木蘭詞

唧唧復唧唧,
木蘭當戶織,
不聞機杼聲,
惟聞女歎息。
問女何所思,
問女何所憶。
女亦無所思,
女亦無所憶。
昨夜見軍帖,
可汗大點兵;
軍書十二卷,
卷卷有爺名。
阿爺無大兒,
木蘭無長兄,
願為市鞍馬,
從此替爺征。
東市買駿馬,
西市買鞍韉,
南市買轡頭,
北市買長鞭。
旦辭爺孃去,
暮宿黃河邊,
不聞爺孃喚女聲,
但聞黃河流水聲濺濺。
旦辭爺孃去,
暮宿黑山頭,
不聞爺孃喚女聲,
但聞燕山胡騎聲啾啾。
萬里赴戎機,
關山度若飛,
朔氣傳金柝,
寒光照鐵衣。
將軍百戰死,
壯士十年歸。
歸來見天子,
天子坐明堂,
策勳十二轉,
賞賜百千強。
可汗問所欲,
「木蘭不用尚書郎,
願借明駝千里足,
送兒還故鄉。」
爺孃聞女來,
出郭相扶將;
阿姊聞妹來,
當戶理紅妝;
小弟聞姊來,
磨刀霍霍向豬羊。
開我東閣門,
坐我西閣床;
脫我戰時袍,
著我舊時裳;
當窗理雲鬢,
對鏡貼花黃。
出門看伙伴,
伙伴皆驚惶:
同行十二年,
不知木蘭是女郎!
雄兔腳撲朔,
雌兔眼迷離,
兩兔傍地走,
安能辨我是雄雌?

 

Mộc Lan từ

Tức tức phục tức tức,
Mộc Lan đương hộ chức,
Bất văn cơ trữ thanh,
Duy văn nữ thán tức.
Vấn nữ hà sở tư,
Vấn nữ hà sở ức.
Nữ diệc vô sở tư,
Nữ diệc vô sở ức.
Tạc dạ kiến quân thiếp,
Khả hãn đại điểm binh;
Quân thư thập nhị quyển,
Quyển quyển hữu gia danh.
A gia vô đại nhi,
Mộc Lan vô trưởng huynh,
Nguyện vi thị yên mã,
Tòng thử thế gia chinh.
Đông thị mãi tuấn mã,
Tây thị mãi yên tiên,
Nam thị mãi bí đầu,
Bắc thị mãi trường tiên.
Đán từ gia nương khứ,
Mộ túc Hoàng hà biên,
Bất văn gia nương hoán nữ thanh,
Đãn văn Hoàng hà lưu thuỷ thanh tiễn tiễn.
Đán từ gia nương khứ,
Mộ túc Hắc sơn đầu,
Bất văn gia nương hoán nữ thanh,
Đãn văn Yên sơn Hồ kỵ thanh thu thu.
Vạn lý phó nhung cơ,
Quan sơn độ nhược phi,
Sóc khí truyền kim thác,
Hàn quang chiếu thiết y.
Tướng quân bách chiến tử,
Tráng sĩ thập niên quy.
Quy lai kiến thiên tử,
Thiên tử toạ minh đường,
Sách huân thập nhị chuyển,
Thưởng tứ bách thiên cường.
Khả hãn vấn sở dục,
“Mộc Lan bất dụng thượng thư lang,
Nguyện tá minh đà thiên lý túc,
Tống nhi hoàn cố hương.”
Gia nương văn nữ lai,
Xuất quách tương phù tương;
A tỷ văn muội lai,
Đương hộ lý hồng trang;
Tiểu đệ văn tỷ lai,
Ma đao hoắc hoắc hướng trư dương.
Khai ngã đông các môn,
Toạ ngã tây các sàng;
Thoát ngã chiến thì bào,
Trước ngã cựu thì thường;
Đương song lý vân mấn,
Đối kính thiếp hoa hoàng.
Xuất môn khán hoả bạn,
Hoả bạn giai kinh hoàng:
Đồng hành thập nhị niên,
Bất tri Mộc Lan thị nữ lang!
Hùng thố cước phác sóc,
Thư thố nhãn mê ly,
Lưỡng thố bàng địa tẩu,
An năng biện ngã thị hùng thư?


