☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
21 bài thơ
Đọc nhiều nhất
Thích nhất
Mới nhất
Sứ trình tạp vịnh, ký hiệu A.2791 là cuốn gia thư chép tay trên giấy bản mỏng cỡ 15,4 x 27,3cm; chữ Hán viết theo lối đá thảo, đẹp và nhiều chữ viết tắt khó đọc. Mặt giấy nhiều chỗ bị ố vàng, mép giấy sờn rách. Văn bản gồm 21 tờ, đóng bìa màu vàng bằng giấy bản bồi, gáy phết sơn ta đen cứng; bên trong chép chữ Hán trên giấy bản ngả màu vàng. Trang đầu mé lề bên phải ghi 2 dòng chữ Hán bằng loại son nhạt khá lớn như chữ viết nháp: “Gia Long Đinh Sửu thập lục niên trọng xuân cốc đán, nhạc chi mệnh mệnh xuân hạ thu đông” 嘉隆丁丑十六年仲春穀旦岳之命命春夏秋東春夏秋. Dòng thứ 3 viết chữ Hán khá đẹp rõ ràng bằng mực nho: “Gia Long Đinh Sửu thập lục niên trọng xuân cốc đán Phó sứ Khuê Nhạc Phan hầu ngâm lục. Bào đệ Lâm Khanh Hạo đường đệ Huyền Đồng tử đồng tiếm bình” 嘉隆丁丑十六年仲春穀旦副使圭岳潘侯吟錄,胞弟霖卿浩,堂弟玄同子仝僭評 (Ngày lành tháng giữa xuân năm Đinh Sửu niên hiệu Gia Long thứ 16 [1817], tập thơ của phó sứ họ Phan, tước Khuê Nhạc hầu, em trai tự Lâm Khanh tên Hạo, em họ Huyền Đồng tử cùng tiếm bình), tên tác phẩm “Sứ trình tạp vịnh”, giữa trang đầu đóng dấu hình ô van mực đen của Trường Viễn Đông bác cổ Pháp (EFEO).
Sách gồm 2 phần:
- Phần I: từ tờ 1a đến 5a chép 21 bài thơ của Phan Huy Thực, trong đó có 7 bài thơ làm trong khi đi sứ phương Bắc năm 1817 (riêng bài thứ 7 Hoa sơn binh mã sách bị nhoè, chỉ đọc được 3 câu thơ đầu, còn Hoa trình tạp vịnh chép đủ), và 14 bài thơ cảm hoài đề vịnh làm trong nước. Cuối phần thơ chép bài bạt Sứ trình tạp vịnh của Phan Huy Chú mà trong Hoa trình tạp vịnh không có. Bài bạt cho biết tập thơ đi sứ có hơn 150 bài.
- Phần II: từ tờ 7a đến 15b phụ chép thơ của tác giả Trần Tử ông. Tờ từ 14b đến 21a chép các bài văn tế, câu đối...
Văn bản Sứ trình tạp vịnh viết nhiều chữ kiêng huý đời Nguyễn, nhưng không tuân thủ quy cách nhất quán; như chữ “hoa” 華 viết thiếu nét, chữ “miên” 綿, “thời” 時 viết đổi vị trí trước sau - hai chữ này là quy định viết huý thời Thiệu Trị. Những chữ viết huý này chứng tỏ văn bản Sứ trình tạp vịnh chép sau khi Phan Huy Thực đã mất, tức là sau năm Thiệu Trị và Tự Đức khá xa.
Sứ trình tạp vịnh, ký hiệu A.2791 là cuốn gia thư chép tay trên giấy bản mỏng cỡ 15,4 x 27,3cm; chữ Hán viết theo lối đá thảo, đẹp và nhiều chữ viết tắt khó đọc. Mặt giấy nhiều chỗ bị ố vàng, mép giấy sờn rách. Văn bản gồm 21 tờ, đóng bìa màu vàng bằng giấy bản bồi, gáy phết sơn ta đen cứng; bên trong chép chữ Hán trên giấy bản ngả màu vàng. Trang đầu mé lề bên phải ghi 2 dòng chữ Hán bằng loại son nhạt khá lớn như chữ viết nháp: “Gia Long Đinh Sửu thập lục niên trọng xuân cốc đán, nhạc chi mệnh mệnh xuân hạ thu đông” 嘉隆丁丑十六年仲春穀旦岳之命命春夏秋東春夏秋. Dòng thứ 3 viết chữ Hán khá đẹp rõ ràng bằng mực nho: “Gia Long Đinh Sửu thập lục niên trọng xuân cốc đán Phó sứ Khuê Nhạc Phan hầu ngâm lục. Bào đệ Lâm Khanh Hạo đường đệ Huyền Đồng tử đồng tiếm bình” 嘉隆丁丑十六年仲春穀旦副使圭岳潘侯吟錄,胞弟霖卿浩,堂弟玄同子仝僭評 (Ngày lành tháng…