題翁墨譚少師節義祠

皤皤白髮六朝人,
國變君危敢有身。
慷慨北城緘密詔,
淒涼南岸泣征塵。
一天不共漁簑子,
重壤無慚笏服臣。
今古興亡歸逝水,
獨留紅日照蒼筠。

 

Đề Ông Mặc Đàm thiếu sư tiết nghĩa từ

Bà bà bạch phát lục triêu nhân,
Quốc biến quân nguy cảm hữu thân.
Khảng khái bắc thành giam mật chiếu,
Thê lương nam ngạn khấp chinh trần.
Nhất thiên bất cộng ngư xoa tử,
Trùng nhưỡng vô tàm hốt phục thần.
Kim cổ hưng vong quy thệ thuỷ,
Độc lưu hồng nhật chiếu thương quân.

 

Dịch nghĩa

Mái tóc bạc loà xoà, phụng sự sáu đời vua [nhà Lê],
Nước loạn, vua nguy cấp, dám đâu nghĩ đến thân mình.
Khảng khái về thành phương bắc thực hiện mật chiếu,
Khóc thương vua chạy về nam đường xa gió bụi thê lương.
Không đội trời chung, làm một ông chài áo tơi, nón lá,
Giành lại đất, không thẹn là bề tôi cầm hốt.
Chuyện hưng vong xưa nay đều theo dòng nước trôi đi,
Chỉ riêng lưu lại vầng mặt trời đỏ chiếu rọi trời xanh.


Bài thơ này sách Tuyển tập dòng họ Phan Huy (nhánh Sài Sơn) - tập I (NXB Hà Nội, 2022) rút từ Sứ trình tạp vịnh (A.2791) là tập thơ đi sứ của Phan Huy Thực. Tuy nhiên, sách Tuyển tập thơ Hán - Việt (NXB Cảo thơm, 1975) chưa rõ dẫn từ đâu, ghi tác giả là Trần Danh Án với tiêu đề Đề Ông Mặc Đàm thiếu bảo tiết nghĩa từ 題翁墨譚少保節義祠 và nội dung chỉ khác một vài chữ.

Nguyên chú theo sách Sứ trình tạp vịnh: “Ông cử Hồng Đức tiến sĩ, lịch sự Thánh Tôn, Hiến Tôn, Huyền Tôn, Tương Dực, Uy Mục, Chiêu Tôn, sĩ chí Thiếu sư. Quang Thiệu niên gian Mạc thị chuyên bức, Chiêu Tôn Nam bôn, công phụng chiếu quý Giang Bắc cử binh. Sự bất thành, ẩm độc tốt.” 翁舉洪德進士,歷事聖尊憲尊玄尊襄翼威穆昭尊仕至少師。光紹年間莫氏專逼,昭尊南奔,公奉詔歸江北舉兵。事不成飲毒卒。(Ông đỗ tiến sĩ đời Hồng Đức, làm quan dưới các triều vua: Thánh Tông, Hiến Tông, Huyền Tông, Tương Dực, Uy Mục, Chiêu Tông, đến chức Thiếu sư. Khoảng niên hiệu Quang Thiệu (1517-1521), họ Mạc chuyên quyền, Chiêu Tông chạy về Nam, ông vâng chiếu về Bắc Giang cử binh. Việc không thành, ông uống thuốc độc tự tử.)

Xã Ông Mặc còn có tên là làng Me, thuộc huyện Đông Ngàn, nay là làng cổ Ông Mặc, xã Hương Mặc, thuộc Thị xã Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh. Đàm thiếu bảo tức Đàm Thận Huy 譚愼徽, hiệu Mặc Trai, vốn quê ở đây, đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Hồng Đức thứ 21 (1490) khi 28 tuổi, làm quan trải thờ sáu triều vua: Thánh Tông, Hiến Tông, Túc Tông, Tương Dực, Uy Mục và Chiêu Tông. Ông làm đến các chức Tán trị công thần, Lễ bộ Thượng thư, Tri Chiêu Văn quán, Tú lâm cục kiêm Hàn lâm viện Thị độc, Chưởng Hàn lâm viện sự, Thiếu bảo, Nhập thị kinh diên, tước Lâm Xuyên bá, từng được cử đi xứ nhà Minh, và dự vào Tao đàn Nhị thập bát tú. Khoảng đời Quang Thuận, họ Mạc chuyên quyền lật đổ nhà Lê, vua Chiêu Tông xuất bôn về miền nam, ông phụng mật chiếu về Bắc Giang mộ binh khởi binh chống Mạc. Việc không thành, ông uống thuốc độc chết. Mạc Đăng Dung trọng khí tiết ông, truy tặng tước hầu. Tương truyền sắc rước về đến thôn Cổ Trâu thình lình bắt lửa bốc cháy. Sau Lê trung hưng xếp ông vào hàng Kiệt tiết dực vận công thần, phong làm phúc thần. Di trước có Mặc Trai thi tập, Sĩ hoạn châm quy và 12 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục.


[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Đông Xuyên

Thờ sáu triều vua, tóc bạc phơi,
Vua đi, nước loạn, thiết chi đời?
Chiếu vâng thành Bắc, lòng hăng hái,
Bụi cuốn đường Nam, lệ nhỏ rơi...!
Đất mới hổ đâu cho cụ án?
Trời chung không đội với anh chài!
Hưng vong kim cổ theo dòng nước...
Khóm trúc xanh còn bóng đỏ soi!!

Khi bạn so găng với cuộc đời, cuộc đời luôn luôn thắng (Andrew Matthews)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Sáu vua thờ, tóc bạc phơ,
Vua đi, nước loạn, sao người tiếc thân?
Bắc thành hăng hái chiếu vâng,
Đường Nam bụi cuốn, lệ hàng nhỏ rơi...!
Mạc cùng không đội chung trời!
Hổ đâu đất mới cho thời án không?
Hưng vong kim cổ theo dòng...
Trúc xanh còn bóng ánh lồng đỏ soi!!

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Tóc bạc phơ phơ phụng sáu vua,
Non sông tan tác não nùng chưa!
Bắc thành hăng hái vâng quân mệnh,
Nam lộ thê lương khóc gió mưa.
Chẳng chịu một trời cùng kẻ biển,
Đâu hèn chung đất với người xưa.
Cổ kim được mất theo dòng nước,
Bóng đỏ soi hàng trúc nhặt thưa.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời