經禪林廢寺感作

誰使驕愚躡至尊,
豈知忠聖懼流言。
三年政柄私家議,
萬里兵端戰士魂。
腐鼠孤鶵傷舅氏,
落花啼鳥改禪門。
憐師無復躋山石,
漠漠寒煙遠近村。

 

Kinh Thiền Lâm phế tự cảm tác

Thuỳ sử kiêu ngu nhiếp chí tôn,
Khởi tri trung thánh cụ lưu ngôn.
Tam niên chính bính tư gia nghị,
Vạn lý binh đoan chiến sĩ hồn.
Hủ thử cô sồ thương cữu thị,
Lạc hoa đề điểu cải thiền môn.
Liên sư vô phục tễ sơn thạch,
Mạc mạc hàn yên viễn cận thôn.

 

Dịch nghĩa

Ai khiến kẻ kiêu ngạo ngu si chen chân vào nơi chí tôn?
Há biết rằng người trung với bậc thánh thì sợ lời đồn thổi.
Ba năm nắm quyền bính chuốc lấy lời chê chỉ lo riêng lợi nhà,
Muôn dặm gây mối binh đao [oan] hồn chiến sĩ.
Chuột hôi chim nhắt, đã làm tổn hại cậu [nhà vua],
Hoa rụng chim hót, làm thay đổi cả cửa thiền.
Thương cho nhà sư không còn trèo lên núi đá,
Thôn gần thôn xa khói lạnh mênh mông.


Nguyên dẫn: Chùa ở xã Xuân Dương, khởi dựng thời Vũ Hiếu Vương khi trước. Tự viện cao rộng, tương truyền có câu đồng dao rằng: “Thiền Lâm có đá cheo leo, Ai thương sư phụ thì vào Thiền Lâm”. Trước kia Thái sư Bùi Đắc Tuyên nhân chỗ chùa dựng phủ đệ, để làm chỗ giải quyết các công việc chính sự. Tại chỗ ở, quan lại quân dân ở quanh đường đi trên núi, mới hay lời đồng dao như là câu sấm truyền thú vị. Đến khi Bùi Đắc Tuyên mắc tội, chùa bị phế bỏ làm kho đựng vôi, ngọn núi khói phủ thành bãi đất hoang, người đi qua rất chạnh lòng vậy.

Phạm Văn Ánh dịch nghĩa.

Chùa Thiền Lâm ở phía Nam sông Hương, Phú Xuân (Huế). Đương thời Bùi Đắc Tuyên tuy là người ít học song vì em gái là Bùi Thị Nhạn là Hoàng hậu của vua Quang Trung, cháu ruột là Nguyễn Quang Toản được lập làm thái tử nên nhờ đó ông được làm quan Thị lang bộ Lễ và nhiều đặc ân khác. Sau khi Quang Trung mất, Quang Toản lên ngôi, ông được làm Thái sư. Do địa vị của mình, Bùi Đắc Tuyên ngày một chuyên quyền, thanh trừng những người không cùng phe cánh với mình. Sau bị Đại đô đốc Võ Văn Dũng cùng một số tướng lĩnh bắt đem đóng cũi dìm chết ở sông Hương.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]