Mộc Lan thi (còn có tên là Mộc Lan từ) là bài quân ca nổi tiếng trong lịch sử văn học Trung Quốc. Nội dung bài thơ đơn giản, không có những chi tiết ly kỳ, không có những éo le làm xao xuyến lòng người. Bài thơ kể về câu chuyện một người thiếu nữ thay cha tòng quân. Nhà không có con trai lớn để nhập ngũ, cha già thì đã cao tuổi, người thiếu nữ ấy liền ăn mặc giả nam nhi để tòng quân thay cha. Nàng ở trong quân ngũ mười hai năm, lập được nhiều chiến công. Khi trở về triều đình, nhà vua muốn ban thưởng chức tước, nàng đều không nhận, chỉ xin ngựa tốt để trở về quê nhà. Về đến nhà, nàng lại mặc trang phục nữ nhi, trang điểm soi gương, trở lại với cuộc sống bình thường như trước khi nhập ngũ.

Trong kho tàng dân ca nhạc phủ phong phú của dân tộc Trung Quốc, Mộc Lan thiKhổng tước đông nam phi (đời Đông Hán) được đánh giá là hai bài dân ca hay vào bậc nhất. Nhưng hai tác phẩm này hoàn toàn khác nhau. Nếu Khổng tước đông nam phi là bài tình ca diễm lệ bi thảm mang theo tình điệu của người phương nam, thì Mộc Lan thi là bài quân ca hùng tráng khảng khái thể hiện khí chất của người phương bắc.

Mộc Lan thi là dân ca của thời kỳ Bắc triều. Vào thời kỳ ấy, đất nước Trung Quốc chia đôi, miền nam trải qua các triều đại Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần, gọi chung là Nam triều; còn miền bắc bị các dân tộc thuộc nền văn minh du mục như Tiên Ty, Hung Nô, Khương, Yết chia nhau chiếm cứ, về sau thống nhất vào nhà nước Bắc Nguỵ do họ Thát Bạt người Tiên Ty lập ra. Do đó, khí chất của người dân du mục đã thấm vào trong nền văn hoá Trung Quốc, tạo nên vẻ mãnh liệt, cương cường, bi tráng trong dân ca Bắc triều thời kỳ này, đối lập với sự diễm lệ, uyển chuyển, mềm mại của dân ca Nam triều đương thời.

Bản Mộc Lan thi còn lưu truyền ngày nay là bản đã qua nhuận sắc của các thi nhân đời Đường, tuy nhiên vẻ hào hùng đẹp đẽ nguyên thuỷ vẫn còn được thể hiện rõ ràng.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nam Trân

