答兵奉宜城侯

離樽忽忽半年閒,
猶俟瓜期覯晤歡。
詞藻幾能裨省閣,
征塵何故鬧江山。
元戎啟乘風霆壯,
巨浪浮艘鼓角寒。
忙向中樞談戰守,
方前造物靳人間。

 

Đáp Binh phụng Nghi Thành hầu (II)

Ly tôn hốt hốt bán niên nhàn,
Do sĩ qua kỳ cấu ngộ hoan.
Từ tảo kỷ năng bì tỉnh các,
Chinh trần hà cố náo giang san.
Nguyên nhung khải thặng phong đình tráng,
Cự lãng phù sưu cổ giốc hàn.
Mang hướng trung xu đàm chiến thủ,
Phương tiền tạo vật cận nhân gian.

 

Dịch nghĩa

Chén rượu chia ly vội vàng, mới nhàn nhã được nửa năm,
Còn đợi đến mùa dưa là khi vui mừng gặp mặt.
Ngôn từ văn chương mấy khi có thể giúp cho triều đình,
Bụi chiến chinh vì cớ gì mà náo động cả non sông?
Bắt đầu cưỡi chiến xa lớn, khí thế mạnh mẽ như gió lùa sấm động,
Con sóng cả làm nổi thuyền, tiếng tù và lạnh lẽo.
Vội hướng về triều đình để bàn việc đánh, giữ,
Cảnh vật ở trước mắt, tạo vật kia xẻn tiếc với nhân gian.


Phạm Văn Ánh dịch nghĩa.

Nghi Thành hầu tức Nguyễn Đề (1761-1805), người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An, con trai Xuân quận công Nguyễn Nghiễm, anh trai thi hào Nguyễn Du.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]