Đăng bởi MinhAnh&PhuongLinh vào 14/04/2008 21:11
Ngày 18 tháng 10 năm 2007, Viện Văn học, Hội Nhà văn và gia đình Nam Trân đã trang trọng tổ chức Lễ tưởng niệm và hội thảo khoa học kỷ niệm 100 năm ngày sinh và 40 năm ngày mất của nhà thơ - dịch giả Nam Trân.
Đến dự Lễ tưởng niệm và Hội thảo khoa học có các cán bộ Viện Văn học, Hội Nhà văn, Nhà xuất bản Văn học, Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế và đại diện các cơ quan thông tấn, báo chí, các nhà thơ, nhà văn, nhà lý luận nghiên cứu phê bình văn học, những độc giả yêu thích, mến mộ tài năng thơ… của Nam Trân.
Nam Trân tên thật là Nguyễn Học Sĩ, sinh năm 1907 ở làng Phú Thứ Thượng, huyện Ðại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Ông theo học chữ Hán từ nhỏ, từng làm quan dưới triều Nguyễn. Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tích cực nhập vào con đường lớn của nhân dân, tham gia Uỷ ban kháng chiến và giữ nhiều chức vụ khác nhau cho đến khi về công tác ở Viện Văn học. Khoảng thời gian 10 năm công tác ở Viện là không lâu, nhưng những gì ông để lại cho văn chương, cho nghiên cứu văn chương vẫn khiến mọi người nhớ mãi. Ông không viết nhiều, nhưng những tác phẩm của ông đầy dấu ấn. GS. Phong Lê trong phát biểu của mình đã xúc động nói “Ngỡ như Nam Trân chỉ là một người bạn ghé đến làng thơ, ghé qua vườn thơ, và nhân tiện mà để lại một chùm, chứ không phải chủ định ở lại như nhiều bạn bè khác đã chọn việc viết văn làm thơ như một nghề, với bậc tiền bối đích thực của họ là Tản Đà. Một cuộc chơi, một chuyến ghé thăm thú vị, và chỉ vậy thôi”.
Nam Trân cũng được biết đến với tư cách là một nhà dịch thuật Hán học nổi tiếng. Ông là người tiến hành tổ chức và chủ trì dịch Ngục trung nhật ký của Hồ Chí Minh. Bản dịch Ngục trung nhật ký từ bản in đầu tiên, qua nhiều lần tái bản ở các nhà xuất bản trong và ngoài nước trở thành sự kiện văn học lớn những năm 60 thế kỷ 20.
TS. Lê Thị Dục Tú cho rằng thơ và dịch thuật của Nam Trân đem đến nét đặc sắc riêng cũng như những giá trị to lớn khi đặt nó vào ý thức canh tân văn học của các nhà văn Việt Nam trong những năm 30 thế kỷ XX. Chính ý thức này đã nhanh chóng đưa văn học Việt Nam hoàn thành tiến trình hiện đại hoá văn học, đưa nền văn học của dân tộc ta không chỉ thoát khỏi sự nô dịch của văn học phương Tây mà còn hoà nhập và trở thành một bộ phận của văn học thế giới.
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh, 40 năm ngày mất của Nam Trân, chúng ta không chỉ ghi nhận những đóng góp có giá trị của ông mà còn thấm thía trước tinh thần xuất xử, sự lựa chọn và hành vi ứng xử đáng trân trọng, học tập của một nhà thơ-dịch giả, một trí thức yêu nước.
Đăng bởi MinhAnh&PhuongLinh vào 14/06/2008 10:04
Từ một trình độ Hán học uyên thâm như thế, ông Nguyễn Huệ Chi (NHC) đi vào làm Thơ văn Lý - Trần. Nói cho đúng, đây là một tập hợp văn bản công phu với công sức của nhiều người, nhưng lại in chữ giản thể. Ở đây không thể nói nhiều chuyện chung quanh cuốn sách này (Chẳng hạn, bản thảo do công lao to lớn của các cụ lão nho: Nguyễn Đức Vân, Đào Phương Bình, có cả Nam Trân làm; công lao của “ông đồ Hỉ” (tên gọi thân mật GS Đỗ Văn Hỉ, một nhà Hán Nôm học cự phách) trong việc dịch tất cả những văn bản khó trong ấy, nhất là các văn bia cổ..., và đến chết “ông đồ Hỉ” vẫn uất hận khôn nguôi trong việc bị đè nén... Và thật sự thì cụ Nghè Đinh Văn Chấp, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Ngô Tất Tố... đã dịch phân nửa văn bản Lý - Trần rồi. Và chú thích, dịch... nhất là những vấn đề liên quan đến Phật học còn phải bàn. Nhưng đó không phải là chủ đích của bài báo này). Trong cuốn Thơ văn Lý - Trần này, lẽ ra ông NHC chỉ là người biên soạn, biên tập..., nhưng đến tập II, quyển thượng thì ông lên làm chủ biên... Và quyển hạ, tập II, đến nay sau 40 năm từ khi in tập I, vẫn chưa ra. Thật oái ăm! Giờ tôi chỉ xin nói những chuyện “hai năm rõ mười” thôi.
Năm 1969 ở Sài Gòn, Tu thư Đại học Vạn Hạnh in cuốn (Tuệ Trung Thượng sĩ) Ngữ lục do Trúc Thiên dịch. Khi biên soạn Thơ văn Lý - Trần, ông NHC ghi “trong khi dịch thơ văn Trần Tung (tức Tuệ Trung Thượng Sĩ), chúng tôi có tham khảo bản dịch của Trúc Thiên, do Tu thư Đại học Vạn Hạnh ấn hành, 1969” (Thơ văn Lý - Trần, t.II, quyển thượng, H., 1989, tr. 225).
Nhưng “tham khảo” như thế nào? Thôi không nói đến phần “tham khảo” văn xuôi, vì phải mất công đối chứng, chỉ nói về thơ thôi. Đối chiếu bản dịch thơ của ông NHC và của Trúc Thiên thì thấy: ngoài việc lấy lại vần, lấy chữ, lấy nguyên si một số câu; ông NHC “xuất nhập” một số ý, “biên tập” lại để thành bài của mình và rồi ký luôn tên mình, xoá mất tên Trúc Thiên vốn là người đầu tiên dịch bài thơ ấy.
Trường hợp các bài Thế thái hư huyễn - Hoạ huyện lệnh, Thị chúng, Tặng Thuần Nhất pháp sư, Thị đồ, Chí đạo vô nan... đều là như vậy.