Than thở lại thở than,
Mộc Lan dệt bên cửa.
Không nghe tiếng thoi đưa
Chỉ nghe cô than thở.
Phải chăng buồn vì lo,
Phải chăng buồn vì nhớ?
Không phải buồn vì lo,
Không phải buồn vì nhớ.
Đêm qua nhìn quân thiếp
Biết có lệnh trưng binh.
Danh sách mười hai tập,
Đều ghi tên bố mình.
Bố không con trai lớn,
Mộc Lan không có anh.
Cô quyết mua yên ngựa,
Thay bố đi tòng chinh.
Mua ngựa ở chợ Đông,
Mua yên ở chợ Đoài,
Chợ Nam mua cương khớp,
Chợ Bắc mua roi dài.
Biệt mẹ cha buổi sớm,
Tối cạnh Hoàng Hà ngơi.
Chẳng nghe tiếng mẹ cha gọi con gái,
Chỉ nghe Hoàng Hà sóng nước thét hoài.
Biệt Hoàng Hà buổi sớm,
Tối đến Hắc Sơn ngơi.
Chẳng nghe tiếng mẹ cha gọi con gái,
Chỉ nghe Yên Sơn ngựa giặc hí vang trời.
Muôn dặm xông ra trận,
Quan ải vụt bay đi.
Mõ đồng rền chướng khí,
Trăng lạnh rọi nhung y.
Trăm trận tướng quân chết,
Mười năm tráng sĩ về.
Về bái yết thiên tử,
Thiên tử ngồi minh đường.
Xét thưởng hai mươi bậc,
Ban cho trăm ngàn vàng.
Vua dò hỏi ý muốn
- “Mộc Lan không nhận chức quan sang,
Chỉ xin thiên lý mã,
Đưa về với cố hương”.
Mẹ cha nghe tin ấy,
Ra thành đón con về.
Chị cô nghe tin ấy,
Sửa soạn chốn buồng the.
Em trai nghe tin ấy,
Mài dao soàn soạt mổ bò dê.
Cô mở cửa gác Đông,
Cô ngồi giường gác Tây.
Cởi bỏ bộ quân phục,
Mặc xiêm áo thường ngày.
Bên song sửa mái tóc,
Hoe vàng ngắm gương cài.
Ra cửa thăm bè bạn,
Bạn bè thảy ngạc nhiên:
“Mười hai năm đồng ngũ,
Ngờ đâu gái giả trai!”
Thỏ đực chân mấp máy,
Thỏ cái mắt mê tơi.
Cặp thỏ song song chạy,
Nhận ra ta đực cái mới tài.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
74.86
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Bùi Hạnh Cẩn

Thẫn thờ lại thẫn thờ
Mộc Lan đang dệt lụa
Không nghe tiếng thoi đưa
Chỉ nghe tiếng than thở
Có phải nàng đang mong
Có phải nàng đang nhớ
Nàng chẳng có gì mong
Nàng chẳng có gì nhớ
Đêm qua chiếu ngà vua
Triều đình tuyển quân ngũ
Mười hai quyển sổ quân
Sổ nào cũng tên bố
Nhà sinh gái đầu lòng
Nàng không có anh cả
Đành ngựa gươm xông pha
Thay cha nơi khói lửa
Chợ đông mua ngựa khoẻ
Chợ tây mua yên đai
Chợ nam mua bàn đạp
Chợ bắc mua roi dài
Sớm từ biệt mẹ già
Chiều ngủ trọ sông Hoàng
Không nghe cha mẹ gọi con gái
Chỉ nghe sông Hoàn tiếng ầm vang
Sớm từ biệt cha mẹ
Chiều ngủ sườn non Yên
Không nghe cha mẹ gọi con gái
Chỉ nghe ngựa Hồ hý suốt đêm
Muôn dặm quân dong duổi
Sông núi cách nước mây
Gió bấc động giáo mác
Trăng lạnh áo bào dày
mười năm đánh trăm trận
Tướng quân về nơi đây
Trở về vào điện ngọc
Dâng lời chúc đức vua
Công lao mười lần gấp
Ban thưởng khó ai so
Nhà vua hỏi nguyện vọng
Mộc Lan không muốn làm thượng thư
Xin cho ngựa đi ngày ngàn dặm
Phi về thăm làng xưa
Cha mẹ nghe gái về
Ra đón tận đầu làng
Em gái nghe chị về
Áo hồng bay đỏ đường
Em trai nghe chị về
Mổ dê giết lợn bày cỗ bàn
Gác đông lại mở cửa
Gác tây lại kê giường
Cởi ngay bộ chiến giáp
Mặc luôn quần áo thường
Trước cửa trải mái tóc
Tô mày đứng trước gương
Ra cửa chào bạn lính
Bạn lính thấy kinh hoàng
Mười hai năm cùng đội
Không biết Mộc Lan gái cải trang
Thỏ cái chân bấy bớt
Thỏ đực mắt mơ mơ
Hai thỏ chung đường chạy
Gái trai tạm đổi không ai ngờ.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lang Xet Tu @www.maihoatrang.com

