晉稽侍中祠

慷慨臨戎際,
孤忠矢靡他。
身陪鸞鴐近,
血濺御衣多。
豈北清談輩,
長留正氣歌。
古祠洋濯永,
吟客誌經過。

 

Tấn Kê thị trung từ

Khảng khái lâm nhung tế,
Cô trung thỉ mị tha.
Thân bồi loan gia cận,
Huyết tiễn ngự y đa.
Khởi bắc thanh đàm bối,
Trường lưu “Chính khí ca”.
Cổ từ dương trạc vĩnh,
Ngâm khách chí kinh qua.

 

Dịch nghĩa

Khí phách khảng khái lúc xông pha giữa chiến trường,
Tấm lòng trung thề không thể khác.
Một thân theo kề cận bên loan giá,
Máu tràn thấm đẫm áo ngự của nhà vua.
Há có thể bẻ gãy lý thuyết của bọn thanh đàm,
Mà lưu truyền mãi bài “Chính khí ca”.
Đền cổ mãi vẫn ngời ngời sáng,
Khách thơ ghi chép việc đã đi qua.


Nguyên dẫn: “Tại Thang Âm huyện nam giới, hữu Quang Thôn phố, hựu thạch bi, cương đường hữu công mộ bi” 在湯陰縣南界,有光村圃又石碑,崗塘有公墓碑 (Phía nam địa giới huyện Thang Âm có phố Quang Thôn và tấm bia đá, trên gò đê có bia mộ của ông).

Họ Kê tức Kê Thiệu, con Kê Khang (223-263). Kê Thiệu làm chức Thị trung đời Tấn Huệ Đế (290-306). Khi Huệ Đế bị giặc đuổi, tên bắn như mưa, Kê Thiệu lấy thân che cho vua, bị chết máu phun ướt cả áo vua.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]