Bài Thế thái hư huyễn, hai câu đầu ông NHC lấy nguyên si (chỉ khác Trúc Thiên dịch chữ phó là gởi, ông để nguyên là phó):
Vân cẩu đổi thay lắm vẻ mà
Mơ màng gởi trọn giấc Nam kha.
(Trúc Thiên dịch, Ngữ lục, Sđd, tr.123)
Vân cẩu đổi thay lắm vẻ màHai câu cuối:
Mơ màng phó trọn giấc Nam kha.
(NHC dịch, Thơ văn Lý - Trần, t.II, quyển thượng, tr.250)
Thấy chăng đàn én lầu Vương Tạ
Nay hết vàng son lạc vạn nhà.
(Ngữ lục, Sđd)
Hãy xem đàn én lầu Vương TạTheo ý tôi, câu dịch Trúc Thiên sáng tạo hơn, hay hơn, nhất là chữ vàng son, chữ lạc thật đắt, khi nhớ câu thơ Đường về Vương, Tạ của Lưu Vũ Tích: Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến,/ Phi nhập tầm thường bách tính gia. Dịch thơ không phải dịch chữ, mà dịch cái hồn chữ. Ông NHC dựa vào câu thơ dịch của Trúc Thiên, sửa vài chữ cho là sát nghĩa; còn 4 câu giữa thì cũng chỉ xoay đi đổi lại mà thôi.
Nay xuống làm thân với mọi nhà.
(Thơ văn Lý - Trần, Sđd, tr.250)
Đã từng nối gót Tứ Minh Cuồngthì bản NHC là như sau:
Ưng mến Y Vương với Quỉ Vương.
Từng phen nối gót Tứ Minh CuồngDựa vào vần cũ, bài cũ, “xuất nhập” một hai chữ rồi ký tên mình. Bài Tặng Thuần Nhất pháp sư, bản dịch của Trúc Thiên mở đầu: Pháp thân tịch diệt sắc thân còn; bài Thị chúng mở đầu: Thôi tìm núi Thiếu với khe Tào, bản NHC cũng hoàn toàn là như vậy (trong khi Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch vần khác: Thôi tìm Thiếu thất với Tào khê); bài Đại đạo chí nan, Trúc Thiên dịch: Quay đầu, vặn óc luống bần thần, thì ông NHC đảo lại chút đỉnh: “Bần thần, vặn óc với quay đầu”, tính ra chỉ khác mỗi chữ với và luống.
Nào phục Y Vương với Quỉ Vương.
Mừng sáng nghe oanh hót xóm gầnÔng NHC bèn chữa lại:
(Cách lân hân thính hiểu oanh đề: Mừng nghe chim oanh bên láng giềng báo sáng) (Nhật ký trong tù, 1960, tr.66).
Oanh sớm, mừng nghe hót xóm gầnrồi ký tên mình bên cạnh. Đúng là “lợn lành chữa thành lợn què”! Câu thơ dịch của Nam Trân đã là tối ưu so với câu thơ nguyên tác, xuôi thuận, đẹp về tiếng Việt. Còn oanh sớm là oanh gì? Có oanh chiều, oanh tối không? HIỂU là sáng sớm, ở đây nó là trạng ngữ của oanh, con chim oanh hót vào buổi sáng sớm, tức là nó báo sáng, chứ oanh sớm thì tiếng Việt chẳng ai nói thế, viết thế cả. Bài Chúc than (Hàng cháo), ông Nam Trân: quán rượu, ông NHC chữa tiệm rượu, ông Nam Trân: chỉ có cháo hoa…, ông NHC: nào món cháo hoa… thế là đứng tên! Bài thơ tả một quán nghèo trên đường, quán chỉ bán cháo hoa, muối trắng. Vậy cách dịch chỉ có thật đúng cái thần của câu thơ, còn nào món là có ý tán dương món ăn của quán ư!?
Tiểu xảo, “đoạt thai” Trần Hải Yến*
Đại ngôn, “hoán cốt” Thích Thiền Sư
Ta chợt biết rằng vì sao ta sống -Miễn trái tim ấy là một trái tim nhân hậu, chứ không phải “nhất thế tử tâm hoài đại độc” như Nguyễn Du nói.
Vì đất nước cần một trái tim
(Trịnh Công Sơn)
Đâu ngờ người ấy chẳng ra chi!Tôi xin phụng hoạ, tấp tểnh “nối điêu” bài xướng như sau:
Vu cáo người ta phỏng ích gì?
“Dân chủ”, lập trường còn khuất tất,
Văn chương, chữ nghĩa đáng hoài nghi.
“Thiệp phiên” đâu phải là “qua bến”,
Síp - lê ắt hẳn phải dùng i.
Tây Tàu thôi thế nên siêng học,
Giáo sư đừng để bị khinh khi.
Hóng hớt, thâm thù có ích chi!
Nói năng hỗn ẩu có ra gì?
Dân chủ chớ nên dùng vu cáo,
Văn chương hẳn phải tránh hiềm nghi.
“Phên dậu” ngàn năm chưa hoá bến,
“Síp - lê” vạn thuở vẫn nguyên i.
Nhớ lời Phật dạy, sân si dứt,
“Bất kị bất cầu”, phúc có khi.
Đăng bởi MinhAnh&PhuongLinh vào 25/07/2008 03:37
Cách mạng Tháng Mười đã đưa đến sự ra đời của Liên bang Xô Viết (Liên Xô) và sản sinh ra những con người Xô Viết - những con người đã đưa nước Nga vốn lạc hậu so với nhiều nước Âu - Mỹ trở thành cường quốc công nghiệp thế giới, đi hàng đầu trong việc đánh bại chủ nghĩa phát xít để bảo vệ nền văn minh nhân loại trong chiến tranh thế giới thứ hai, đi tiên phong trong việc đưa người vào vũ trụ. Cũng chính là những con người Xô Viết đã thiết tha với cuộc đấu tranh giữ gìn hoà bình thế giới, nhiệt thành ủng hộ cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa trong phong trào giải phóng dân tộc.
Hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà những nhà văn - nhà báo đất Quảng vào những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ như Nguyễn Văn Bổng, Nam Trân, Nguyễn Thành Long, Phan Thao đã tìm thấy ở các nhà văn Liên Xô những tình cảm trong sáng, những chỗ dựa thân thiết.
Nhà văn Nguyễn Văn Bổng kể lại: “Từ sau 1949, ở Liên khu V thỉnh thoảng nhận được Người Xô Viết chúng tôi của B.Pôlêvôi, Ngày và đêm ở Xtalingơrát của X.Ximônốp, Mùa xuân ở Xaken của G.Giulia, Ngôi sao của Kadakêvich, Pari sụp đổ của Lêrenbua... Một số truyện trong Người Xô Viết chúng tôi được in thành sách do Chi hội văn nghệ Liên khu V xuất bản. Sách được hoan nghênh nhiệt liệt và đi đến đâu cũng nghe cán bộ, chiến sĩ kể lại, bàn bạc về những gương anh hùng của nhân dân Xô Viết. Những sách ấy của nước bạn gợi cho chúng tôi phải sống và chiến đấu như thế nào, gợi ra cho chúng tôi phải viết về đồng bào, chiến sĩ và đất nước mình đang kháng chiến ra sao” (1).
Người Xô Viết trong tác phẩm của B. Pôlêvôi trong “Chiến tranh thế giới thứ II” - đó là ai? Là Mikhaiin - Xiniki - người chiến sĩ vệ binh nhỏ vé đã trốn khỏi trường quân sự để được tiếp tục chiến đấu; là Tarakum - người trồng nho đã biết biến một ngôi trường ở một ngã tư đường phố thành một thành trì vững chắc chống phát xít; là Bêlơgơrut - người đàn bà nông dân đã hy sinh gia đình mình, con cái mình, nhà cửa mình để cứu lấy lá cờ của một trung đoàn xe tăng; là người lính trinh sát già Xêrênicốp; là anh chiến sĩ công binh đã làm đổ một cách tài tình những cầu đập, đường sắt và nhà cửa không để rơi vào tay bọn phát xít nhưng lại nhớ day dứt những công trình hoà bình trước kia của mình; là người con gái trinh sát trẻ tuổi mảnh khảnh, với cái tên hiệu thơ mộng là “Bạch Dương”, đã biết hy sinh cho Tổ quốc những gì quý giá nhất của chị; là Phôminích - người lính làm cầu của thành Xtalingơrát trong những giờ phút ngắn ngủi trên tiền tuyến đã học tập để trở thành một tay thiện xạ; là Malích Gápđulin - nhà bác học đang sống mà đã trở thành người anh hùng của một bản anh hùng ca dân gian; là cụ Cudômin đã không thèm nhận những đồng tiền mua chuộc của bọn phát xít mà còn tạo điều kiện cho Hồng quân tiêu diệt chúng; là chị Catarin không sợ hiểm nguy loan báo cho bà con trong thôn tin Hồng quân duyệt binh ở Matxcơva trong vòng vây của quân phát xít để bà con giữ vững tinh thần, và quân phát xít đã giết chị; là anh trung uý phi công bị kẻ thù bắt, bị tra tấn dã man nhưng vẫn không một lời khai báo, đã nhổ vào mặt kẻ thù và nói với chúng “Người Xô Viết chúng tao đây!...”. B. Pôlêvôi viết: “Rất nhiều những người Xô Viết..., nam cũng như nữ, những anh hùng khiêm tốn của cuộc chiến tranh - do sự khôn khéo của họ trong chiến đấu, do lòng dạ bền bĩ, tinh thần đoàn kết vô địch của họ, lòng yêu vô hạn của họ đối với Tổ quốc, họ đã bẻ gãy thế lực của chủ nghĩa phát xít. Những con người Xô Viết giản dị, lớn và nhỏ... đã nhân danh nhân dân của họ đáng được khen thưởng. Nhưng làm như thế nào khen thưởng tất cả những người dân Xô Viết, vì họ là những con người Xô Viết” (2).
Qua bản dịch của Nam Trân, hình ảnh những người Xô Viết từ trong tác phẩm của B. Pôlêvôi như một ngọn gió trong lành đến với người Việt Nam ở Quảng Nam, ở Liên khu 5, góp phần tiếp sức cho cuộc chiến đấu gian nan và ngoan cường của dân tộc ta trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp.
Nhà văn Nguyễn Thành Long - sinh ở Nha Trang nhưng nguyên quán ở Quảng Nam, trong thời gian kháng chiến chống Pháp từng có mặt ở chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng kể lại: “Chúng tôi in một số tác phẩm dịch từ văn học Xô Viết ra như “Ngôi sao” của Kadakêvích (Phan Xuân Hoàng dịch) “Người Xô Viết chúng tôi” của B. Pôlêvôi (Nam Trân dịch). Năm 1952 tôi cho in cuốn Kể lại một số tiểu thuyết Xô viết (tôi đọc bản tiếng Pháp rồi kể lại, do Nhà xuất bản “Miền Nam” in). Tôi thuyết minh về đất nước Liên Xô (dù rằng bây giờ tôi chưa hề đến được đất nước này) trong những lần đi tham gia các chiến dịch” (3).
Cũng trong những năm kháng chiến chống Pháp, ở Liên khu 5, nhà báo Phan Thao đã dịch tập Người mẹ của Goocki, một tiểu thuyết nổi tiếng của văn học Cách mạng Nga. Nhưng đáng tiếc là tác phẩm không được in ngay. Mãi đến sau khi Phan Thao qua đời ở Hà Nội, sách mới được các nhà văn Liên khu 5 sưu tầm lại và đưa in ở Nhà xuất bản Văn học.
Văn học của nước Nga cách mạng, văn học Xô Viết đã từng gắn bó với đất nước và nhân dân ta. Giờ đây Liên bang Xô Viết đã tan rã, nhưng những gì mà Cách mạng Tháng Mười đã đóng góp với văn minh nhân loại, những giá trị nhân văn của nền văn học do Cách mạng Tháng Mười tạo ra vẫn được loài người tiến bộ trân trọng lưu giữ.
Đăng bởi MinhAnh&PhuongLinh vào 30/10/2009 09:15
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 30/10/2009 09:42
Khảo sát về giọng nói Quảng Nam là một công trình lớn cần có sự đóng góp của nhiều người, nhiều giới. Không riêng gì Quảng Nam - Đà Nẵng có những thổ ngữ hoặc cách phát âm khiến nhiều người khác khó nghe, khó hiểu thì các địa phương khác cũng có những trường hợp tương tự như vậy. Nhưng đó lại chính là hồn quê của mỗi địa phương. Chỉ cần nghe giọng nói, là người ta nhận ra bóng dáng của quê nhà - đã có lần tôi cảm nhận:
Bóng hình này giống người taỞ đây, tôi chỉ mạn phép bàn về giọng Quảng trong sự ngẫu hứng sau khi đọc bài vè của tác giả Nguyễn Tiến Nhẫn in trong tập Bảo An đất và người (NXB Đà Nẵng, 1999). Thử đọc bài vè này, ta có thể sẽ hiểu ít nhiều một vài kiểu phát âm của người Quảng Nam:
Nhưng kìa giọng nói như là giọng tôi
Hồn quê đặt ở trên môi
Tưởng nghìn cây số xa xôi vọng về
Quê tôi A phát thành OAKhông những thế, ta thấy họ còn phát âm OAI thành UA (như nhớ hoài: nhớ hùa); OI thành UA (như nói năng: núa neng); ĂN thành EN (như muối mặn: muối mẹn) v.v… Có chuyện rằng, một cậu bé Đà Nẵng thấy con gì đó đang bò trên tường, vừa kêu lên vừa đưa tay chỉ cho thằng bạn mới từ Sài Gòn ra xứ Quảng chơi:
Ă thành E hết, AO ra Ô mà...