Lách cách trong khung cửa
Mộc Lan ngồi dệt lụa
Không nghe tiếng thoi đưa
Chỉ nghe nàng than thở
Hỏi nàng đang mong gì
Hỏi nàng đang nhớ chi
Nàng thưa chẳng mong gì
Nàng thưa chẳng nhớ chi.
Đêm qua đọc quân thiếp
Khả hãn đang điểm binh
Quân thư mười hai quyển
Tên cha viết rành rành
Cha không có trai lớn
Mộc Lan thiếu trưởng huynh
Nguyện sắm sửa yên mã
Thay cha đi tòng chinh.
Chợ đông mua tuấn mã
Chợ tây mua yên đai
Chợ nam mua cương chắc
Chợ bắc mua roi dài.
Sáng giã từ cha mẹ
Chiều đến bên Hoàng Hà
Không được nghe lời cha mẹ gọi
Chỉ nghe cuồn cuộn Hoàng Hà nước chảy xa.
Sớm rời khỏi Hoàng Hà
Chiều vừa đến Hắc Sơn
Không được nghe lời cha mẹ gọi
Chỉ nghe ào ạt Yên Chi vó ngựa dồn.
Muôn dặm theo quân vụ
Vun vút vượt quan san
Mõ sắt truyền hơi rét
Áo giáp chiếu hàn quang
Tướng quân trăm trận đành vong mạng
Tráng sĩ mười năm lại khải hoàn.
Khải hoàn chầu thiên tử
Thiên tử giữa minh đường
Thăng chức mười hai cấp
Ân thưởng quá nghìn muôn.
Đại hãn hỏi ý nguyện
Mộc Lan chẳng làm thượng thư lang
Chỉ xin ngựa khoẻ phi nghìn dặm
Đưa tôi về cố hương.
Cha mẹ nghe con về
Ra quách đón dìu nhau
Chị gái nghe em về
Bên song sắp phấn đào
Em trai nghe chị về
Mổ dê soàn soạt tiếng mài dao.
Gác đông ta mở cửa
Gác tây ta tựa gường
Cởi áo bào thời chiến
Mặc áo quần ngày thường
Bên song sửa tóc mây
Soi gương thếp hoa vàng
Ra cửa gặp chiến hữu
Chiến hữu đều kinh hoàng
Mười hai năm kề cận
Đâu biết Mộc Lan là nữ lang!
Thỏ đực chân nhảy nhót
Thỏ cái mắt mơ màng
Cùng chạy trên mặt đất
Không rõ ta là nữ hay nam?

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
15.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Mộc Lan tòng quân

Mộc Lan là người ở Tây Lăng phủ Hàng Châu thuộc Hồ Quảng (nay là Song Long), cha là Chu Thiên Lộc, mẹ họ Dương. Ngày từ nhỏ đã xinh đẹp, thông minh, được cha mẹ yêu quý, cho học cả thơ văn võ thuật. Sở dĩ lấy tên Mộc Lan vì cha mẹ đi cầu tự trên núi Mộc Lan quê nhà, sau đó sinh ra nàng.

Riêng về võ nghệ, Mộc Lan được nhà sư chùa Đại Ngô truyền dạy các môn đao kiếm, lại giảng cho cả binh pháp, nên mới mười tuổi, mà Mộc Lan đã có tài nghệ khác thường(vị sư này chính là Ngũ Vân Thiệu, một võ tướng vì thất thủ thành Nam Xương, nên bỏ trốn rồi đổi họ tên đi tu).

