韓魏公祠

五雲璀璨擁仙班,
瑞應勳賢有一韓。
秉節早徵西閫懾,
垂紳默措太山安。
錦堂遺構綿殷祀,
梓里風碑峙曉寒。
風韻悠悠千載上,
真容留與後人看。

 

Hàn Nguỵ công từ

Ngũ vân thôi xán ủng tiên ban,
Thuỵ ứng huân hiền hữu nhất Hàn.
Bỉnh tiết tảo trưng tây khổn nhiếp,
Thuỳ thân mặc thố Thái Sơn an.
Cẩm đường di cấu miên ân tự,
Tử lý Phong bi trĩ hiểu hàn.
Phong vận du du thiên tải thượng,
Chân dung lưu dữ hậu nhân khan.

 

Dịch nghĩa

Mây ngũ sắc rực rỡ, nâng đỡ các tiên,
Điềm lành này ứng với công lao to lớn của ông họ Hàn.
Cầm cờ tiết, sớm tỏ rõ bọn giặc Tây Hạ kinh sợ,
Rủ dải mũ, lặng lẽ định yên Thái Sơn.
Ngôi Cẩm đường để lại thành nơi phụng thờ khang trang lâu dài,
Tấm bia Thanh Phong nơi quê nhà đứng sừng sững trong sớm lạnh.
Phẩm cách của bậc tiên hiền vẫn còn mãi ngàn năm,
Chân dung của người còn lưu lại để đời sau chiêm ngưỡng.


Nguyên dẫn: “Đức cổ Tương Châu địa, kim từ tại phủ thành môn nội; môn biển ‘Ngũ triều cố mệnh định sách nguyên huân từ’, công thần tượng biển ‘Thanh phong tại’. Đông nam môn ngoại hữu công cố lý bi.” 彰德古相州地,今祠在府城門內。門扁五朝顧命定策元勳祠。公神像扁清風在,東南門外有公故里碑。 (Đền thờ ở trong cửa phủ thành Chương Đức, tức Tương Châu xưa. Cửa đền có biển đề: “Đền thờ vị có công lớn trong việc định kế sách được năm triều vua yêu mến”. Tượng thờ ông có biển đề “Gió mát”. Ngoài phía nam cửa đền có bia đá ghi “Quê cũ của ông”.)

Hàn Nguỵ công tức Hàn Kỳ (1008-1075), là danh thần và văn gia thời Bắc Tống. Ông tự là Trĩ Khuê, tự lấy hiệu là Hàn Tẩu, người An Dương, Tương Châu (nay thuộc tỉnh Hà Nam), đỗ tiến sĩ lúc còn trẻ tuổi, làm quan trải ba đời vua Nhân Tông, Anh Tông và Thần Tông, từng làm Tể tướng 10 năm, được phong Nguỵ quốc công. Ông có công cùng Phạm Trọng Yêm trấn giữ biên giới phòng ngự Tây Hạ. Là vị quan trung tín, hết lòng báo quốc, ông được Tống Thần Tông rất quý trọng, khi mất cho phối hưởng ở miếu Anh Tông.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]