Chừ hay mai mốt anh ơiỞ đây, chữ “trổ trời” có thể hiểu là tính từ chỉ một hành động nào đó vượt ra ngoài khuôn phép - chẳng hạn, đứa con trong nhà không ngoan, hư đốn quá lắm, người mẹ mắng: “- Cái thằng hư trổ trời!” là vậy. Nhưng cũng để diễn đạt ý nghĩa tương tự, ở cấp độ thấp hơn, người ta còn dùng từ “hoang”, như: “- Cái thằng ni hoang quá”. Người ta gọi là “ngẳng” để chỉ sự nghịch ngợm, như: “Cái thằng chơi ngẳng ghê, ai đời hắn lấy kéo cắt râu mèo”. Ta đọc tiếp:
Chu choa lâu rứa lơi bơi trổ trời
Ba nhe là bậu ba rơi
Ba lia, ba lém cùng đời ba lơn
Mưa dầm thấm đất lấm lem
Mưa chi dai nhách ba bên bốn bề
Mùa nam cau chuối héo queoỞ đây, “ô” là ao, “cạn xịt” nghĩa là nước trong ao hồ đã cạn chỉ còn xăm xắp nước, tương tự “ít xịt” là rất ít; “miết” là mãi, chỉ một hành động kéo dài - chẳng hạn câu thơ của Lưu Trọng Lư “Mưa chi mưa mãi”, người xứ Quảng hiểu là “Mưa chi mưa miết”; “nghí ngỡn” ta có thể hiểu là dễ ngươi, lờn mặt, đùa giỡn thái quá tuỳ ngữ cảnh, như: “-Đừng có nghí ngỡn, sắp mưa rồi đó, mau chạy về nhà đi”; “dị” là mắc cỡ, e thẹn; còn “dị òm” là hết sức mắc cỡ, tương tự như thế người ta còn nói “mắc tịt”...
Vàng rùm đồng lúa, ốm teo cả người
Trâu bò hết cỏ nhá nhơi
Ô hồ cạn xịt, phơi khô dâu tằm
Hạn chi hạn miết khô rang
Nắng chi nắng miết nắng chang chang trời
Nắng cho hết nghí ngỡn cười
Ở trần chẳng dị, quạt lì ra tay
Mùa ni bí rị phát khùng“Bí rị” là bít bùng, không lối thoát, tắc nghẽn như trong câu hỏi: “Buồn chi mà mặt mày bí rị rứa?”; nhưng “rị” lại là kéo, như: “- Cây ni nặng lắm, bọn bay tới rị giùm tau với”; “túi” là tối, còn “túi thui” là rất tối...
Nực chi xà lỏn vẫn lùng bùng tai
Cầu trời túi mốt sớm mai
Nồm về thả cửa mát rười rượi nhau
Tới đây tao biểu mi nè“Biểu” là bảo; “phỉnh” là dụ dỗ, gạ gẫm; “ngọt xớt” là rất ngọt... Trong ca dao xưa ở xứ Quảng có câu:
Cháo ngọt đậu ván bát chè thơm thơm
Mình đâu có phỉnh mà lờn
Uống ăn ngọt xớt còn thơm lựng lừng
Một nong tằm là năm nong kénThú vị quá, ta hãy tìm hiểu thêm một vài thổ ngữ khác, chẳng hạn “điệu” là làm dáng như: “- Chà! Bữa ni ăn mặc điệu quá ta!”, tương tự như thế còn có chữ “gồ” nữa; “gò” là tán tỉnh như: “-Cái thằng ni trổ trời, hỉ mũi còn chưa sạch mà đã gò gái”; thuở nhỏ, tôi còn nghe một từ tương tự là “cua” như: “- Anh Tư đi cua gái hay reng mà cái đầu láng mướt rứa hè?”; “ế” dành để chỉ những cô gái lỡ thì, không có người cưới hỏi; “ghế” là chỉ cơm độn với ngũ cốc như: “-Cơm bữa ni ghế với khoai lang”; “hú hí” là nhỏ to với nhau; “in” là giống nhau như đúc; “không reng (răng)” là không sao, đừng sợ như: “- Chó sủa thôi chớ không reng mô”; “lợt nhớt” là quá lợt; “rượng” là “ngứa nghề”; “sít rịt” là sít với nhau không hở; “trịt” là tẹt như: “- Cô kia cái mặt cũng dễ coi nhưng tiếc cái mũi trịt”; “ủm” là thu hết về cho mình, như để chỉ hành động ôm em bé vào lòng mình làm cho bé ấm áp, người ta nói: “- Ủm em”, còn “ẵm” là bồng v.v...
Một nong kén là chín nén tơ
Bạn phỉnh ta chín đợi mười chờ
Linh đinh quán sấm, dật dờ quán sen
Con chim se sẻTa biết “kỉnh” là biếu, “lia” là ném, là vứt. Lại nữa, “phách” là phách lối, kiêu căng, kiêu ngạo như: “- Mày chữ nghĩa bao nhiêu? Không đầy lá mít! Đừng có mà làm phách”; “xanh xảnh” là nói hỗn, thiếu lễ phép như: “- Cô kia nói chuyện với bà gia mà cứ xanh xảnh cái giọng”; “yểu xìu” là quá yếu; “tổ chảng” là to lớn, có câu nói: “- Đình làng tổ chảng uy nghi lạ thường”; nhưng mập quá cỡ thì họ là nói “mập ú”; trái cây mua về, chưa chín, thường người Quảng Nam bỏ vào trong hũ gạo, đợi chín thì gọi là “giú”; “cái ảng” là cái lu như: “- Chiều ni mi đi gánh nước đổ đầy ảng nghe!”; “giả đò” là “giả vờ”, tương tự còn có “làm bộ làm tịch” v.v... Ca dao Quảng Nam có câu:
Nó đẻ mái tranh
Tôi vác hòn sành
Tôi lia chết giãy
Tôi đem tôi kỉnh
Cho thầy một mâm
Thầy hỏi chim gì?
Con chim sẻ sẻ
Giả đò buôn kén, bán tơKhi nghe mẹ ru em:
Đi ngang qua ngõ đưa thơ cho chàng
Chiều tà ngả bóng nương dâuThì ta hiểu “vịn” là “dựa vào”. Không chỉ có thế, họ còn nói “thoạ” là cái hộc tủ; “cụi” là tủ đựng thức ăn, đặt dưới bếp - thông thường thị dân còn gọi là cái “gạc măng rê” (phiên âm Garde manger của Pháp). Cái cụi này ở nông thôn xứ Quảng, người ta thường để bốn cái tô bằng sành, rẻ tiền, dưới bốn chân tủ, đổ đầy nước để ngăn kiến, sâu bọ không theo đó mà leo lên; “lủm” là từ chỉ hành động bốc một vật gì đó bỏ vào trong miệng, như: “-Miếng thịt mới đây đứa mô lủm rồi?”; “trã” tương tự như cái chảo, làm bằng đất, không sâu chỉ trèn trèn, dùng để kho cá; “kiệt” là hẻm; “kiết” là keo kiệt, như: “- Thằng cha ni giàu mà kiết”; “đầu dầu” là đầu trần, như thấy người kia đi giữa nắng chang chang không đội nón, người này nói: “- Reng (răng) mà đi đầu trần (hoặc đầu dầu) rứa? Không sợ cảm néng (nắng) à?”; “ở dổng” là ở truồng, như người ra thường nói: “-Không biết dị à? Lớn rồi mà còn ở dổng!”; “hục” là “hố” như ta thường nghe: “- Mi ra ngoài kia đào cho tao cái hục, sâu chừng nửa thước”; ướt đẫm thì họ nói là “ướt nhẹp” v.v...
Vịn cành bẻ lá em sầu duyên tơ
Tay em cầm nón, tay em chọn loòng boonghoặc:
Trái nào vừa ngọt, vừa ngon
Dành riêng cho bạn nghĩa nhơn nặng tình
Trái loòng boong trong tròn, ngoài méohoặc:
Trái thầu đâu trong héo, ngoài tươi
Thương em ít nói, ít cười
Ôm duyên mà đợi chín mười con trăng
Lụt nguồn trôi trái loòng boongNhưng thật ra, không phải chúa Nguyễn là người phát hiện ra trái cây này và đầu tiên khẳng định là nó ăn được. Trước đó, người Chiêm Thành cư ngụ trên mảnh đất này chắc chắn họ đã biết đến, nhưng không rõ họ đặt tên là gì? Có người cho rằng, loòng boong đó là cách phát âm chữ “T’rbon” của người Cơ Tu ở huyện Giằng hiện nay. Khi lập được nghiệp đế vương, vua Gia Long xuống Dụ hàng năm, vào tháng 9, dân xứ Quảng phải tiến trái loòng boong ra kinh đô để dùng vào việc tế tự. Theo Đại Nam nhất thống chí: “Đầu đời Minh Mạng, nhà vua ban cho tên là Nam trân”. Như thế cái tên Nam trân - tức quả quý như ngọc ở phương Nam ít ra đã có từ năm 1820. Chưa dừng lại đó, năm Minh Mạng thứ 16 (1835), nhà vua cho đúc chín cái đỉnh đồng lớn (Cửu Đỉnh) đặt ở Thế Miếu. Theo sử sách, vua Minh Mạng bắt chước vua Hạ Vũ xưa đúc Cửu đỉnh tượng trưng chín châu bên Tàu. Nhưng cũng còn có cách lý giải nữa, mỗi đỉnh tượng trưng cho một ông vua triều Nguyễn: Cao (Gia Long), Nhân (Minh Mạng), Chương (Thiệu Trị)... và cuối cùng là Huyền đỉnh. Huyền còn có nghĩa là mất. Vô tình (hay sự tiên đoán) về vận mệnh triều Nguyễn? Quan sát Cửu đỉnh, chúng ta bàng hoàng lẫn khâm phục trước nghệ thuật đúc đồng của người thợ khéo tay của Huế xưa. Tất cả có 135 hình được chạm trổ trên cửu đỉnh, trong đó có hình ảnh Nam trân khắc trên “Nhân đỉnh”- như thế đủ biết loại trái cây này được vua nhà Nguyễn trân trọng biết chừng nào.
Cha thác mẹ còn chịu chữ mồ côi
Mồ côi tội lắm ai ơi
Đói cơm không ai biết, lỡ lời không ai phân
Ai eng chè đậu doángBây giờ, ta tiếp tục đọc bài vè trên, đoạn nói về nghề trồng dâu nuôi tằm rất nổi tiếng ở đất Quảng. Nhân đây, thiết tưởng cũng nên nhắc lại rằng, từ năm 1615, thế kỷ XVII, chúa Nguyễn Phúc Lan đã xe duyên với cô thôn nữ Đoàn Thị Ngọc Phi ở thôn Diên Sơn (huyện Diên Phước). Hai người sống với nhau rất hạnh phúc ở dinh trấn Thanh Chiêm. Về sau người dân Quảng Nam xưng tụng bà Ngọc Phi là Bà Chúa Tầm Tang, vì đã có công lớn trong việc khuyến khích nghề trồng dâu nuôi tằm. Vùng đất này nổi tiếng với các mặt hàng tơ lụa không thua kém gì hàng của nước ngoài, một phần là nhờ chủ trương đúng đắn của bà. Hiện nay, lăng mộ của bà, gọi là lăng Vĩnh Diên toạ lạc tại Gò Cốc, làng Chiêm Sơn, xã Duy Trinh (Duy Xuyên) được UBND tỉnh Quảng Nam công nhận là di tích văn hoá, lịch sử. Hằng năm đến ngày 14.3 âm lịch, nhân dân và tộc họ quanh vùng thường làm lễ dâng hương và tưởng niệm công đức của bà.
Ai eng đậu hảu không?
Ai eng hột dịt lộn
Ai ít ngọt? Xôi hông...?
Đến Faifo, khách lạ
Ai nấy cũng dửng dưng:
Quảng Nam đất văn vật
Sao lắm bợm “eng hung”?
Eng hung và uống nhiều
Thần Dạ dày muôn tuổi
Đặc điểm có gì đâu?