Năm Mộc Lan mười bốn tuổi, cha là Chu Thiên Lộc đang giữ chức Thiên hộ hạt Song Long. Bấy giờ là năm Trinh Quán thứ hai đời vua Thái Tông nhà Đường. Nước Đột Quyết (có sách chép là Hung Nô) không vào triều cống, lại đòi đất Ký Châu. Vua Đường sai Uất Trì Cung làm Bình bắc Đại nguyên soái, Lý Tĩnh làm quân sư, vua lại ban cho Uất Trì Cung một thanh bảo kiếm và một đạo sắc thư với ý nghĩa “được sử dụng toàn vẹn mọi thứ nhằm đánh thắng Hung Nô”.

Uất Trì Cung bèn lấy quân ở mười hai trấn Hồ Quảng, trong đó có trấn Song Long và Chu Thiên Lộc được giao làm tổng quản quân mã...

Khi công văn tới nơi, đúng lúc Chu Thiên Lộc đang ốm nguy kịch. Đã mấy lần ông định cứ liều đi (vì quân lệnh cứ mười ngày phải trình diện lên điện ở phủ soái) nhưng không sao gượng được. Nhân đó, Mộc Lan bèn xin với cha mẹ cho cải trang làm con trai và tòng quân thay cha. Lúc đầu hai vợ chồng Thiên Lộc không nghe, vì không tin một đứa con gái mười bốn tuổi làm được việc như thế. Hơn nữa, việc bại lộ thì sẽ bị tru di ba họ.

Tuy vậy, tình thế hết sức khẩn cấp. Cuối cùng, Mộc Lan được giả trai, và có một gia bộc là Chu Minh cùng đi theo.

Khi nàng mặc quần áo con trai, vai đeo cung tên, lưng giắt kiếm, mặc áo bào trắng, cưỡi ngựa trắng, trông rõ ràng là một chiến sĩ hiên ngang. Tới mức mẹ là Dương thị gọi đùa là “tiểu tướng quân”.
Mộc Lan đem quân đến thành Vũ Xương vào trình diện và chuyển phong thư của cha là Chu Thiên Lộc cho quan tiết độ sứ là Uất Trì Bảo Lâm.

Thư của Thiên Lộc kể rõ bệnh tình và xin cho con trai là Chu Mộc Lan đi thay cha.

Bảo Lâm là con trai của Uất Trì Cung, cũng là bạn thân của bố Chu Thiên Lộc (Chu Nhược Hư) sau khi xem thư của Thiên Lộc, lại hỏi Mộc Lan về binh pháp, rồi đồng ý cho Mộc Lan đi thay. Và dặn Mộc Lan đóng quân ở ngoài thành, đợi các đạo binh mã của mười hai trấn rồi cùng lên đường.

Năm ngày sau, mười hai đạo quân đã đủ. Uất Trì Bảo Lâm cho thao diễn một buổi trước khi khởi hành. Trong buổi thao diễn, Mộc Lan là viên tướng Tổng quản Đề điệu trẻ nhất, nhưng võ nghệ lại xuất chúng nhất, do đó được Bảo Lâm tin dùng và mười một viên Đề điệu Tổng quản khác vị nể.

khi tiến quân tới bờ sông Hoàng Hà, Mộc Lan có viết bài thơ, trong đó có đoạn như sau:

Hoàng Hà cuồn cuộn dòng trôi mau
Sông bao nhiêu nước bấy nhiêu sầu
Lòng này vương vấn trăm ngàn mối
Hồng nhạn sang nam tiếng gọi nhau

Dòng lệ u sầu thấm đẫm khăn
Lòng này rầu rĩ lại băn khoăn
Nghĩ thương cha mẹ đang mong nhớ
Ai chuyển dùm nhau nỗi viếng thăm

Bình an hai chữ gửi hai thân
Trung hiếu lòng con quyết vẹn phần
Sóng nước Hoàng Hà ngày tháng cuộn
Lòng con thương nhớ gấp muôn lần.
Tới Đông Quan, mười hai đạo binh mã đóng trại chờ lệnh. Uất Trì Bảo Lâm tới Tràng An báo cáo với Đại nguyên soái. Tổng quản trấn Song Long là Chu Mộc Lan xin đi theo.

Tới kinh đô, Uất Trì Cung xem sổ sách của trấn Song Long, không thấy tên của Chu Thiên Lộc, bèn cho gọi Chu Mộc Lan vào hỏi nguyên do. Khi thấy Mộc Lan nhỏ nhắn trắng trẻo bèn hỏi:
- Sao cha ngươi không có mặt?

Mộc Lan quỳ vái rồi thưa:
- Phụ thân tôi vì mắc bệnh nặng nên phải xin phép cho tiểu tướng đi thay.

Uất Trì Cung lại hỏi:
- Nhà ngươi biết những gì về võ nghệ?

- Thưa, tiểu tướng cũng học được đôi chút về đao thương.

Đại Nguyên soái bèn bảo Mộc Lan ra biểu diễn. Mộc Lan vâng lời, ra giữa sân bãi rộng múa thương. Khi trở vào quân sư Lý Tịnh hỏi:
- Những thương pháp lúc nãy ngươi vùa múa học được ở đâu?

Mộc Lan thưa:
- Trình quân sư, những điều đó tiểu tướng học được từ một vị sư dạy bảo tên là Tăng Ngô.

Lý Tĩnh quay sang nói với Uất Trì Cung:
- Thương pháp ấy là của Ngũ Vân Thiệu đấy. nhưng không hiểu tại sao viên tướng trẻ này lại học được.

Lý Tĩnh bèn hỏi Mộc Lan:
- Nhà sư ấy với nhà ngươi là thế nào?

Mộc Lan thưa:
- Vị hoà thượng đó là ban thân tổ phụ tiểu tướng.

Lý lại hỏi:
- Tổ phụ nhà ngươi tên gì?

Mộc Lan nói:
- Tên là Chu Nhược Hư.

Cả Lý Tĩnh và Uất Trì Cung đều “à” lên một tiếng có vẻ vui mừng. Vì chính Lý Tĩnh và Uất Trì Cung đều cùng được Chu Nhược Hư giúp đỡ khi còn hàn vi, và đều trở thành ban bè thân thiết với nhau.

Ngày hôm sau cha con Uất Trì Cung vào bái biệt nhà vua, và cho cả Mộc Lan đi theo. Nhân tiện, Đại Nguyên soái tâu với vua Đường Thái Tông về việc Chu Mộc Lan xin tòng quân thay cha đang ốm. Vua hỏi họ Uất:
- Vì sao Đại Nguyên soái biết Chu tướng quân trẻ tuổi mà có tài cao?

Uất Trì Cung bèn kể lại sự việc nhờ có ông nội Chu Mộc Lan giúp đỡ nên mới có cơ hội phò vua giúp nước như ngày nay. Vua Đường bèn hỏi Chu Mộc Lan:
- Nhà ngươi có thể nói cho Trẫm nghe qua công việc của người làm tướng không?

Mộc Lan thưa:
- Muôn tâu bệ hạ, làm tướng phải biết dùng người. Một trong những cách dùng người là thưởng phạt phải nghiêm minh. Còn những khi lâm trận thì người làm tướng phải luôn luôn kịp thời đối phó với mọi tình thế, có thể nói tóm gọn vào một câu tuỳ cơ ứng biến.

Đường Thái Tông khen ngợi, bèn phong cho ông nội chức thị lang và phong cho Mộc Lan làm Tham tán quân vụ đi theo Uất Trì Cung.

Qua Yên Sơn, chợt có một tướng trẻ phi ngựa từ trên núi xuống chặn đường tướng tiên phong là Ngũ Đăng. Ngũ Đăng định dùng miếng đà đao, bèn quay ngựa chạy, nhưng viên tướng kia rút tên bắn trúng chân ngựa của Ngũ Đăng, khiến Ngũ Đăng ngã lăn ra đất. Đang lúc Tiêu Văn (tên viên tướng này) định giật dây cương ngựa xông vào chém Ngũ Đăng, thì ngựa của Tiêu Văn cũng bị Mộc Lan bắn trúng. Tiêu Văn cũng ngã lăn ra đất. Hai bên cùng rút quân.

Sáng hôm sau, Uất Trì Cung sai Mộc Lan đánh Tiêu Văn. Tiêu Văn thấy Mộc Lan trẻ quá thì khinh thường nói:
- Gã trẻ con kia học võ từ bao giờ mà nay định múa rìu qua mắt thợ?

Mộc Lan ung dung nói:
- Tôi là Chu Mộc Lan, mới học múa giáo được mấy tháng, xin được cùng tướng quân đối thủ. Nhưng không rõ Tiêu tướng quân cầm giáo đã chắc hay chưa?

Nói rồi hai bên xông ngựa vào cùng đánh. Được khoảng hai mươi hiệp, bỗng Tiêu Văn dừng ngựa, lùi lại hỏi to:
- Tiểu tướng kia học cách múa giáo của ai?

Mộc Lan mỉm cười nói:
- Sư phụ của tiểu tướng là một nhà sư tên gọi Ngũ Vân Thiệu.

Tiêu Văn thấy thế bèn nói:
- Thôi, hôm nay xin tạm dừng ở đây.

Nói rồi quay ngựa ra về. Mộc Lan cũng không đuổi theo.

Đêm hôm đó, Tiêu Văn cùng cha là Tiêu Chu và anh là Tiêu Võ tự đến cửa quân xin gặp Đại Nguyên soái. Uất Trì Cung và Lý Tĩnh cho mời vào. Tiêu Chu nói:
- Tôi trước đây là nha tướng của tướng quân họ Ngũ. Từ khi Nam Xương thất thủ, thầy trò tôi mỗi người một nơi. Nay được tin Đại Nguyên soái vâng lệnh đánh giặc, nên tự đến viên môn xin cho hai con được theo đòi dưới trướng.

khi Mộc Lan qua Bạch Vân Am, nhớ lời thầy dặn, bèn vào thăm Tĩnh Tùng đạo nhân và chuyển thư của Tăng Ngô hoà thượng. Đạo nhân mời Mộc Lan ăn cơm và làm thơ tặng. Mộc Lan cảm tạ và hoạ lại bài thơ, tạm dịch như sau:
Dặm ngàn cách trở nhớ mong dài
Gươm ngựa sa trường phận sự trai
Ai đó mắt tiên ai mắt tục
Biết chăng chỉ có Hoá công thôi
...
Ròng rã hơn mười năm trời. Mộc Lan bắt được nhiều tướng giỏi của Đột Quyết, rồi lại tha về, dùng kế phản gián gây cho chúng không tin lẫn nhau.

Mộc Lan đóng quân ở trấn Ngũ Lang, nhân dân quanh đó hết lòng giúp đỡ. Ở đây Mộc Lan lại bắt sống được hai tướng Phiên là Hiệt Hoà và Lợi A. Mộc Lan sai nộp tới dinh Đại Nguyên soái, Uất Trì Cung và Lý Tĩnh lại áp dụng kế của Khổng Minh và Mạnh Hoạch khi xưa, phủ dụ rồi tha cho về. Sau này chính hai viên tướng ấy cảm nghĩa mà giúp quân Đường.

Vua Phiên lại sai Khang Hoà A và Mộc Cơ ra đánh. Mộc Lan liền chọn một toán quân sĩ biết nói tiếng Phiên, ăn mặc quần áo như người Phiên, rồi tự mình dẫn đi. Nàng dặn Chu Minh treo “bài miễn chiến” và không được mở trại. Trong khi hai tướng Phiên trên đường sắp tới trại Đường, thì Mộc Lan dẫn toán quân cải trang như lính Phiên, dùng Tiếng Phiên gọi chúng mở cửa thành. Thế là Mộc Lan mở cửa chiếm thành, thu hàng những lính phiên còn lại.

