ hãi, vì nhìn thấy nhiều vàng bạc.
Thương thay khí tiết của đàn bà sao mà nhỏ bé thế,
Nghìn năm ngôi đình còn lại này khuất lấp trong bãi cát, cỏ cây xanh biếc.


Nguyên chú: “Tại Sa Hà huyện” 在沙河縣 (Đình ở huyện Sa Hà).

Đình Tô Tần nay thuộc tỉnh Hà Bắc. Tô Tần người Lạc Dương thời Chiến Quốc, là một thuyết khách có tài, không được Tấn Huệ vương dùng, bèn đi chu du sáu nước Yên, Triệu, Hàn, Tề, Nguỵ, Sở đưa ra thuyết Hợp tung chống Tần. Ban đầu Tô Tần đi du thuyết đến vài năm không được dùng, khốn cùng quá đành quay về, áo quần xơ xác, bị người nhà khinh rẻ; chị dâu không thổi cơm cho ăn, vợ không rời khung cửi đón tiếp, cha mẹ không hỏi han. Tô Tần giận lắm, ra sức đọc sách, khuya buồn ngủ thì lấy dùi đâm vào đùi để tỉnh dậy, tiếp tục đọc, quyết nuôi chí làm nên nghiệp lớn. Sau, được các nước hưởng ứng, được cử làm trưởng “tung ước”, đeo ấn Tể tướng sáu nước. Khi Tô Tần về, lúc đi qua Lạc Dương, chư hầu đem xe đưa đón rầm rập, như bậc vương giả; về đến nhà, cả nhà đón tiếp niềm nở, chị dâu và vợ chỉ liếc trộm mà không dám nhìn thẳng, Tô Tần thở dài: “Cũng cái thân này, trước sao khinh rẻ, nay sao kính trọng!”.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]