Chè ngọt gia tí... muối
Vì thế nên ngày xưa
Thí sinh ra đất Huế
Môn chữ càng được khen
Môn “eng” càng bị chế
Làng ta ươm dịt tơ tằmỞ đây ta có thể hiểu “dịt” là “dệt, “dúng” là giống; “mướt rượt” là rất mướt, mướt hết chỗ chê… Đọc qua cái câu “Lụa mỡ gà, vải Hà Đông”, xin đừng nhầm với đại danh Hà Đông ở ngoài Bắc trong câu thơ “Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”. Xin thưa, Hà Đông chính là Tam Kỳ ngày nay, được đổi tên từ năm 1906. Ta hiểu “hẹp tré” là hơi hẹp; “trơn lu” là rất trơn v.v... Vậy đó, giọng nói Quảng Nam với những đặc trưng riêng đã tạo nên một bản sắc khá độc đáo. Các nhà thơ quê quán ở Quảng Nam cũng ít nhiều tận dụng yếu tố này làm nên những vần thơ đặc sắc. Chẳng hạn, trong tiểu thuyết Quán Gò đi lên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, người quê Thăng Bình có cho biết nhà thơ Tường Linh, người quê Quế Sơn từng viết:
Tay thoi dịu nhút đũa tranh sợi vàng
Vải ta chẳng dúng láng giềng
Khổ tuy hẹp tré nhưng mình mịn thanh
Lụa mỡ gà, vải Hà Đông
Đông hàn ấm hỉn, hè nồng mát ghê
Tuýt-so chỉ đánh hết chê
Đúng bộ đồ lớn bắt mê bắt thèm
Sa-tanh, hạnh phước đệm bông
Mặc vô mướt rượt anh hoanh hơn nàng
Trơn lu láng cón tay rờ
Gái trai thêm ngộ, thêm gồ, thêm ngon
Rủ nhau vô núi hái chơm chơm,Thế thì vần “ÔM” ở Quảng Nam người ta đều phát âm thành “ƠM” hết trọi. Nhưng không chỉ có thế, vần “AM” lại cũng phát âm thành... “ÔM”! Thử đọc bài thơ của nhà thơ Tú Rua, người quê Đại Lộc:
Nhớ bạn hồi còn học chữ Nơm.
Sáng sáng lơn tơn đi nhử cuốc,
Chiều chiều xớ rớ đứng câu tơm.
Mùa đông tơi lá che mưa bấc,
Tiết hạ hiên tranh lộng gió nờm.
Nghe chuyện xóm xưa thời khó lửa,
Sảng hồn, sấm nổ tưởng đâu bơm!
Rứa mới kêu là chất Quảng Nôm,Ta thử đọc thêm bài thơ Hồi xưa tôi đã tỏ tình của nhà thơ Nguyễn Nhật Ánh để hiểu thêm một vài từ thông dụng khác:
Ăn cục nói hòn chẳng thôm lôm.
Có chàng công tử quê Đà Nẽng,
Cưới ả Thuý Kiều xứ Phú Côm.
Cha vợ đến thăm chào trọ trẹ,
Mẹ chồng không hiểu nói cồm rồm.
Thêm ông hàng xóm người Hà Nội,
Chả hiểu mô tê cũng toạ đồm.
Nề mi mới dọn tới bên nhà“Tau” là “tao”, “chưn” là chân; “dị òm” là mắc cỡ, mắc cỡ lắm lắm; “một cấp” là một lát; “nói lung” là nói giỡn; “ưng” là thương; “gướm” là “gớm”; “nhớ hung” là rất nhớ, nhớ lắm; “thụng” là túi; “xí nữa” là chút nữa; “y nguy” là y nguyên; “răng” là sao, làm sao... Sực nhớ, nhà thơ Dũng Hiệp của đất Quảng đã từng viết mấy câu thơ như vầy:
Dị òm tau cũng bước chưn qua
Ba đi một cấp, răng về kịp?
Mẹ chắc giờ ni ở chỗ bà
Mi ở Điện Bàn hay Duy Xuyên
Tết ni không nói chuyện tình duyên
Tết mô mới nói cùng mi hỉ
Không nói mần răng ván đóng thuyền
Nói thiệt chớ ai thèm nói lung
Nghĩ chi lạ rứa, tội tau không
Gặp mi bữa nớ ưng mi gướm
Cái nhớ mỗi ngày thêm nhớ hung
Quà xuân, tau nhét vô trong thụng
Xí nữa gặp mi, tau lấy ra
Còn y nguy đó, răng mà mất
Rủi mất thì tau sắm lại quà...
Tiếng Quảng Nam mình nói rất thôĐấy! Tiếng Quảng Nam thô kệch vậy, như “cháo” thì phát âm thành “chố”, “gạo” thành “gộ” v.v... Nhưng bằng sự thông minh, tài trí của mình, người ta đã vận dụng để giáng một đòn độc chiêu. Bốn câu thơ trên được viết vào thời 1963. “Dắt chó ngao mà nói chó ngô”. Ngô nào vậy? Thật thâm trầm và sâu sắc biết chừng nào.
Vần “ao” thì lại nói vần “ô”
Chơi xuân khách Mỹ trên hè phố
Dắt chó ngao mà nói chó ngô!
Lồi, Lạc thương vongTừ Lồi phổ biến đến nỗi những di tích cũ của Chàm, dù thành, quách, tượng... cũng bị Lồi hoá. Thành đất ở Quảng Trị, Huế và Quảng Nam, gần Tuý Loan (Đại Lộc hiện nay vẫn còn di tích) đều được gọi là thành Lồi. Bà Thiên Y A Na, trong các văn tế cũ (chẳng hạn làng Phước Ninh- Đà Nẵng) cũng gọi là Lồi Phi phu nhân. Một số tượng nơi này, nơi nọ cũng gọi tượng Bà Lồi.
Chàm, Chợ, Mọi rợ
Đăng chủ hương hồn
Đồng lai cộng hưởng
Hồn quê ở tận đâu đâuChúng ta từng thấy Trần Hữu Thung, Thái Kim Đỉnh đã làm Từ điển tiếng Nghệ (NXB Nghệ An, 1998), Bùi Minh Đức làm Từ điển tiếng Huế (NXB Văn Học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học XB năm 2004), Nguyễn Văn Ái chủ biên Phương ngữ Nam bộ (NXB TP. Hồ Chí Minh, 1994)… Biết đến bao giờ mới có người Quảng Nam đứng ra làm quyển Từ điển tiếng Quảng Nam?
Gặp đồng hương nhớ nôn nao quê nhà
Ở gần đây chứ đâu xa
Nghe giọng nói gặp quê nhà vậy thôi
Đăng bởi MinhAnh&PhuongLinh vào 26/05/2014 17:38
Câu ca dao theo suốt một thời tuổi trẻ của tôi, như một nhịp cầu gắn liền hai vùng đất: “Học trò trong Quảng ra thi / Thấy cô gái Huế chân đi không đành”, lại khẳng định một trong những tinh hoa của cả hai nơi, là truyền thống hiếu học và vẻ đẹp rạng ngời của đất và người chốn kinh kỳ, cái đẹp của thiên tính nữ và của cả người phụ nữ. Đó cũng là lẽ tất yếu của một thời đại lịch sử với nền giáo dục văn chương cử tử.
Kinh đô là trung tâm giáo dục. Thời nhà Nguyễn, thi Hương được tổ chức ở mỗi tỉnh, để chọn ra các cử nhân. Sau đó về kinh thi Hội là thi vòng loại để chọn người vào thi Đình. Thi Hội không cấp bằng (chỉ có người đỗ đầu kỳ thi Hội được phong tặng danh hiệu Hoàng giáp), nhưng vượt qua kỳ thi Hội mới được tham dự thi Đình, để chọn ra tiến sĩ theo ba cấp là đệ nhất cấp, đệ nhị cấp, đệ tam cấp và phó bảng. Thời ấy, không chỉ có học trò xứ Quảng ra Huế học, mà hầu hết các vùng đất trong cả nước đều tập trung về Huế học. Và, cũng không chỉ có xứ Quảng mới có truyền thống hiếu học, mà còn có học trò xứ Nghệ (lúc đầu chung cho cả Nghệ An và Hà Tĩnh), rồi Kinh Bắc, Thăng Long,... nhưng xứ Quảng là vùng đất mới, đất nghèo khó, đất gió dông, thiên tai hạn hán, đất dữ dằn tai ương trên con đường mở cõi về phương Nam, các sĩ tử lại lặn lội ngược dòng về kinh đèn sách. Trong hàng trăm những danh nhân xứ Quảng xuất hiện vào đầu thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX hầu hết đều là danh sĩ, đều là những người có học, những người mà sau bậc cử nhân đều phải về Huế học, thậm chí có người chỉ đỗ cử nhân ở quê cũng ra Huế làm quan. Đặc điểm nổi bật ở họ là, bằng con đường này hay con đường khác, cách này hay cách khác, trên cương vị xã hội nào, họ cũng đều là người yêu nước, là mẫu người lý tưởng của thời đại và nếu họ có may mắn được một người con gái Huế nào đó quan tâm để mắt đến thì cũng là lẽ thường tình.
Những ‘học trò trong Quảng ra thi” đỗ đạt một thời, ở lại Huế đảm nhiệm các chức quan như Nguyễn Văn Dục (1807-?), đỗ phó bảng làm quan đến chức Tế tửu Quốc tử giám, Lễ bộ Thị lang, Lễ bộ Hữu tham tri; Đỗ Thúc Tịnh (1818-1862), đỗ tiến sĩ từng làm chức Biện lý bộ Binh; Phạm Phú Thứ (1820-1883), đỗ tiến sĩ làm quan đến chức Thượng thư bộ Hộ, Thương chính đại thần, Tham tri bộ Binh, hàm Hiệp biện đại học sĩ; Hoàng Diệu (1828-1882), đỗ phó bảng từng làm Tri huyện Hương Trà, Tham tri bộ Hình, Tham tri bộ Lại, trông coi Đô sát viện; Nguyễn Thuật (1842-?), đỗ phó bảng, từng làm Thị lang nội các, Thượng thư bộ Hộ, Thượng thư bộ Lại, Thượng thư bộ Binh, hàm Hiệp biện đại học sĩ; Trần Văn Dư (1842-1885), đỗ tiến sĩ, từng làm Thừa biện bộ Lại, Giảng tập Dục Đức đường, Chánh Mông đường (dạy học cho hai vua Dục Đức và Đồng Khánh); Phạm Như Xương (1844-?), đỗ hoàng giáp làm quan đến chức Thượng thư bộ Hình, sung vào Đô sát viện; Phạm Liệu (1872-1936), đỗ tiến sĩ, làm Thượng thư bộ Lại; Phan Quang (1892-?), đỗ tiến sĩ, làm Tham tri bộ Lại... Hoặc những người từng đỗ đạt cao, nhưng từ quan, rời bỏ kinh thành, đứng ra tổ chức hoặc tham gia các phong trào yêu nước, tên tuổi gắn liền với xứ Huế và lịch sử dân tộc như các phó bảng Lê Vĩnh Khanh (1819-1884), Nguyễn Duy Hiệu (1847-1887), Phan Châu Trinh (1872-1926); các tiến sĩ Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), Trần Quý Cáp (1870-1908) và những người tuy “không sinh ra cùng năm cùng tháng, nhưng đã chết cùng năm cùng tháng cùng ngày” như Trần Cao Vân (1866-1916), Thái Phiên (1882-1916)... Trẻ hơn, những người mà sự nghiệp gắn liền với Huế như Trần Hoành (1880-1936), Phan Khôi (1887-1960), Nguyễn Nho Tuý (1898-1977), Nam Trân (1907-1967) hoặc những người thuộc thế hệ Tây học đầu tiên từng học ở Huế và chính nơi đây đã góp phần tạo nên tư cách của một danh sĩ như Phan Khoang (1906-1971), Nam Trân (1907-1967), Khương Hữu Dụng (1907-2005), Phan Thanh (1908-1939), Thiên Giang (1911-1985), Phan Du (1915-1983), Phạm Hầu (1920-1944), Võ Quảng (1920-2000), Nguyễn Văn Xuân (1921-2007), Nguyễn Văn Bổng (1921-2001), Lê Đình Kỵ (1923-2010), Vũ Hạnh (sinh 1926), Nguyễn Q. Thắng (sinh 1940), Tần Hoài Dạ Vũ (sinh 1945)...Có người chỉ học ở Huế có mấy năm, nhưng chính “Thời gian học ở Huế, là một bước ngoặt quyết định cho sự nghiệp thơ ca của Khương Hữu Dụng” (Trần Mạnh thường, Các tác gia văn chương Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin 2008, t.1, tr.808), nhưng cũng có người đỗ tú tài ở quê, ra Huế làm Tham tán toà Khâm sứ, làm Tán lý bộ Lại, đã phát hiện ra Huế đẹp và thơ (1939) như Nam Trân.
Lần theo câu ca dao “học trò trong Quảng ra” lập nghiệp ở Huế thời ấy, đông không kể hết và không ít người đã làm nên danh phận đối với lịch sử đất nước và đã đóng góp không nhỏ cho xứ Huế, nhưng dấu vết của họ còn lại nơi đây thật quá ít ỏi. Người Quảng hiện diện trên đường phố Huế lâu nay chỉ có mỗi Viện trưởng Viện dân biểu Trung kỳ, chủ nhiệm báo Tiếng dân Huỳnh Thúc Kháng. Đó là con đường dài 3000m, chạy dọc bờ sông Đông Ba, hình thành cùng với dòng sông đào này từ đầu thế kỷ XIX, lúc đầu mang tên đường Quai de Dong Ba (Bờ sông Đông Ba), năm 1956 đổi thành Huỳnh Thúc Kháng, năm 1996 cắt đoạn từ cầu Thanh Long đến Bao Vinh đặt tên Đào Duy Anh, đường Huỳnh Thúc Kháng chỉ còn dài 1267m. Gần đây, do sự phát triển của quá trình đô thị hoá, nhiều khu dân cư mới được hình thành, có thêm tên đường người thành lập An Nam Phật học hội, thành lập tổ chức Thanh niên Phật tử Việt Nam, phát minh ra sérum trong y học và là Chủ tịch Uỷ ban bảo vệ hoà bình thế giới đầu tiên của Việt Nam Lê Đình Thám, chỉ dài khoảng 500m từ Điện Biên Phủ đến Thích Tịnh Khiết và đường mang tên người làm trị sự, phát hành cho báo Tiếng dân là Trần Hoành, dài không quá 350m nối từ Võ Liêm Sơn đến Cao Đình Độ. Ngoài bức tượng của bác sĩ Lê Đình Thám còn được đặt trang trọng trong khuôn viên chùa Từ Đàm, những nơi khác như toà soạn báo Tiếng dân và trụ sở của công ty cổ phần Huỳnh Thúc Kháng từng được chuyển thành Cư xá sinh viên Huỳnh Thúc Kháng, sau 1975 trở thành khu tập thể của cán bộ trường Đại học Y Huế, nay đã xuống cấp nhếch nhác đến mức rách nát, bẩn thỉu, không được quan tâm đến. Khu nghĩa trang của Hội đồng châu Quảng Nam rộng mấy hecta ở đường Tam Thai cũng chịu chung số phận, bỏ mặc cho dân lấn chiếm làm nhà cửa, quán xá, có nguy cơ xoá sạch dấu vết. Khu nhà Lê Đình Thám từng ở trước đây, ở số 71-75 Phan Bội Châu, đã bị chia lô, hoá giá bán cho cán bộ Sở thương nghiệp, đã không còn dấu vết gì liên quan đến người chủ cũ. Phủ của Thượng thư Phạm Liệu, nơi nhà thơ Phạm Hầu từng ở thời thơ ấu ở số 128-134 Phan Bội Châu, cũng bị con cháu chia lô, bán đất, khu mộ của hai cha con nằm sau lưng chùa Vạn Phước cũng đìu hiu, không ai biết chẳng ai hay. Đáng buồn thay trên bia mộ của thi sĩ Phạm Hầu, một trong bốn mươi sáu tác giả được Hoài Thanh - Hoài Chân “bầu” vào Thi Nhân Việt Nam chỉ ghi có 56 chữ, đã có 18 lỗi chính tả! Nơi ở của Thượng thư Phạm Phú Thứ, thuở còn đi học là căn gác nhỏ ở một xóm lao động, theo nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh, là ở ven bờ sông Hương, bây giờ là đường Trịnh Công Sơn, nơi ông sống hoà mình vào cuộc sống những người lao khổ và đã làm hằng trăm bài thơ về họ, ký bút danh là Giang Thụ Sào (cái tổ chim treo trên cây ven sông), nay tuyệt nhiên không thể tìm thấy dấu vết gì. Ngôi mộ đôi của hai nhà yêu nước Thái Phiên và Trần Cao Vân trên đồi Từ Hiếu, cũng chỉ mới được quan tâm trùng tu từ đầu những năm chín mươi, sau khi có kiến nghị của Hội đồng hương sinh viên Điện Bàn...
Văn hoá Mỹ là văn hoá thực dụng (nhưng thực dụng có gì là xấu), nên họ đã tìm ra khu nhà trọ của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã từng ở vào những năm ba mươi và đã gắn vào đó tấm biển: “Nơi đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã từng ở từ ngày... đến ngày...”. Và, ai đến ở căn phòng của một danh nhân đã từng ở, xin trả tiền gấp trăm lần phòng bên cạnh. Đó là bài học đối với ngành du lịch dịch vụ ở nước ta. Ta không nên cố gắng xây dựng các khách sạn nhiều sao để mong chiêu dụ khách nước ngoài, vì những thứ ấy, ở nước họ không thiếu. Tại sao không khôi phục lại những không gian văn hoá của các tiền nhân, các danh nhân, để họ đến ở và tự hào rằng đã được sống nơi một danh nhân từng sống? Du lịch từ trong sâu thẳm tâm hồn của chủ thể, là khách du lịch bao giờ cũng là cuộc rong chơi văn hoá. Từ văn hoá mới tạo ra kinh tế. Du lịch bán hàng theo kiểu tiểu nông của Trung Quốc một thời thịnh hành, đem lại nhiều thành tựu và đã tràn sang nước ta như hiện nay, không còn hấp dẫn và thu hút khách nước ngoài. Khôi phục lại không gian văn hoá quá khứ để kinh doanh, vừa thu lợi nhuận về kinh tế, vừa thể hiện ý nghĩa văn hoá, lại vừa quan tâm đến di sản quá khứ của tiền nhân.
Một vùng đất văn hoá luôn được tạo nên bởi những nhà văn hoá. Đó là những người biết trân trọng, nâng niu từng hạt sáng lấp lánh trong đời sống quá khứ, biết đãi cát tìm vàng, để làm giàu có thêm những giá trị văn hoá, chứ không phải sự phủ nhận, loại bỏ, xoá sạch và xây dựng cái mới một cách thực dụng. Văn hoá là những thành tựu về vật chất và tinh thần do con người làm ra, nhưng xét cho cùng nó tồn tại ở dạng tinh thần là chủ yếu, nơi mà nhiều thế hệ, từ đời này sang đời khác, từng phả tâm hồn của mình lên đó, làm nên sức sống muôn đời. Với tốc độ phát triển đô thị hoá như hiện nay, không biết còn bao nhiêu dấu vết của những “học trò trong Quảng” còn tồn tại bao lâu nữa ở xứ Huế đẹp và thơ?