Khi hai tướng Phiên Khang, Mộc trở về, thấy cờ Đường bay trên thành, sợ hãi trốn luôn.

Những lúc việc quân rảnh rỗi, Mộc Lan lại ngồi nhớ quê nhà, cha mẹ và các ban Bích Ngọc, Bích Nguyệt, nang mới viết mấy câu thơ sau:
Gió bụi sa trường nhuốm cánh hoa
Nhạn hông xào sạc tiếng thưa xa
Mây ngàn bóng liễu màu xanh toả
Năm tháng thoi đưa ánh nắng tà

Cái nợ cung tên bao trả nhỉ
Con đường binh lử vẫn xông pha.
Múa gươm một hẹn cùng trời đất
Yên định non sông, trở lại nhà.
Ít lâu sau xảy ra một sự việc khó xử. Số là, người trong vùng cảm ơn đức của Chu tướng quân, nên các bậc danh vọng nơi nầy đã làm mối cho Mộc Lan một cô gái tên là Hoa A Trân. Mộc Lan đã khéo léo chối từ. nhưng dân địa phương không nghe và cử người đến gặp Uất Trì Cung và Lý Tĩnh. Không ngờ hai vị này đồng tình và nhận làm chủ hôn. Mộc Lan đành phải theo. Đêm động phòng, Mộc Lan mời Hoa A Trân uống rượu nhẹ và xin gắng đợi công thành danh toại, về nơi quê nhà cùng gặp cha mẹ rồi sẽ thành thân. Hoa A Trân vốn rất say mê Chu Mộc Lan, lại nghe lời nghĩa khí, nên vui lòng ở riêng một am trên núi (vì trước đó Hoa A Trân đã kháng cự lời hai anh ép lấy chồng và cắt tóc đi tu). Chu Minh, vị lão bộc của Mộc Lan cũng chăm sóc Hoa A Trân rất chu đáo.

Sau đó Mộc Lan được lệnh đi lấy cửa ải Ngọc Môn. Khi Mộc Lan chiến thắng xong ở Ngọc Môn quan, bắt nhiều tướng Phiên, thì vua Phiên xin cầu hoà, hàng phục và triều cống nhà Đường như cũ.

Quân Đường ca khúc khải hoàn, khi về Yên Sơn nàng viết một số thơ. Về tới triều đình nhà vua ban thưởng. Lão bộc của Mộc Lan là Chu Minh được phong tướng quân ở cửa ải Giới Bân. Mộc Lan được phong thượng thư một bộ, nhưng nàng từ chối, xin phép được về thăm quê và chăm sóc cha mẹ già. Dtt ép mãi không được, đành phải cho về.
Trong thời gian Mộc Lan tòng quân, ở nhà bà Dương sinh thêm được hai con, một trai là Kim Lan và một gái là Kim Cúc. Lúc này Kim Lan đã chín tuổi và Kim Cúc đã tám tuổi.

Buổi gặp nhau, nụ cười nước mắt chen lẫn... Việc đầu tiên là vứt bỏ nam trang, Mộc Lan mặc xiêm áo, chải tóc cài tram, sau đó cho mời Hoa A Trân cùng gặp gỡ gia đình. Lúc này Hoa A Trân mới hiểu rõ sự tình, càng thêm kính phục Mộc Lan, nàng tự nguyện xin kết nghĩa chị em với Mộc Lan.

Sau đó mấy lần vua Đường triệu nàng hồi kinh, nhưng Mộc Lan kiên quyết từ chối, tới khi rõ sự việc Mộc Lan cải trang, và nghĩ tới công lao của cô gái họ Chu thì nhà vua không nài ép nữa và ban thưởng rất hậu.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
35.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời