Đăng bởi Vanachi vào 09/11/2005 02:03
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 10/11/2005 10:48
Nhân Văn Giai Phẩm là phong trào đòi hỏi tự do dân chủ của văn nghê sĩ và trí thức miền Bắc, có tầm vóc lớn lao, khởi xướng đầu năm 1955 và bị chính thức dập tắt vào tháng 6 năm 1958.
Từ 1959 cho đến nay, hai nguồn tư liệu tương đối đầy đủ về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP) vẫn chỉ là: Cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc (THĐNTĐB) của Hoàng Văn Chí, do Mặt Trận Tự Do Văn Hoá, in ở Sài Gòn năm 1959 và cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận (BNVGPTTADL) của Nxb Sự Thật, in ở Hà Nội, cùng năm 1959.
Từ thập niên 90 trở đi, ở ngoài nước, có thêm một số tư liệu mới, rải rác dưới dạng tự thuật, bút ký... của những nhà văn đã tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm như Phùng Quán, Phùng Cung, Hữu Loan, Hoàng Cầm... và hồi ký Trần Dần (Văn Nghệ, Californie, 2001). Những tư liệu này góp phần làm sáng tỏ thêm về Nhân Văn Giai Phẩm, giúp các nhà nghiên cứu sau này có thể xây dựng lại bối cảnh toàn diện của phong trào tranh đấu cho tự do sáng tác độc đáo trong lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ XX.
Ngày 13/4/1999, trong dịp nhà thơ Lê Đạt sang Pháp lần thứ nhì, chúng tôi đã đề nghị ghi âm ông, mong ông soi rõ những chỗ chưa được các tài liệu trước nói đến, hoặc nói sai. Buổi nói chuyện - được thu thanh với chủ đích giữ lại làm tài liệu văn học sử- vừa mang tính cách cá nhân, vừa có tính cách hệ thống về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Chúng tôi đã đồng ý với nhà thơ là sẽ chỉ công bố tài liệu sau khi ông qua đời, bởi lúc đó ông cho biết, ông không có ý định viết hồi ký.
Đầu năm 2004, nhân dịp kỷ niệm 50 năm trận Điện Biên Phủ 1954-2004, chúng tôi dự định làm một chương trình đặc biệt kỷ niệm 50 năm phong trào Nhân Văn Giai Phẩm (nếu coi 1954 như thời điểm manh nha sự gặp gỡ giữa các văn nghệ sĩ chủ trương phong trào), vì vậy đã cố gắng liên lạc với nhà thơ Lê Đạt qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội, nhưng không thể thực hiện một cuộc phỏng vấn mới, bởi chỉ qua vài lời đối thoại là đường dây bị nhiễu ngay. Sau nhiều tháng phân vân, cuối cùng, với sự đồng ý của nhà thơ Lê Đạt, chúng tôi quyết định phát thanh trên RFI, toàn bộ buổi nói chuyện thu thanh ngày 13/4/1999 tại Paris, do đó mà tập tài liệu văn học sử này đến với người nghe và người đọc sớ hơn dự tính.
Đây là lần đầu tiên, một tư liệu trực tiếp qua lời thuật của một thành viên cột trụ trong Nhân Văn Giai Phẩm được công bố. Bên cạnh nhân chứng của Lê Đạt, còn có nhân chứng của hai nhân vật chủ chốt khác trong phong trào, đó là buổi phỏng vấn ngắn nhà chính trị và văn hoá Nguyễn Hữu Đang, ghi âm qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội tháng 8/1995, nhân dịp chúng tôi hỏi ông về việc ông tổ chức ngày lễ Độc Lập 2/9/1945. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng có thể ghi âm được ông Nguyễn Hữu Đang. Tất cả những cố gắng về sau đều vô hiệu: bởi chỉ nói vài câu là đường dây điện thoại bị nhiễu ngay. Những buổi nói chuyện với nhà thơ Hoàng Cầm được ghi âm tản mạn trong khoảng thời gian từ 1995 đến 2000, và truyền thanh trên RFI, trong những dịp khác nhau. Các bạn sẽ lưu ý thấy sự trả lời của Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội, không đạt mức độ tự do triệt để như trường hợp trò truyện trực tiếp với Lê Đạt ở Paris. Nhưng tựu trung cả ba chứng nhân cùng đồng quy ở điểm nói thẳng, nói thật cho nên có những câu hỏi cùng đặt ra cho Hoàng Cầm và Lê Đạt ở những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau nhưng những câu trả lời gần như tương tự. Phần phát biểu của nhà thơ Lê Đạt, cho đến nay, là chứng từ quan trọng và đầy đủ nhất về lịch sử Nhân Văn Giai Phẩm.
*
Hoàng Văn Chí, tức Mạc Định, soạn giả Trăm hoa đua nở trên đất Bắc (Mặt Trận Tự Do Văn Hoá xuất bản tại Sài Gòn) cho biết: “Ở Hà Nội ra đi đầu năm 1955, tôi đã hẹn với các bạn ở lại là hễ có dịp sẽ nói lên tiếng nói của họ”, “Tôi làm việc một mình”, “Tôi liên lạc được với một uỷ viên trong Uỷ ban kiểm soát đình chiến. Họ đi Hà Nội như đi chợ. Mỗi tuần họ cắp về Sài Gòn cho tôi tất cả báo chí xuất bản ở Hà Nội”, “Tôi làm việc trong hai năm 56-58”. “Bộ Thông tin và nói chung, chính quyền Sài Gòn không hề giúp. Lý Trung Dung đến chào Bộ Thông tin, yêu cầu mua cho một số, nhưng chẳng mua một cuốn nào”. “Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá ở Việt Nam là một chi nhánh của một tổ chức quốc tế, tên là Congress for Cultural Freedom, trụ sở trung ương ở 104 boulevard Haussmann, Paris. Bác sĩ Lý Trung Dung làm chủ tịch. Tội nghiệp, chỉ vì làm chủ tịch Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá mà phải đi cải tạo đến nay (1986) chưa được thả”. “Trước khi đưa in, Lý Trung Dung nghe nói có người gần ông Diệm ngờ rằng tôi soạn cuốn Trăm hoa đua nở là có ý xúi dục trí thức miền Nam bắt chước trí thức miền Bắc nổi lên chống lại chế độ. Vì vậy nên Lý Trung Dung bàn với tôi nên để bút hiệu Mạc Định là soạn giả. Chỉ ký tên Hoàng Văn Chí vào bài Tựa” (Phỏng vấn cụ Hoàng Văn Chí, Từ Nguyên thực hiện, bán nguyệt san Tự Do số 50, ngày 16/11/1986, phát hành tại Bỉ).
Hoàng Văn Chí đã nói rõ lý do và điều kiện ra đời của tập THĐNTĐB. Nhưng tại sao Hoàng Văn Chí lại đặc biệt lưu ý đến phong trào Nhân Văn Giai Phẩm? Ai là những người “ở lại” mà Hoàng Văn Chí đã hứa sẽ nói lên tiếng nói của họ? Nếu tìm sâu hơn về liên hệ gia đình giữa Hoàng Văn Chí và Phan Khôi, có thể chúng ta thấy câu trả lời: Sở Cuồng Lê Dư có ba người con gái -và vì bà Lê Dư là em ruột Phan Khôi- cho nên ba cô này là cháu ruột Phan Khôi. Cô đầu gả cho Vũ Ngọc Phan, cô thứ nhì lấy Hoàng Văn Chí và cô út là vợ Tướng Nguyễn Sơn. Riêng nữ sĩ Hằng Phương, vợ nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, đã viết bài đả kích thậm tệ Nhân Văn Giai Phẩm. Và rất có thể, người em ruột Hằng Phương, tức bà Hoàng Văn Chí, là một trong những động cơ thúc đẩy Hoàng Văn Chí thu thập tài liệu và viết về Nhân Văn Giai Phẩm.
Tác phẩm của Hoàng văn Chí, cho đến nay vẫn là tác phẩm hoàn chỉnh nhất về phong trào. Phần lớn những tác nhân chính đều có mặt, với một tiểu sử khá chính xác và những bài viết tiêu biểu của họ trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm. Nhược điểm duy nhất: vì không phải là người trong cuộc, và ông đã rời miền Bắc từ đầu năm 1955, khi phong trào mới manh nha, cho nên có những điểm sai mà ngày nay qua chứng nhân của những người trong cuộc, chúng ta có thể đính chính lại được.
Tập tài liệu tựa đề Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận do Nxb Sự Thật (nay là Nxb Chính Trị Quốc Gia), in tháng 6, năm 1959, tại Hà Nội, là cuốn sách tập hợp những bài viết hoặc diễn văn tố cáo, lên án, buộc tội Nhân Văn Giai Phẩm. Cuốn sách có một chương nhỏ, in lại “những lời thú tội” của các thành viên Nhân Văn Giai Phẩm, còn toàn thể dành cho phía công tố “phát hiện tội”, với những lời lẽ vô cùng khiếm nhã, khó thể mường tượng được, từ miệng, hoặc từ ngòi bút của giới được gọi là “trí thức văn nghệ sĩ” đối với các đồng nghiệp và bạn hữu của mình đã tham gia Nhân Văn Giai Phẩm. Nó ghi lại một thời kỳ mà nhân cách con người đã đạt tới đáy sâu của sự tha hoá.
Tập tư liệu dày 370 trang này còn hữu ích về mặt lịch sử và văn học sử, nó mở ra nhiều khía cạnh của vấn đề NVGP: về tầm vóc của phong trào, về không khí đàn áp thời đó, về mức độ khốc liệt của lớp đấu tranh Thái Hà mà sau này, nhà thơ Lê Đạt sẽ mô tả một cách tường tận.
Những bài luận tội có tính cách hạ nhục NVGP của 83 văn nghệ sĩ, và các đoàn thể, báo chí, nhân dân cũng như các vị trong ban chấp hành trung ương Đảng, với những tên tuổi như: Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Phạm Huy Thông, Trần Hữu Tước, Đặng Thai Mai, Nguyễn Huy Tưởng, Hồng Cương, Nguyễn Văn Bổng, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông, Hồ Đắc Di, Vũ Đức Phúc, Quang Đạm, Bàng Sĩ Nguyên, Nguỵ Như Kontum, Hằng Phương, Lương Xuân Nhị v.v... phản ảnh rất rõ nhân cách của người tố. Ví dụ cách viết của Nguyễn Huy Tưởng, Đặng Thai Mai, không giống cách viết của Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Phạm Huy Thông... Cho nên, có thể nói, chính với những “văn bản tố”, các tác giả đã để lại nhân cách trí thức của mình trong ký ức dân tộc. Sau cùng nhờ cách sắp xếp thứ tự “những tên đầu sỏ” trong cuốn sách mà chúng ta biết được thứ tự “tội” nặng, “tội” nhẹ, cùng hoạt động của mỗi người.
Hành trình Nhân Văn Giai Phẩm
Với những tư liệu và nhân chứng hiện hành, ngày nay chúng ta có thể tóm tắt lịch trình hoạt động của phong trào NVGP như sau:
Tháng 3/1955, trong quân đội, nổi lên một phong trào tranh đấu do Trần Dần, Tử Phác chủ trương (với sự cộng tác của Lê Đạt, Hoàng Cầm và các văn nghệ sĩ khác...): Một mặt, lên tiếng phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Một mặt, đưa ra đề nghị cải cách chính sách văn nghệ trong quân đội, chủ yếu đòi trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ.
Tố Hữu viết:
Cuộc tấn công vào chế độ ta và Đảng ta đã bắt đầu trên mặt trận văn nghệ từ đầu năm 1955, ngay khi hoà bình vừa lập lại.Họ đòi thực hiện những gì? “Trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ. Thủ tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội. Thủ tiêu mọi chế độ quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội. Thành lập trong quân đội một chi Hội văn nghệ trực thuộc Hội văn nghệ, không qua Cục Tuyên Huấn và Tổng Cục Chính Trị”. Tóm lại là thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng và kỷ luật của quân đội đối với họ” (Tố Hữu, Nhìn lại 3 năm phá hoại của nhóm “Nhân Văn-Giai Phẩm”, BNVGPTTADL, trang 22-24). Vì vụ việc này, Trần Dần bị giam trong trại từ 13/6 đến 14/9 để kiểm thảo. Trong thời gian bị giam, Trần Dần viết trường ca Nhất định thắng mà Hoàng Cầm và Lê Đạt đều có bản thảo.
Trong khi bọn gián điệp còn giấu mặt chờ đợi thời cơ, và bọn tờ-rốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo tích cực chuẩn bị lực lượng ở trường Đại học, thì bọn Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, hai tên phản Đảng ẩn nấp trong báo Văn Nghệ của Hội Văn Nghệ cùng bọn Trần Dần, Tử Phác cũng là những tên phản Đảng trong phòng Văn nghệ quân đội, đã kết thành một bè phái chống Đảng trong Văn nghệ.
Như lời thú nhận của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc là do cái bè phái ấy sắp đặt, để đánh vào sự lãnh đạo và đường lối văn nghệ của Đảng, đường lối phục vụ chính trị cách mạng, phục vụ công nông binh, và để đề xướng cái “điệu tâm hồn” ruỗng nát của chủ nghĩa cá nhân tư sản, mở cửa cho lối sống tự do sa đoạ.
Đương nhiên cái “điệu tâm hồn” ấy của Lê Đạt xướng lên không thể nào hoà được với cái điệu lớn của cách mạng, và cũng rất tự nhiên nó chỉ hoà được với “tiếng sáo tiền kiếp” lóc gân của tên mật thám Trần Duy.
Cũng lúc ấy, bọn Trần Dần, Tử Phác -những đứa con hư hỏng của Hà nội cũ- nay lại trở về với “cảnh cũ người xưa” bỗng cảm thấy đời sống trong quân đội “nghẹt thở”, chỉ vì thiếu cái tự do trở lại đời sống truỵ lạc cũ. Đối với chúng, đời sống trong quân đội cách mạng chỉ còn là “những sợi dây xích trói buộc phải phá mà ra”. Được tiêm thêm ít nhiều chất phản động của Hồ Phong, Trần Dần gióng lên “tiếng trống tương lai” chửi cán bộ chính trị là “người bệnh”, “người ròi”, “người ụ”. Cùng Tử Phác, khiêu khích những anh em khác, hắn tổ chức một cuộc đấu tranh “buộc lãnh đạo thực hiện mọi yêu cầu” của họ.
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi4. Đề cao chủ nghĩa quốc gia, tư sản, đả kích Liên xô, cho sự giáo dục con người ở Liên xô là rập khuôn, văn học nghệ thuật Liên xô là công thức.
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại.
... Hung hãn vọng vào tiếng bểvà như:
Hờn căm rít ngọn gió Lào
Anh mang trùng dương giận dữ
Anh mang hoang dại khô khan.
Mắt anh hừng trí bốn phươngThật sự, Thuỵ An đã hấp thụ tư tưởng cách mạng qua Thầy đồ Nghệ
Tay run nắm hồn dân tộc
Tóc xoà vương hận núi sông
Môi bậm tay tai nghe rên xiết
Áo cơm doạ dưới cùm gông!...
... Rồi anh bắt đầu dẫn dắt(Trích tiểu sử Thuỵ An, do Thuỵ Băng viết).
Dạy em khui lửa bất bình
Oán hận réo sôi lòng đất
Công lý tù đầy uất uất
Miếng cơm nghẹn họng nhân sinh...
(Sao lại mùa thu)
Chị Đội bỗng lùi lạiVà vở kịch thơ Tiếng hát, mượn hình ảnh tiếng hát để nói về nghệ thuật và tự do, để xác định “không thể cưỡng bức được nghệ thuật”. Bài viết có tính cách tiêu biểu của Hoàng Cầm trong giai đoạn này là bài Con người Trần Dần, in trong Nhân Văn số 1, biện hộ cho Trần Dần. Nhưng tác phẩm chủ yếu của ông là Về Kinh Bắc, viết sau Nhân Văn, trong thời gian 57-58, phản ảnh ý chí quật cường của nhà thơ trước cơn bão tố dập vùi.
nhìn đứa bé mồ côi,
cố tìm vết thù địch,
chỉ thấy một con người.
Tôi có thể mặc thây ngàn tiếng chửi tục tằnTrong bài tự kiểm thảo, Trần Dần viết: “Những sáng tác của tôi đều là cái loại đả kích vào các chính sách của Đảng cả. Nếu đọc cả một đống như thế, người ta sẽ cảm thấy sự lãnh đạo của Đảng là một sự ngột ngạt không thể nào sống nổi”. “Người sáng tác phải có quyền và có gan như người viết sử thời xưa, vua chém đi 6 người, đến người thứ 7 vẫn chép sử đúng như sự thật, vua đành chịu vậy”, (trích Những lời “thú tội” của Trần Dần, sđd, trang 312).
Trừ tiếng chửi sống không sáng tạo.
Đem bục công an đặt giữa trái tim ngườiTrần Thiếu Bảo, chủ trương Nxb Minh Đức, trách nhiệm ấn loát và phát hành những tờ Nhân Văn, Giai Phẩm, Đất Mới, quê quán ở Thái Bình. Ông mở hiệu sách Minh Đức (sau trở thành nhà xuất bản) ở Thái Bình, đến 1954, rời về phố Phan Bội Châu, Hà Nội. Trần Thiếu Bảo không theo cách mạng ngay từ đầu và có tiếng là Mạnh Thường Quân đối với văn nghệ sĩ. Cùng với Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, tổ chức lễ kỷ niệm Vũ Trọng Phụng (thời ấy, Vũ Trọng Phụng còn bị liệt vào thành phần phản động). Theo lời buộc tội, Nxb Minh Đức đã “lợi dụng chuyện khai thác vốn cổ” để tái bản những sách “có hại” của Tự Lực Văn Đoàn như Tiêu sơn tráng sĩ v.v... Nxb Minh Đức cũng là trụ sở các cuộc họp báo Nhân Văn.
Bắt tình cảm ngược xuôi theo luật đi đường nhà nước
Có những lời lẽ tiên tri:
Lịch sử muôn đời duyệt lại
Không ai lừa được cuộc đời
Đăng bởi Cam Ly vào 24/02/2007 23:04
Đã sửa 3 lần, lần cuối bởi Cam Ly vào 01/09/2009 21:57
Không phải đến hôm nay người ta mới gọi Trần Dần là “nhà cách tân”. Từ năm 1946 khi tham gia nhóm Dạ Đài, Trần Dần đã cùng với Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Vũ Hoàng Địch… soạn ra bản “tuyên ngôn tượng trưng” nhằm cách tân thơ Việt sau rất nhiều thành công của Thơ Mới (trước 1945). Ông cũng là nhà tiểu thuyết đầu tiên viết về chiến dịch Điện Biên Phủ với nhan đề “Người người lớp lớp” được phổ biến rộng rãi sau 1954. Dù được khen ngợi nhiều, nhưng Trần Dần vẫn chưa ưng ý. Ông thú nhận trong nhật ký rằng: “Tôi vừa viết xong cuốn Người người lớp lớp. Viết về chiến tranh ở Điện Biên Phủ đấy. Nhưng mà tôi đã chán rồi. Tại vì rằng tôi ít thấy sự thực của chiến tranh trong đó quá. Và vì rằng tôi ít thấy sự thực của bản thân tôi trong đó quá. Chưa phải là chiến tranh, và chưa phải là tôi. Cho nên tôi viết tới hơn 300 trang mà không thích bằng một bài thơ tôi cũng mới làm về chiến tranh: “Anh đã thấy” (mes douleurs) trên dưới có 6 trang! Vài trang thơ này tôi còn thấy chiến tranh nhiều hơn, và thấy tôi nhiều hơn 300 trang Người người lớp lớp”. Nghĩa là ông luôn trăn trở cho thơ văn phải hướng về phía trước, phía cách tân. Sau này, suy nghĩ về thơ, ông tuyên bố “phải chôn Thơ Mới”, tức là phải sáng tạo ra một thứ thơ khác, thời đại hơn, mới mẻ hơn những thành tựu đã có, dù Thơ Mới đã làm xong cuộc cách mạng thơ đặc sắc.
Cuộc cách tân thơ của Trần Dần sau Hoà Bình 1954 vừa mới khởi ra chưa được bao lâu thì đã bị tai nạn “Nhân Văn – Giai Phẩm” (NVGP). Ông bị kỷ luật và bị “treo bút” 3 năm, nhưng thực ra thì mãi 30 năm sau mới xuất hiện trở lại văn đàn. Thuở ấy ông làm một cuộc du ngoạn vào Huế chơi với anh em văn nghệ chúng tôi. Những bài thơ dài của ông thời NVGP như “Nhất định thắng”, “Hãy đi mãi”… được nhiều người đọc lại. Còn ông thì khoe với tôi (ông ở nhà tôi mấy ngày) những tập bản thảo mà ông đã viết trong 30 năm im lặng ấy, gần 30 tác phẩm, đó là thơ-tiểu-thuyết “Cổng tỉnh”, tiểu thuyết “Những ngã tư và những cột đèn”, “Đêm núm sen”… các tập thơ “Mùa sạch”, “Thơ mini”, “Bài thơ Việt Bắc”, v.v… Còn thơ trong các cuốn “sổ bụi” của ông thì nhiều vô kể. Đọc một số bản thảo của ông tôi không ngờ rằng, một người nhỏ thó, gầy đét như ông lại có cả một trái tim lớn lao như vậy. Đấy là trái tim khát vọng “làm quốc ngữ”, làm “người nhân loại”. Có thể nói rằng, bi kịch và cô đơn hoàn toàn đã buộc ông phải chiến thắng bằng vũ khí ngôn ngữ. “Thơ nay hầu như vẫn đặt nghĩa. Tôi đặt thơ là chữ. Con chữ nó làm nghĩa. “Mai sau dù có bao giờ” là con chữ. “Chữ tài liền với chữ tai một vần” là đặt nghĩa” – ông quan niệm. Chính vì làm thơ kiên trì với quan niệm đó mà thơ ông đã mang đến cho nền thơ chung một lối thơ độc sáng. Có nhiều người ảnh hưởng lối thơ Trần Dần, nhưng không ai có thể vượt qua ông về lối thơ đó, vì đấy là thơ tự thân, đó là máu, mồ hôi và óc não của ông đọng thành những con chữ.
Thuở đầu Trần Dần thích thơ Maiacopski. Những bài thơ bậc thang của ông đã tạo nên những nhịp điệu quyết liệt mạnh mẽ khi diễn tả những rung cảm đa chiều của ông về cuộc sống, về dân tộc:
Biển súngNhưng về sau thơ ông đã đổi khác. Ông tạo ra những con chữ độc đáo, sinh động và đa nghĩa:
rừng lê
bạt ngàn con mắt
Quân ta đi tập trận về qua
Bóng cờ bay đỏ phố đỏ nhà...
Ðừng ngại mây che từng cây số buồn rầu!Người ta nói rằng, Trần Dần đã thổi hồn vào từng sự vật, thổi sự sống vào từng con chữ. Nhưng cái làm cho người đọc luôn bất ngờ là cái cách tư duy ngôn ngữ táo bạo, độc đáo và mới lạ của ông đã tạo nên những ấn tượng mạnh, thậm chí thoạt đầu gây sốc. Gây sốc bởi vì nó mới quá, nó lạ quá, nó không giống “thơ cũ”. Gây sốc bởi ông chủ trương “làm chữ”, làm những chữ mới và làm mới những chữ cũ. Đấy chính là Trần Dần một cá thể thơ. Trần Trọng Vũ con trai Trần Dần cho rằng, chữ TÔI trong thơ Trần Dần “không thể đứng chung với một người nào khác. TÔI để báo trước một cá thể cô độc. Có thể dựng lại chân dung và cuộc đời của người xưng TÔI, một cách hoàn chỉnh, từ lúc sinh tới khi chết, thông qua rất nhiều chữ TÔI”:
Ðừng ngại mở trong lòng vài khung cửa nhớ...
Thì hãy lấy mùi soa đêm chùi đôi mắt khổ
Hơn là mỏi răng nhai ràu rạu vỉa hè...
Tôi chôn rau ở tận trời sao.
(Sổ thơ 1973)
Tôi chẳng phải tù binh quả đất.
(Sổ bụi 1979)
Tôi đã leo nhiều ngõ cụt cổ điển.
(Sổ bụi 1979)
Tôi không bao giờ hú với chó sói, chỉ một tội này họ chẳng thể tha tôi.
(Sổ bụi 1982)
Chết đi, tôi vẫn mất ngủ.Ngôn ngữ của Trần Dần luôn biến động, và ta thấy cả sự lao tâm của ông cho từng con chữ. Lê Đạt nói “nhà thơ là phu chữ”, tôi nghĩ cụm từ này dùng để gọi Trần Dần thì vô cùng đắc địa. Ngay trong cả loại thơ kiểu văn xuôi của ông vẫn ngồn ngộn hình ảnh và cảm xúc thiên hà. Thơ trẻ hiện nay cố gắng nhiều trong thơ không vần hay thơ văn xuôi, nhưng đọc lại Trần Dần 30 năm trước, vẫn thấy ông còn mới mẻ đến bất ngờ:
(Sổ bụi 1988)
«Tôi có nghèo đâu, trăng sao lủng liểng. Mây phơi dằng dặc khắp chân trời. Hương hoả của tôi, kho nào chứa xuể? Ê hề vũ trụ sao bay. Tôi di lại cho ai giờ? Tầng tầng mây, lục địa lục địa của cải»Thơ Trần Dần (cũng như tiểu thuyết sau NVGP của ông) ngồn ngộn chữ, ngồn ngộn da thịt, sự sống. Ông không phải một nhà thơ dễ đọc. Ông cũng không phải nhà thơ quần chúng hoá, mặc dù ông thơ hoá nhiều ngôn ngữ quần chúng. Những vấn đề cuộc sống và nghệ thuật luôn được ông soi rọi, chăm chút, xuất thần theo kiểu riêng của mình. Chính vì thế mà ông là người mở đường, người đi trước suốt nửa thế kỷ qua. Tôi khâm phục sự học của ông. Ông học bằng cách đọc thế giới (sách), đọc và quan sát suộc sống, học làm người nghĩa là làm một nhân cách cá biệt, đôi khi như kẻ lập dị giữa đời, giữa đám đông. Học bằng cách làm việc cật lực cho văn thơ. Học bằng cách ngồi dịch sách, dich tài liệu để kiếm sống. Năm 1983, nhạc sĩ Văn Cao nhờ tôi sang nhà Trần Dần mời ông đến nhà uống rượu nhân 60 tuổi, tôi chú ý vết đen trên tường sau chiếc ghế ông ngồi. Cái vết đen như một hình nhân, như cái bóng của ông. Ông đã ngồi dựa tường như vậy suốt mấy chục năm, để đau khổ, để cô đơn toàn phần, để suy nghĩ, để đọc và để viết. Ông viết rất chậm. Có lần Phùng Quán bảo anh Dần viết chậm thế thì bao giờ mới xong tiểu thuyết. Ông thủng thẳng trả lời: ‘Viết văn chứ có phải đi ăn cướp đâu mà cần nhanh”. Vâng, ông cứ đĩnh đạc như thế, cứ nặng chuỳ như thế. Và thế mới là Trần Dần.
(Sổ bụi 1979)
Mưa rơi không cần phiên dịchBây giờ ông đã xa cõi trần hơn 10 năm, đã được in tuyển thơ dày dặn và những tập sách khác, đã được giải thưởng Hội Nhà Văn, Giải thưởng Nhà Nước… Tôi nghĩ không có phần thưởng nào lớn hơn khát vọng của ông về chân trời và đường bay của nhân dân, của dân tộc. Hai câu thơ ông khóc hay là ông mơ ước:
em làm sao phiên dịch đời anh
một khối đá câm
tạc thành ngôn ngữ
một đối thoại câm
thốt ra con chữ…
Tôi khóc những chân trời không có người bay
Lại khóc những người bay không có chân trời
Đăng bởi cỏ hoang vào 04/05/2007 13:51
Lời toà soạn báo Nhân văn số 1, ra ngày 20.9.1956
Ít lâu nay, nhất là trong giới văn nghệ, vấn đề Trần Dần được nhiều người nhắc tới. Đó không phải là chuyện ngẫu nhiên, mà chính là vì vấn đề Trần Dần không còn là một vấn đề riêng của anh hay của một số người nào, mà là vấn đề của chung, có liên quan tới quyền chính đáng tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do sáng tác của tất cả mọi người.
Theo tinh thần đó, chúng tôi đăng bài này.
Lần đầu tiên tôi biết Trần Dần là trong một trại hè của các đoàn văn công quân đội năm (19…) Dáng người thấp, hơi thô, tay chân chắc nịnh, lúc nói chuyện thường ồn ào, giọng cười thẳng thắn, ròn rã. Đôi mắt xếch với cặp mày rậm làm cho khuôn mặt anh dữ tợn, nhưng đến khi anh há mồm ra cười thì trông lại như một đứa trẻ con.
Tôi biết tiếng anh từ lâu - Ở bộ đội Sơn La, từ đầu năm 1947, nổi tiếng có một anh Trần Dần nào đó thường vẽ và làm thơ có nhiều cái rất lạ, anh em văn nghệ xung quanh thì rất thích nhưng đồn rằng bộ đội thì không hiểu và một số cán bộ chính trị ở đơn vị thì lấy làm bực mình.
Tới trại hè năm 1951, các đoàn văn công nỗ lực tập luyện để phục vụ một chiến dịch lớn. Trần Dần phụ trách huấn luyện cho mấy trăm anh chị em: sáng tác đạo diễn và diễn viên. Trong bóng rợp của một rừng nứa, giọng anh rủ rỉ như lời tâm sự, giảng về văn nghệ nhân dân. Văn nghệ do dân, vì dân, có Đảng lãnh đạo. Giọng anh thấm thía từng ngày lên lớp. Mấy trăm anh chị em lần đầu tiên được học một tài liệu dài đến gần hai tháng, đều vui trong lòng như một người đi trong đêm rét, chợt nhìn thấy lửa ấm của một túp nhà. Học xong tài liệu Văn nghệ nhân dân, anh chị em say sưa công tác hơn vì người giảng viên Trần Dần đã thổi vào tâm sự mọi người một cái tự hào. Đến bây giờ tôi (…) [1] Lỗ Tấn mà Trần Dần đọc ra để dẫn chứng cho tài liệu:
Hoành mi lễnh dối thiên phu chỉHọc xong phần lý luận có thể nói hầu hết anh chị em văn công đều yêu mến Trần Dần như một người bạn từ lâu lắm. Những người có chuyện riêng gỡ mãi không ra, đều tìm đến hỏi Trần Dần. Một anh sắp lấy vợ, một chị bị ép chồng, một diễn viên già có vợ ở vùng tạm chiến, đều đến tìm Trần Dần – không phải là một câu trả lời thoả đáng – nhưng chính là một sự an ủi, một câu nói chí tình, và để nghe ở anh cái giọng cười quen thuộc, giọng cười vô tư, rất yêu đời.
Phủ thủ cam nhi nhụ tử ngưu
Em đi trong mưa… cúi đầu… nghiêng vaiĐến ngày họp bàn về dự thảo chính sách, Trần Dần được anh em cử ra trình bày. Nguyện vọng của bao nhiêu văn nghệ sĩ trong quân đội. Làm thế nào để sáng tác hay, phục vụ được sâu sắc. Anh nói say mê, nhiệt tình. Trong cách nói nhiều khi bốc. Mặt anh khi đỏ gay, khi tái lại:
Trời đã thôi mưa… thôi gióRồi Trần Dần đi tham quan Cải cách Ruộng đất [8]. Bài thơ Nhất định thắng gửi Lê Đạt giữ từ lâu, anh cũng gần như quên đi, óc còn mải nghĩ về những mặt khác của cuộc sống để chuẩn bị cho những bài thơ khác sẽ ra đời.
Đã thấy nắng lên trên màu cờ đỏ
Hôm naySau khi học tập nghị quyết của Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, cái tin vui từ lòng tôi tự dưng toả ra: Trần Dần chắc sẽ được về!
Trời đã thôi mưa thôi gió
Nắng lên đỏ phố đỏ nhà
Đỏ mọi buồng tim lá phổi
Em ơi! Đếm thử bao nhiêu ngày mưa…
(Trần Dần kể, Lê Đạt ghi)
Trong các cuộc họp xóm kỳ cải cách ruộng đất ở xã P. T., thường khi bà con chưa đến đủ mà các cụ ông cụ bà bao giờ cũng đến sớm sủa nhất, đã ngồi ních giữa giường bên rồi, các cụ cứ ngồi đợi, nói chuyện thiên chuyện địa mãi, có khi hàng tiếng đồng hồ chán ra các cụ lại đùa nhau, lại hò nhau “văn nghệ”, các cụ bà “kể hạnh”, chỉ có các cụ ông là thua kém về cái môn vui nhộn. Thường khi ấy các cụ ông hay nhắc tới tên lão Rồng. Giá mà lão Rồng còn sống nhỉ!... Cánh lão ta không có lão Rồng đâm ra sút kém hử...! Vân vân. Nhiều lần như thế tôi mới chú ý, hỏi xem lão Rồng là người như thế nào? Các cụ tranh nhau kể lại cho tôi nghe câu chuyện ông lão tài ba ấy.
Cách đây mười năm, hồi còn mồ ma đế quốc Pháp với cái bộ máy hương tổng kỳ lý ở nông thôn, ở xóm Đinh đây có một ông lão ngót sáu mươi, cả ngày say rượu bét nhè gọi tên là lão Rồng. Nhà thì nghèo lắm, độc có hai vợ chồng già với con gái lớn chuyên đi làm thuê làm mướn, ngày mưa cũng như ngày nắng, ngày bão cũng như ngày yên, nếu nghỉ thì treo niêu mất, nên nhà Rồng ấy cứ quần quật năm tháng chẳng biết ngày đêm, vậy mà ông lão Rồng lại nghiện rượu, ngày ít một cút ngày khá hàng chai. Làm bao nhiêu cho đủ được? Bà con sẩm tối là thấy lão Rồng ngất nghểu ở quán hàng đầu xóm, hay khà khiễng đi trong đường làng, miệng hát nghêu ngao, trẻ con đi theo sau hàng chục đứa. Bố mẹ răn con: “Mày cứ theo ông Rồng ông ấy ném xuồng ao thì mày chết”. Còn kêu ai với cái người say rượu, song le lão Rồng chưa ném đứa trẻ nào xuống ao cả. Nói gì đánh, đến như chửi mắng cũng không bao giờ, lão Rồng rất yêu trẻ, nào cho miếng bánh đa quả ổi “đồ nhắm”, nào vỗ vã và nhất là dạy hát. Ấy chính bố mẹ sợ điều ấy nhất, con dại cái mang, nhỡ ra theo lão Rồng rồi hát những câu nhảm câu nhí mà gieo vạ lên đầu bố mẹ. Số là lão Rồng nổi tiếng đặt vè khắp cả một vùng. Mà trẻ con thì như là những tay cán bộ truyền bá câu vè của lão đi. Lão Rồng: sáng tác gia. Trẻ con: nhà xuất bản và phát hành. Nên chi đâu có lão Rồng là có trẻ con. Tuổi trẻ nó hơn tuổi già ở chỗ đó, nó cứ bám quanh lão, học hát, câu vè càng lạ, càng xó xiên nó càng thích. Vả có gì bố mẹ nó khổ nhiều chứ trẻ con đến đánh là cùng. Đánh thì cũng đau nhưng đau mà được hát vè xỏ lá thì vẫn thích hơn. Dù sao vè lão Rồng cũng nổi tiếng lắm.
Thôi thì đủ. Vè răn trộm cướp, giới tà dâm. Kể thì cũng là luân lý cả, song vè lão Rồng không luân lý như ông đồ đạo mạo. Mà nó cứ xồ xề, châm chọc, đâm ba chày củ. Vậy sao thầy đồ không có tuổi trẻ bám chân lại không nổi tiếng như lão Rồng? Ví dụ vè chửa hoang có câu:
Nằm mơ thấy PhậtCác ông sư lắc đầu, cấm chỉ lão Rồng hễ bén mảng tới cửa chùa thì đánh gẫy cẳng! Các bà mẹ già mộ Phật giận lắm nhưng gặp lão Rồng vẫn phải chào, nhỡ ra lại có vè thì khổ. Bà con ghét lão, khinh lão mà lại sợ lão vì vậy, chỉ có cái tuổi trẻ vô tư mất dạy kia thì mới yêu lão Rồng mà thôi.
Cởi quần em ra
Sớm sau bụng phình
Những người tuổi tácThế rồi xuống dưới lão mới châm chọc cái tệ rượu, thường là lão xỉa xói những cái bọn nghiện rượu mà xưa nay không mời mọc lão! Đôi khi cũng kết quả ra phết, gặp nhau ngoài quán, lão Rồng lại được thết dăm ba chén lớn nhỏ, có lúc lão cũng còn làm cao “không thèm”.
Như lão Rồng đây
Be bét đêm ngày
Là môn thuốc lão.
Ve vẻ vè veCứ thế đủ mặt các vị tai to mặt lớn. Không biết lão Rồng có thù riêng gì không? Chã lẽ thù riêng mà lại thù cả một đống một cọc như thế! Không biết có phải do ai thuê lão đặt vè không? Chả lẽ ai thuê, người nào mà lại thù khắp cả các vị xã lý nhiều như thế? Hay là thù giai cấp, lão Rồng thì biết gì giai cấp? Hay là tài năng của lão tự dưng nó cứ phát triển tới một trình độ như thế? Dù sao đó là nguy cơ của lão Rồng. Lý Tiến chửi: cha mẹ thằng to gan! Chưa chửi xong thì ngay đêm giao thừa cửa nhà lý Tiến có dán ngay một mảnh giấy hồng điều, chữ nôm rất là phóng:
Ve vè khuyến thiện
Đừng như lý Tiến
Ăn bửa của dân
Từ một núm cơm
Từ manh váy đụp
Vợ anh cu Núp
Có mấy sợi lông
Đêm nằm tồng hông
Nó ăn cắp mất.
Ve vẻ vè veSớm mồng Một thì gậy gộc tuần đinh ào ào tới nhà lão Rồng. Tìm ra thấy một lá cờ búa liềm. Thương thay lão có biết cộng sản là cái gì đâu? Lão chỉ biết có ve vẻ vè ve. Nhưng đầu năm mới ấy, người ta tra khảo lão, quần áo rách bươm, be bét máu, mặt mày tan nát. Đến chiều thì lão tắt thở.
Ve vè chúc Tết
Chúc thầy lý chết
Vợ thầy sinh đôi
Một đứa thì đui
Một đứa thì chột…
Đăng bởi Thái Linh vào 10/02/2009 07:46
Trần Dần mất ngày 17 tháng giêng năm 1997. Trong 40 năm, sau Nhân Văn, Trần Dần đã chỉ thấy những hòm bản thảo của mình: 2/3 bị tiêu tán, mục nát, 1/3 bị kết án chung thân trong trạng thái nằm. Vậy mà vẫn viết. Viết đều. Bởi ông cho rằng viết hay ghi là phương pháp duy nhất nói chuyện với mình khi không thể nói được với ai. Từ 1958, “ghi trở nên một hình phạt”, người thanh niên 32 tuổi ấy đã bị “đòn ngấm quá cuống tim rồi”.
Tác phẩm chịu chung số phận với con người, phần lớn đều chưa được in ra: gần 30 tập thơ, 3 cuốn tiểu thuyết, và không biết bao nhiêu bản thảo bị mối mọt.
Trần Dần sinh ngày 16 tháng 7 năm Bính Dần, tức ngày 23 tháng 8 năm 1926, trong một gia đình giàu có ở Nam Định. Đậu bằng thành chung rồi lên Hà Nội học đến tú tài. Trần Dần là bạn thân từ nhỏ với Vũ Hoàng Địch, em ruột Vũ Hoàng Chương. Trong không khí văn nghệ gia đình và bè bạn, ngay từ 1944, sau khi xong trung học, Trần Dần, đã cùng Vũ Hoàng Địch, Trần Mai Châu, Đinh Hùng... nghĩ đến việc cách tân Thơ Mới, chủ trương nhóm Dạ Đài, viết “Bản tuyên ngôn tượng trưng” ký tên ba người Trần Dần, Trần Mai Châu và Vũ Hoàng Địch, in trên giai phẩm Dạ Đài số 1, ra ngày 16/11/1946. Ngoài thơ, Dạ Đài còn có tiểu thuyết, truyện ngắn và bình luận. Vừa ra được số đầu, mới lên khuôn số thứ nhì thì chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, Trần Dần tham gia kháng chiến.
Đạo diễn Trần Vũ nhớ lại: ở Sơn La, năm 1946, Trần Dần làm công tác tuyên truyền cùng với Vũ Khiêu và Vũ Hoàng Địch. 1948, khi thành lập khu 14 ở Tây Bắc, Trần Dần cùng Vũ Khiêu, Vũ Hoàng Địch lên Tây Bắc. Một thời gian sau, khu 14 bị giải thể. Trần Dần tham gia quân đội, nhận công tác địch vận của trung đoàn Sơn La từ 1948 đến 1950.
Hồ Phương kể lại: “Ở nhóm văn nghệ Tây Bắc có Trần Thứ (nay là Trần Vũ), Trần Dần và Hoài Niệm... Tờ Sông Ðà của nhóm này cũng là một tờ báo được trình bày khá đẹp, nghiêng về sáng tác thơ văn. Hồi ấy Trần Dần hay làm thơ leo thang, bài thơ thường được trình bày khá kiểu cách. Dòng thì in chữ nhỏ, dòng lại in chữ to, thiên về hạng theo mốt.” (trích Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập II, nxb Tác Phẩm Mới, 1987, trang 140)
Sau kỳ học tập chính trị năm 1951, Trần Dần về Trung Ương, nhận công tác ở Cục Quân Huấn. Cuối năm 1953, chiến đấu ở mặt trận Điện Biên Phủ, cùng đội ngũ với Đỗ Nhuận và Tô Ngọc Vân, Trần Dần viết tiểu thuyết Người người lớp lớp.
Năm 1954, được cử đi Trung Quốc để viết bản dẫn giải bằng tiếng Việt cho phim Chiến thắng Điện Biên Phủ. Ông không ghi gì về chuyến đi này trong nhật ký.
Đầu năm 1955, trong quân đội manh nha sự phản đối đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng: Trần Dần, Tử Phác, cùng với sự hỗ trợ của Lê Đạt, Hoàng Cầm, một mặt lên tiếng phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, một mặt yêu cầu hạn chế sự can thiệp của Bộ Chính Trị vào lãnh vực văn hoá văn nghệ. Phong trào tiếp diễn với Giai Phẩm Mùa Xuân, xuất hiện tháng 3 năm 1956, đăng bài Nhất định thắng của Trần Dần. Trần Dần bị bắt, cứa cổ tự tử, nhưng không chết. Phong trào tiếp tục đến tháng giêng năm 1958 thì bị dập tắt hẳn.
Nhưng những chôn vùi thường đưa đến những hậu quả bất ngờ: như hoả sơn Vésuve thình lình chôn sống Pompéi trong một trận mưa tro đá. Nhưng 1700 năm sau, người ta đào lại các lớp địa tầng, “phục hồi” những xác người hoá thạch. Chính những xác hoá thạch đó đã cho biết họ bị ngọn lửa Vésuve bức tử như thế nào. Tại sao mà chết? Xác người hoá thạch ở Pompéi, 1700 năm sau, đã thuật lại cho hậu thế lịch sử cái chết của mình. Vésuve đâu có lường trước hậu quả khi nhúng tay vào tội ác? Vésuve đâu có ngờ rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người cũng tìm đủ mọi cách để “phục hồi” sự thật? Vésuve đâu nghĩ đến sự phản bội của thời gian: đáng lẽ những sự thật đã bị chà đạp, bóp méo, chôn vùi đến hàng ngàn năm phải tiêu tan, tro bụi, nào ngờ, chúng lại được chính thời gian đồng loã với con người, tìm cách soi tỏ sự thật như một thoả thuận nhân văn ngấm ngầm giữa quá khứ và hiện tại, giữa bây giờ và hậu thế.
Về Nhân Văn Giai Phẩm, có những sự việc đã bị chôn sống, tưởng rồi sẽ tan trong lòng đất. Có những sự thực đã bị bóp méo đến độ dị dạng. Trong hơn nửa thế kỷ, người ta đã quen sống với những quái thai dị dạng đó: những xuyên tạc, bôi nhọ được đề cao như những chân lý. Ngờ đâu, những con chữ trong hòm lại có ngày đứng dậy, thuật lại truyện mình. Tập Trần Dần ghi 1954-1960 là một trong những tư liệu hòm, tự khai, tự quật. Do nhà xuất bản Văn Nghệ tại California in năm 2001. Tác phẩm chìa ra những dòng chữ viết đầu tiên, để lấp những trang còn trắng về một thời kỳ văn học sử, còn chưa được biết, còn chưa được viết.
Trần Dần ghi, tức là Trần Dần viết nhật ký cho mình, ghi lại những ý nghĩ, sự kiện, đột hiện ra trong óc. Những điều mắt thấy tai nghe. Những câu chuyện bạn bè kể lại. Tất cả bộ mặt hàng ngày của đời sống “thời ấy”, vui có, buồn có, bực tức có, phẫn nộ có, lạc quan có.
Sự ghi ấy đến với chúng ta như thế nào, sau nửa thế kỷ? Nó cho biết một phần sự thật về thế giới đã bị chôn vùi, dĩ nhiên là dưới con mắt chủ quan của người ghi. Một sự chủ quan đầy ý nghĩa vì đây là những hàng nhật ký chứ không phải hồi ký. Đây là những ghi chép hàng ngày, tại chỗ, còn nóng hổi, chỉ để giúp trí nhớ của riêng mình, không có hậu ý cho người khác đọc. Mà dù có muốn người khác đọc, thì cũng không chắc có một ngày người ta sẽ đọc. Bị xếp trong hòm, nó còn mang tính cách trăn trối, trăn trối với mình, trăn trối với người, trăn trối với nghệ thuật. Vì không cốt yếu viết cho “người khác” đọc, cho nên nó không cần phải “làm đẹp” lên hoặc “làm xấu” đi, không phải giả đò tự phê phán mình để tỏ niềm trung thực, như một số hồi ký viết về thời kỳ này, cốt viết và in cho người khác đọc. Bởi thế, khi đọc Trần Dần ghi, tức là chúng ta đã xâm phạm vào đời tư cá nhân Trần Dần, vào chỗ thầm kín nhất của con người: vào những ý nghĩ riêng tư, nhiều khi thái quá, vào những sự thật trần truồng, nhiều khi không khoan nhượng, vào những sai lầm có thể có, đối với bất cứ ai. Đó là con dao hai lưỡi, cũng là lợi khí của văn học nằm trong tinh thần sáng tác của Trần Dần.
Tập Trần Dần ghi 1954-1960 gồm ba phần. Phần đầu là những suy nghĩ về sáng tạo. Phần thứ nhì chụp lại thời đấu tố. Phần thứ ba nghiêng về chân dung và cuộc sống con người trong ba năm kỷ luật.
Phần thứ nhất, ngắn nhưng sắc sảo, bộc lộ quan niệm thơ nói riêng và sáng tác nói chung của Trần Dần. Tuy viết từ thời trẻ, nhưng đã khái quát những suy nghĩ sâu sắc của một đời người, đời thơ, bao trùm những ý nghĩa triết lý và nghiệm sinh. Đó là một lối tuyên ngôn nghệ thuật phát xuất tự đáy lòng, với những trăn trở, vừa muốn tìm hiểu, vừa để xác định một trật tự cho riêng mình, nhưng chưa vỡ lẽ cái mình muốn xác định ấy là gì. Trần Dần viết: “... những hình ảnh thơ nóng bỏng, cháy như lửa, một hình ảnh ánh lên nhiều hình ảnh, hình ảnh nọ chống đối hình ảnh kia, hoà hợp với nhau, lôi kéo nhau trong một điệu nhảy ma quỷ... Đúng là: một cuộc sống chaotique, nhưng một cái chaos có harmonie của nó. Một điệu danse macabre có cái thần tiên của nó. Một cái hỗn độn có cái trật tự của nó. Và cái harmonie, cái thần tiên, cái trật tự đó là tuỳ theo tiêu chuẩn, tôi cho là: ý thích của tôi. Mà ý thích của tôi là theo tiêu chuẩn tối cao! Đó là sơ lược cái mơ ước ngày tôi 18, 19 tuổi.” (trang 35)
Đó là lời “tuyên ngôn” thơ, rất “hỗn độn”, mơ hồ, nhưng lại rất sát với thơ. Nếu so với những lời văn hoa Trần Dần viết trong bản “Tuyên ngôn tượng trưng” của nhóm Dạ Đài mười năm trước, nào những “Chúng tôi -một đoàn thất thổ- đã đầu thai nhằm lúc sao mờ” (rất Vũ Hoàng Chương), nào những “Chúng tôi đã nhìn lên Tinh đẩu và đã nhìn xuống Thế nhân”, nào những “Sụp đổ: lâu đài phong nguyệt; và mai một: ý tứ những thi nhân mò ánh trăng mà thác”... thì đúng là trong hoàn cảnh nào, các tuyên ngôn cũng vô dụng. Tuyên ngôn Dạ Đài trịnh trọng, khuôn sáo, không nói được gì, so với mấy trang đầu tập Trần Dần ghi 1954-1960.
Nói với mình, Trần Dần bỏ hẳn lối viết rườm rà, hoa mỹ, để hướng về chữ, chỉ có chữ, trần trụi chữ, sâu và thực.
*
Phê bình văn, thơ kháng chiến
Câu hỏi đầu tiên đến với người sáng tác là: viết như thế nào? Trần Dần không thoát ra ngoài thông lệ. Lúc ấy đang đánh nhau, có đòi hỏi phải viết về chiến tranh. Người ta bảo phải viết như thế này, thế kia. Còn anh? Là nhà văn, anh nghĩ gì? Anh viết như thế nào?
Trần Dần ghi: “Chúng ta thấy chúng ta vào khói ra lửa, sinh tử không sờn, chúng ta thấy chúng ta hành động ghê gớm lắm. Nhưng có điều buồn là chúng ta không thấy chúng ta! [...]
Chiến tranh rèn luyện. Chúng ta được nhiều điều. Nhưng [...] tôi nói nó là bộ xương. Chiến tranh làm chúng ta rắn xương rắn thịt, làm cho tâm hồn chúng ta có hình cốt, có cái khung rất tốt rất bền. Nhung bạn đừng lầm bảo rằng bộ xương đó là người, hình cốt và và cái khung là tâm hồn rồi đó. Nói vậy là một sự dối trá [...]
Cho nên bạn nói Chiến tranh là rèn luyện;- bạn cần nghĩ thêm Hoà Bình cũng rèn luyện, mà còn rèn luyện hơn là chiến tranh nữa [...]
Hoà Bình rồi, người ta mới có thể biết trong chiến tranh người ta đã mất mát và thu hoạch được những gì. [...] Tôi nói rằng chúng ta mất nhiều hơn. Tại vì tôi nghĩ tới chiến tranh và tội ác của nó. Và tại vì tôi so sánh những cái thu hoạch 9 năm chiến tranh vừa qua với những cái thu hoạch lớn hơn gấp bội nếu 9 năm qua là 9 năm kiến thiết Hoà Bình. [...] Vì thế tôi muốn viết nhiều, muốn viết những cái tôi chưa dám viết. Và tôi muốn viết không có kiểm duyệt. [...]
Tôi vừa viết xong cuốn Người người lớp lớp. Viết về chiến tranh ở Điện Biên Phủ đấy. Nhưng mà tôi đã chán rồi. Tại vì rằng tôi ít thấy sự thực của chiến tranh trong đó quá. Và vì rằng tôi thấy ít sự thực của bản thân trong đó quá. Chưa phải là chiến tranh và chưa phải là tôi. Cho nên tôi viết tới hơn 300 trang mà không thích bằng một bài thơ tôi cũng mới làm về chiến tranh: “Anh đã thấy” (mes douleurs) trên dưới có 6 trang! Vài trang thơ này tôi còn thấy chiến tranh nhiều hơn, và thấy tôi nhiều hơn 300 trang Người người lớp lớp.
[...] Tôi muốn tả những người chiến sĩ. Người rất già người rất trẻ. Người bần cố và người con địa chủ. Người con tư sản và người công nhân. Người học sinh và người không biết chữ. Người đã làm sư và người đi ăn cướp. Người đi buôn và người đã bị buôn. Người đã lừa lọc và người đã bị lừa lọc. [...] Người anh hùng và người dút dát. Người lấy súng bắn địch và người lại lấy súng tự thương. [...] Người thuần, người ngổ ngáo. Người chỉ biết phục tùng, người hay cãi bướng. Và đa số là ngại học tập,ngại nghe đả thông. Ngại nghe cán bộ nói nhiều. Ngại bị “nắm tư tưởng”. Nắm, nắm con cặc.
[...]
Tôi nghe người ta nói đừng viết cuộc sống telle qu’elle est (chú thích: cuộc sống như nó đang diễn ra) mà phải viết la vie telle qu’elle doit être! (cuộc sống như nó phải được diễn ra) - Tôi lại hiểu rằng: viết cuộc sống telle qu’elle est tức là viết cuộc sống telle qu’elle doit être.- Tôi hiểu rằng không có gì đẹp hơn, không có gì cao cả hơn, không có gì cộng sản hơn là: Sự Thực không tô điểm, Sự Thực trần truồng. Và cũng không có gì xấu hơn, không có gì yếu ớt hơn, phi cộng sản hơn là Sự Thực tô điểm, Sự Thực mặc áo hồng, áo xanh, áo hoa. Tôi nói rằng, dù áo hoa đó thích hợp, dù sự tô điểm đó là tô theo phương hướng thực của cuộc sống thực, thì cái áo đó và sự tô điểm đó vẫn cứ là không đáng tán thành. Cuộc sống cởi truồng, nó có ý nghĩa như những sự tô điểm và những bộ áo đẹp và lý tưởng nhất. Màu da của cuộc đời toute nue, đó là tất cả các bộ áo của trần gian rồi[...]
Chính vì vậy tôi muốn viết chiến tranh telle qu’elle est. 10 cây số máu. Xương phơi đầy đường. Người đáng sống thì chết. Kẻ đáng chết thì sống mãi. Tôi tưởng rằng, nếu mà nói giáo dục, thì không gì giáo dục hơn là sự thực ở trần. Chiến tranh cởi truồng là có thể giáo dục Chiến tranh, lại giáo dục cả Hoà Bình [...]
Cho nên tôi rất muốn viết về chiến tranh. Viết thật trần truồng. Không gì lớn hơn Sự Thực. Vì vậy cho nên không bao giờ tôi viết được Sự Thực[...] Nhưng mà cũng không bao giờ tôi lại không muốn tả cho đúng Sự Thực.[...]” (trích những dòng ghi từ 16/9 đến 1/10/54, trang 43-48).
Lời ghi trần trụi trên đây là một tuyên ngôn cởi truồng về mục đích của văn học, về nhân cách của nhà văn. Suốt cuộc đời, Trần Dần đã tôn trọng nó: ông đã ghi lại cuộc sống của mình, của những người xung quanh, bằng trái tim, một trái tim dù bị dìm dẫm, bằm vặp, nhầu nát nhưng vẫn giữ tròn nhiệm vụ lọc máu để nuôi sống con người.
24/12/1954, đêm Noël, Trần Dần ghi:
“Bước quanh bờ Hồ. Trời tôi tối. Còn vẳng tiếng hát micro nhà thờ buông trầm trầm. Hai thằng đi. Tôi và Lê Đạt. Buồn quá. Đây là những lúc người tôi hẫng lắm. Rỗng lắm. Tôi còn đầy dư vị những câu chuyện trao đổi đêm nay về chính sách văn nghệ. Dư vị chua, đắng, nhạt thếch.
Xem bài thơ “Đại hội văn công” của Dương Chi trên báo Thời Mới. Tôi nhớ lại nhiều bài thơ kháng chiến của anh em kháng chiến. Ý tứ, điệu nhịp. Tôi có ý nghĩ so sánh. Thấy nó na ná nhau quá. Thử đào sâu hơn, tôi thấy phương pháp thơ của Dương Chi không khác là bao nhiêu với phương pháp thơ của nhiều anh em kháng chiến(!) Tôi còn muốn nói là giống nhau nữa. Phương pháp thơ gì? Tôi cho rằng phương pháp thơ đó, căn bản có mấy điểm:
1) một nội dung chính trị chưa thấm, chưa nhuyễn tới mức không còn là chính trị đơn thuần nữa;
2) trộn vào nội dung chính trị đó, một vài cái gì ươn ướt một tí! Ví dụ “đại hội văn công” thì trộn vào:tình đất nước, xuôi ngược Mán, Thổ, Mường... Nam Bắc... bốn phương về đây tụ hội. Và một vài cái ánh đèn... con mắt trái tim rung v.v... [...]
3) đem cái đó đặt thành vần điệu. Kỹ thuật là xem các thể thơ 4, 5, 6, 7 chữ. Thi thoảng hạ một câu lục bát nghe có vẻ mê ly. Tôi thường nghĩ đó là một ngón “thơ chim gái”. Phụ nữ nghe phải sít soa. Và cả quần chúng khi đó, lúc đó, cũng phải rít lên. Nhưng về sau không còn ai nhớ nó nữa.
Vì vậy tôi coi phương pháp thơ Dương Chi trong bài đó giống phương pháp của anh em kháng chiến. Theo ý tôi là một phương pháp thơ rất hỏng. Không có gì đáng gọi là cách mạng cả. Tôi muốn nói: “Các anh đừng có lên mặt kháng chiến. Đừng vênh váo mình tiến bộ. Đừng khinh anh em trong Hà Nội lạc hậu! Về cơ bản, các anh không hơn gì anh em Hà Nội đâu. [...] Ta chưa có cách mạng thi ca”.
Tôi nhớ một hôm tôi đọc chơi chơi ví dụ: “hồn lâng lâng mơ máu giặc nồng say”. Nhiều anh em cười. Tôi đố: thơ ở đâu nào? Có anh đoán:- Một tờ báo Hà Nội nào hẳn? Tôi nói thực: Đó là tập Tiếng hát của nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân. Thơ kháng chiến đấy!” (trang 65- 66).
Trần Dần ghi những điều mà mọi người thấy, nhưng không dám nói ra: Một người chuyên trị thơ kháng chiến như Tố Hữu, nếu ông chịu khó đọc lại thơ ông, thì ông sẽ thấy Trần Dần nói đúng, thơ ông đầy những câu văn hoa ngớ ngẩn, lẩy Kiều một tý, ngược xuôi Mán Mường một tý, ươn ướt một tý, ca dao một tý, rất đúng ngữ điệu “chim gái”:
Mười lăm năm ấy ai quênBài Bầm ơi, vào loại rất hay của Tố Hữu cũng là một bài lẩy ca dao:
Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.
(trích Việt bắc)
Bầm ra ruộng cấy bầm run,Cho nên khi bình thơ Tố Hữu, Trần Dần đã phê một câu chí lý: “Chỗ nào hay thì lại là lặp lại Nguyễn Du, Tản Đà, ca dao... Tố Hữu chưa đem tới một cách nhìn mới mẻ gì.”
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.
Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu.
Sớm nay xa cách làng CòngMàu mè hơn Tố Hữu, Xuân Diệu tìm cách trộn trạo hổ lốn các yếu tố ca dao, lao động, nông dân, canh tác... vào cho đủ lệ bộ mũ mã cân đai, có thể rất hợp khẩu vị lãnh đạo, nhưng không làm rung động mảy may “lòng người”. Bài này thuộc loại tạm được, nhưng Xuân Diệu còn bao bài thơ khẩu hiệu không thể nào đọc được, ví dụ:
Bước đi một bước trong lòng mến yêu
Làng Còng vất vả, gieo neo
Tô đong, thóc rẽ, bao nhiêu căm thù.
Nông dân lao động bốn mùa
Trồng bông, bón mía, lại vừa tỉa ngô.
Mùa thường ngập lụt chẳng no
Chiêm thời thỉnh thoảng mất khô một kỳ.
Tháng ba hái củi nặng nề
Tháng mười kéo một đêm khuya thức ròng.
(trích bài Tặng làng Còng)
Người gánh gánh của chúng tôi: là ĐảngTóm lại, hầu như không một nhà thơ nào, thời ấy, theo kháng chiến, (tự nguyện hay bắt buộc) làm thơ ca tụng, mà không nặn ra những bài văn vần, nửa vè, nửa khẩu hiệu, tạo nên một vũ trụ quái thai thơ. Vũ Hoàng Chương cũng có những câu:
Người gánh gánh với chúng ta: là Đảng
Người gánh ta, ta gánh Người: là Đảng
Người gánh đất, Người gánh trời: là Đảng.
(trích bài Gánh)
Chen tiếng hoan hô này khẩu hiệuĐó là bi kịch chung của thơ văn kháng chiến mà Trần Dần đã cô đọng lại trong vài hàng phê bình thẳng thắn và xác thực.
Muôn năm chủ tịch Hồ Chí Minh.
Muôn năm người lính già tiêu biểu
Vì giang sơn quyết bỏ gia đình
(trích bài Nhớ về Hà Nội vàng son)
Đăng bởi Thái Linh vào 10/02/2009 07:55
Dạ khúc trường thiên Cổng tỉnh là một tập tiểu thuyết thơ, viết trong khoảng 59-60, cùng thời với ba tập thơ khác: Sắc lệnh, Con tầu xã hội và 17 tình ca. Cả ba đều chưa xuất bản. 59-60 cũng là năm Hoàng Cầm sáng tác Về Kinh Bắc.
Cổng tỉnh được nhà xuất bản Hội Nhà Văn in năm 1994, 15 năm sau khi viết xong.
Thời điểm 58-60 là những năm kinh hoàng, sau Nhân Văn. Không khí đen tối dội lại trong Về Kinh Bắc và Cổng tỉnh.
Cả Trần Dần lẫn Hoàng Cầm đều lấy đêm làm phông cho hai khúc ca bi tráng của mình.
Về Kinh Bắc bắt đầu bằng 5 đêm: đêm Thổ, đêm Kim, đêm Mộc, đêm Thuỷ và đêm Hoả. Hoàng Cầm về Kinh Bắc, về quê cha đất tổ, lậy mẹ, mách mẹ những kinh hoàng đàn áp:
Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khócKhông chỗ dung thân, Trần Dần về Nam Ðịnh, về “phố mẹ”, nhờ ký ức mở cửa cổng tỉnh, mở gan ruột mình, trở về “tảo mộ xó quê” trong nhà tù tỉnh, bằng những lời thơ mà ông gọi là dạ khúc. Dạ khúc về những đêm giữa ban ngày trong ông và trong lòng tỉnh.
Con không cười, con thoảng nhớ thoảng quên.
Kỷ niệm! Đưa tôi về chốn cũVà cứ thế, nhà thơ và kỷ niệm âm thầm dẫn nhau đi, trong đêm, qua cổng tỉnh, trở về đất cũ, chỗ nào không nhớ rõ, nhà thơ lại hỏi kỷ niệm:
Đừng ngại mây che từng cây số buồn rầu
Đừng ngại mở trong lòng vài khung cửa nhớ thương.
Đây có phải bụi Cửa Trường?Và cứ thế, người và kỷ niệm lủi thủi rủ nhau đi, về sâu, về xa, xuyên thời gian, về lại tuổi trẻ:
Một cuống nhau chôn trạnh lòng phố mẹ!...
Đây có phải đường Hàng Song xanh lấm tấm sao chiều?
16 tuổi!!!Và cứ thế, vừa đi, nhà thơ vừa tâm sự với kỷ niệm:
Đây là đêm
Ngoài cổng đề lao tim... sao mọc hững hờ.
Đây là ngày
thời gian lặp đi lặp lại những chiều vàng vọt như nhau.
Tôi kiểm thảo bản thân cùng một thời đại buồn rầuCuốn tiểu thuyết gồm hai phần, phần thứ nhất tên là Đêm và phần hai Càng đêm.
Đêm xuống ướt mui rồi
Sông khuya tì tũm vỗ
Đi thôi! Kỷ niệm!
Có lẽ xa kia là phố tôi sinh
Có sương sớm đọng trên đèn muộn
Tù và thơ ơi!
Dạ khúc khởi đầu.
Gió thổi kèm ma mưa thui lòng ngõ hẹp.
ò... ò đêm đi như một cỗ quan tài.
(trang 11)
Tượng chúa Jê-xu búa gõ tầm tầmQuá khứ và hiện tại hoà nhau trong không khí tha ma: Thành Nam dưới thời Pháp thuộc chôn trong hiện tại 59-60 của Trần Dần:
Gió đánh hàng bàng, lá chết chạy vòng quanh
(trang 12)
Cổng tỉnh! Người đi nhoà nhoà Cổng tỉnh!Thành Nam lâm nạm: “Phố cụt bị thương... phố mù khắc khoải” (trang 36),
Lá rắc vàng hồ
Phố héo người đi
Là mùa đi!
Người đi manh chiếu rách
Người đi tay áo quệt đôi mày
Năm tàn rồi... Ai?
Ai bắt người đi nhoà nhoà Cổng tỉnh
Ai?
Ai treo cổ rặng đèn trên dãy phố bồ côi
(trang 50)
Đi đâu? Chớ lạc thành quách bàn cờ.Thành phố phòng nhì, thành phố công an, mật vụ, khắp nẻo bị chặn đường:
Xoà xoã tóc hàng cây.
(trang 18)
Đứng lại! Ai qua phố ngang
(trang 18)
Bóng tối đầy hàm răng cảnh sátThành phố không lối thoát, ngõ cụt, người đâm:
Ðầu phố ngoạm một người
(trang 21)
Phố cụt đâm vào phố cụtThành phố không chỗ dung thân:
Tôi đâm ngang phố Hàng Đồng đâm bổ xuống bờ sông
(trang 30)
Tôi còn một mình kháng cự với mông mênhThành phố ăn mày:
Tôi đứng thẳng trụ người đêm ngã bẩy
(trang 17)
Phố chéo chênh chênh. Ăn mày gặp ăn màyThành phố bán mình:
Lườm nhau - mắt vải điều cay cay chớp nắng
(trang 12)
Phố nịt vú-phố rơi voanThành phố, đói, Ất Dậu: con vện vàng hấp hối, kéo chiếc xe chở nắm xương khô của chủ, đi lần hồi, hành khất từng nhà:
Phố nào thơm dạ hợp
(trang 23)
Chiếc xe lăn thừng nâu... con vàng rũ cổRồi một chiều đông con vàng kiệt sức, bỏ chủ ra đi. Người hành khất già quờ quạng:
Một nắm xương khô lọc lọc lòng đường.
Vàng con ơi! Hãy kéo thoai thoải hoàng hôn
Xe đi run run từng bục cửa
Hãy chờ! Nếu quả có lòng nhân.
Heo may dù úa phố
(trang 45)
Ai?Cổng tỉnh là một liên khúc bi đát: đói, đau, cùm, xích... vượt thời gian theo đuổi mãi con người. Cổng tỉnh là những chân dung hôm qua và hôm nay, chập vào nhau như hai giọt nước: chân dung người, chân dung chó, chân dung phố, chân dung gió, chân dung mưa, chân dung bom, chân dung thành phố, chân dung lãnh tụ:
Ai kẻ chôn con?
Cất mình chẳng nổi.
Ngã vật bên lề đường
Nấc rồi lại nấc
Vàng con ơi! Cho bố khất!
Tay run quờ lá rỉ
Đắp chiếu đầy xe
Con bằng lòng vậy
Kiếp sau báo đáp đồng lần
Cha lại kéo xe con.
(trang 46)
Đã có ta suy nghĩ hộ các ngươi!Chân dung Hitler. Đúng. Võ rất kín: Chân dung Hitler trùng hợp với chân dung những lãnh tụ độc tài, tiêu diệt nghệ thuật, hò hét chiến tranh: “ta suy nghĩ hộ, tắt mọi thứ nhạc, chỉ gầm gừ họng sắt nhạc ca nông”, thế giới đại đồng: “Hỡi năm đại châu! Hỡi tiếng nói đầu lòng! Phải bập bẹ Furher”, nhại thơ Tố Hữu: “Tiếng đầu lòng con gọi Xít Ta Lin”.
Thuỷ bộ không quân!
Mệnh lệnh!
Các ngươi sẽ đi xéo nát các thành quách
Tắt Bách! Tắt Be to (Beetho)! Tắt mọi thứ nhạc.
Chỉ để gầm gừ họng sắt nhạc ca nông
Ta muốn nghe các dân tộc rống lên như con bò bị búa nện
Các ngươi phải luôn tay chọc tiết các kinh thành
Các ngươi sẽ đi dạy dỗ các dân tộc
Người Áo! Ðừng nhận mình có thành Viên
Người Lỗ! Hãy quên Bucarest.
Hỡi năm đại châu! Hỡi tiếng nói đầu lòng!
Phải bập bẹ Furher!
[...]
Ở đâu cũng chỉ cần một thứ ảnh; ảnh ta thôi!
Một thứ tượng: tượng ta là đủ!
(trang 96-97)
“Báo đê!”... số đặc biệt buổi chiềuNgười Dần vẫn đi trong phố, trong đêm, càng đi càng đêm... Sau chiến thắng, người Dần được gì?: “Tôi được- đầu lâu ao máu. Ánh đèn bày nhày phố gái mãi dâm” (trang 106). Và sau nữa, thời 59-60, người Dần còn được, được nhiều hơn nữa: “Sớm trước trổ cung vua. Chiều sau tạc chó đá” (trang 111).
...
Mưa máu! Mưa máu cổng nhà thờ
Đàn chiên xạc xào buổi lễ
...
Mưa máu phố trăng non trẻ thơ chơi rồng rắn
Mưa máu thư tình
Mủ chữ nhoà trang
(trang 89)
Đăng bởi Thập Tứ Cách Cách vào 09/07/2009 00:06
Tháng năm, anh Trần Dần vô chơi Huế, cùng đi với Phùng Quán. Trần Dần đã đến Huế lần đầu tiên vào năm 1946, lúc bấy giờ anh mới 21 tuổi; đây là chuyến giang hồ dành riêng cho tình yêu, với một người đẹp nay đã biệt tích trong đời.
Vừa đến Huế, trong một tuần lễ Trần Dần đã tiếp xúc với công chúng hai lần, ở Hội Văn Học Nghệ Thuật Bình Trị Thiên và ở nhà văn hoá Thanh niên Thành đoàn Huế. «Ở cả hai nơi đó», Trần Dần thú nhận, «lúc đầu tôi cảm thấy rét vì phải đối diện với đám đông, sau đó lại quá xúc động vì tính chất thẳng thắn của những câu hỏi đặt ra cho tôi. Cả hai cuộc đối thoại sau đó đều làm tôi mất ngủ». Tôi để ý thấy trong lúc nói chuyện Trần Dần thường dừng lại đột ngột và gõ «cộp…cộp» vào micrô, dù nó vẫn hoạt động tốt: hoá ra là từ ba chục năm nay anh không hề biết tới cái micrô, và bây giờ thỉnh thoảng anh chợt thấy im bặt, không nghe được tiếng nói của mình.
Lần thứ ba trong tuần, chúng tôi gặp lại Trần Dần trong một cuộc rượu bảy tám anh em văn chương ở nhà Ngô Minh nơi dốc Bến Ngự, gần khu vườn cũ của Phan Bội Châu. Chúng tôi quyết định tiếp tục cuộc đối thoại với thi sĩ, trên những vấn đề gợi mở từ hai cuộc gặp gỡ trước. Sau đây là câu hỏi của từng người và ý kiến riêng của Trần Dần, dưới ánh đèn dầu tù mù (vì cúp điện) tôi ghi lại.
Hoàng Phủ Ngọc Tường (mở đầu): Thưa anh, con người sống ai cũng cần có nhân cách, nhà văn lại càng phải có nhân cách. Theo anh nhân cách nhà văn quan trọng nhất là ở chỗ nào?
Trần Dần: Nhân cách nhà văn chính là văn cách của anh ta. Tôi không thấy mô-đen nào cho văn cách cả. Văn cách không chung cho ai. Văn là mình, không thằng nào giống thằng nào. Nó phải tự khẳng định cái tôi của nó, không lùi một ly. Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát là chính mình, không lùi một ly.
Nguyễn Quang Lập: Xin hỏi thật anh: qua thời Nhân Văn, anh tự thấy anh được cái gì nhiều nhất?
Trần Dần: Được cái hoạn nạn. (Thi sĩ chợt im lặng, và tất cả chúng tôi cùng im lặng trong nỗi xúc động. Rồi anh tiếp:) Do được cái hoạn nạn nên được không dưới ba chục tác phẩm trong ba mươi năm. [Tôi xin ghi lại ở đây một số tác phẩm của Trần Dần trong yếu mục sáng tác của tác giả: [i]Chiều mưa trước cửa[/i] (1943), Hồn xanh dị kỳ (1944), Dạ Đài (1946), vẽ và viết báo Sông Đà, Giải Phóng Tây Bắc, Giải Phóng Biên Giới vv...(1946-1949), Tiếng trống tương lai (1954), Người người lớp lớp (1954), Nhất định thắng, Cách mạng tháng Tám (1955), Bài thơ Việt Bắc (1957), 17 tình ca (1957-1958, nằm), Cổng tỉnh (1960, thi tập, nằm)[1], Đêm núm sen (1961, tiểu thuyết, nằm), Những ngã tư và những cột đèn (1965, tiểu thuyết, nằm), Mùa sạch (1964-1965, thi tập nằm)[2], Một ngày Cẩm Phả (1965, tiểu thuyết, nằm), Con trắng (1967, thơ hồi kí, nằm), 177 cảnh (1968, hùng ca lụa, nằm), Động đất tâm thần (1974), Thơ không lời-Mây không lời (1978), Thiên thanh-77-Ngày ngày (bộ tam, 1979), 36-Thở dài-Tư mã dâng sao (bộ tam, 1980), Thơ mini (1987)...]
Nguyễn Quang Lập (tiếp): Có dư luận cho rằng các anh làm dự báo tốt. Nhưng văn cách thì các anh chưa thành công, theo tôi. Vì bạn đọc chưa hâm mộ như trường hợp Bác sĩ Jivagô.
Trần Dần (một chân bị liệt cơ lại phải ngồi trên đòn, đứng dậy vịn ghế cho đỡ mỏi): Ngay độc giả của mình cũng chưa biết mình muốn cái gì. Họ nói thế nhưng họ xác định bằng cái gì? Tiền chiến chỉ quan trọng khi họ chưa biết chúng tôi là ai. Tôi chưa có độc giả. Tác phẩm của tôi sẽ đảm bảo công chúng của tôi.
Vĩnh Nguyên: Nhật Bản có thơ haiku, anh có thơ mini ngắn hơn. Có người nói thơ haiku ngắn nhưng dễ hiểu. Vậy thơ mini định bắt người đọc tới đâu?
(Đêm trước ở hội Văn Nghệ, Phùng Quán đã có dịp giới thiệu thơ mini của Trần Dần, bài chỉ có một, hai câu. Thí dụ như thế này: Mưa rơi không cần phiên dịch, hoặc Mỗi người một vụ án / Mỗi người chôn sống một chân mây, vân vân.)
Trần Dần (ừ ừ…ngẫm nghĩ): Thơ haiku mọi người biết rồi. Thơ mini nay ai cũng chưa biết. Chính tôi cũng chưa biết nó là gì. Nên không thể so sánh. (Một lát, tiếp). Chống công thức là đi tìm cái chưa biết. Cái mới là cái chưa biết. Tôi đi tìm cái mới nên tôi cũng chưa biết thơ mini là gì.
Ngô Minh: Một điều anh em rất trăn trở, nhân thơ mini của anh Trần Dần. Mình muốn chữ cho đắt cho hay thì thơ lại mất đi cái lửa. Chữ trong thơ yêu cầu rất cô. Nếu không có lửa thì thơ không xúc động, nếu viết theo tình thì chữ lại dàn trải quá.
Nguyễn Quang Lập (bổ sung): Nếu chỉ có chữ hay thì chỉ là một bức tranh đẹp anh trình bày bằng chữ. Có lẽ đúng như thế.
Trần Dần: Nó mâu thuẫn nhau rất dữ, cái biết rồi là nghĩa, cái chưa biết là chữ. Cái chưa biết là cái thăm thẳm. Anh làm câu châm ngôn hay như Khổng Tử chưa phải là thơ, nghịch lý như Lão Tử chưa phải là thơ. Nhảy qua bóng mình mới là thơ. Mình chưa hiểu thơ, vì khó mà nhảy qua bóng của mình.
Hoàng Phủ Ngọc Tường: Lão Tử nói: «Vô danh thiên địa chi thuỷ - Hữu danh vạn vật chi mẫu» (Vô danh là khởi đầu của trời đất - Hữu danh là mẹ của vạn vật). Như thế có gì khác với thơ mini không?
Trần Dần: Đó là triết học. Triết học cũng thăm thẳm.
Nguyễn Quang Lập: Lúc nãy anh Dần nói sở dĩ vậy là vì anh chưa có độc giả. Nhưng thời đó các anh có độc giả, ai cũng từng biết Người người lớp lớp và Vượt Côn Đảo, vv…Tôi xin hỏi: nhiều người nói, nếu in lại những tác phẩm đó thì độc giả ít dần đi. Vậy là văn cách chưa đủ sống với thời gian. Anh Dần nghĩ sao?
Trần Dần: Thời đó là độc giả tiền chiến. Chúng tôi cướp độc giả tiền chiến và sau đó họ cấm chúng tôi, nên chúng tôi chưa kịp có độc giả. Bây giờ chúng tôi sẽ phải chiếm lại độc giả. Chúng tôi đã ba mươi năm khuất bóng.
Ngô Minh: Ba mươi năm trước các anh có độc giả. Rồi im bặt. Ba mươi năm sau anh lại ra, liệu có độc giả hay không?
Trần Dần: Chúng tôi sốt ruột in, tôi mong in để xem. Tốc độ bây giờ nhanh lắm, ba mươi năm ba thế hệ, chúng tôi chỉ là một nhịp cầu để tới thế hệ mới. Đó là một thách thức. Aragông đi mãi với thế hệ trẻ. Chúng tôi cũng hy vọng như vậy.
Ngô Minh: Đọc Vượt Côn Đảo của Phùng Quán, thấy lý tưởng cao lớn, nhưng văn cách thì thế hệ trẻ bây giờ lớn hơn nhiều. Văn cách Vượt Côn Đảo rất vỡ lòng, dù tôi rất kính trọng về lý tưởng. Nguyễn Quang Lập chẳng hạn, bây giờ, văn cách lớn hơn nhiều...
Phùng Quán: Nếu Lập nó chỉ viết bằng tôi thì tôi phải đập cho nó vỡ mật...
Hoàng Phủ Ngọc Tường: Giá như Truyện Kiều vừa mới được viết xong bây giờ, do một tác giả trẻ nào đó ở trường Nguyễn Du của Hội Nhà Văn đem nộp bản thảo cho nhà Tác Phẩm Mới. Liệu người ta có thèm in hay không?
Phùng Quán: Đúng quá. Bây giờ phải viết hay hơn Nguyễn Du chứ!
Hoàng Phủ Ngọc Tường: Không thể viết hay hơn Nguyễn Du nổi. Vấn đề là phải viết khác Nguyễn Du.
Trần Dần: Thế giới bây giờ mong nếu anh có được một độc giả là sướng rồi, được hai ba đọc là may quá.
Nguyễn Quang Lập: «Tôi chỉ viết cho những người bằng vai», anh Trần Dần đã có lần nói như thế. Vậy có phải anh chủ trương nghệ thuật phi giao tiếp, hoặc nghệ thuật dành cho những người đặc tuyển hay không?
Trần Dần: Không. Nhưng quần chúng văn học của anh như thế nào thì là do anh tạo ra. Do đó, tôi cho rằng, tôi viết cho những người bằng vai.
Nguyễn Quang Lập: Krapchenkô có nói rằng không nên đánh đồng tính dễ hiểu với sự tầm thường; nhưng tính dễ hiểu cũng là một đặc trưng của văn học. Anh nghĩ thế nào về điều đó?
Trần Dần: Tôi không coi Krapchenkô là cái gì cả. Tất cả mọi giá trị Chân Thiện Mỹ đều là khó hiểu, trượt băng nghệ thuật cũng khó hiểu.
Ngô Minh: Độc giả ở Hội hỏi anh: Thế giới anh thích ai nhất? Tiền chiến ai nhất? Thời anh, anh nể ai nhất? Sau anh, anh đọc ai?
Trần Dần: Thế giới nhiều lắm nhưng tôi nói về văn học Pháp. Xuất phát tôi yêu Mallarmé, Baudelaire rồi nhất là Rimbaud. Tôi tiếp tục đọc, nhưng cái gốc là ở phía trước. Dòng Rabelais tiếp tục cho đến bây giờ là Céline, hồ sơ đen số một của Liên Xô thời Stalin. Céline là tác giả của tiểu thuyết Đi đến tận cùng đêm. Tiền chiến Việt Nam tôi thích Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Vũ Trọng Phụng, vớt vát thêm thì còn Thạch Lam. Thời bọn tôi, ngoài bọn Nhân Văn thì tôi chẳng còn thích ai. Hoàng Cầm là tên lãng mạn. Xuân Diệu vốn là lãng mạn tiền chiến.
Thế hệ trẻ à? Tôi cứ đợi mãi. Nó bị trong vòng vây của văn chương cung đình, tôi sốt ruột đợi lớp trẻ đủ sức lớn lên để chôn bọn tôi, như chúng tôi đã chôn tiền chiến.
Hoàng Phủ Ngọc Tường: Cho phép tôi quay lại trước một chút. Tôi e rằng anh đánh giá Đinh Hùng hơi quá, ngoại trừ việc thích hoặc không thích. Tôi có dịp đọc Đinh Hùng khá nhiều, xin lỗi anh, tôi thấy văn chương ông ta loè loẹt, có cái gì ghê ghê, như là son phấn. Nếu tôi nhớ không nhầm thì ngay trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh cũng chỉ xếp Đinh Hùng ngồi ở «Chiếu ba» trong làng văn lúc đó…
Trần Dần: Đinh Hùng thời đó là không có chiếu gì. Nhưng Ngõ Bò (gần Bạch Mai, thời đó là nhà ông Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương) là trung tâm thu hút. Ai cũng thấy Đinh Hùng là thi sĩ tượng trưng đầu tiên của Việt Nam trong Mê hồn ca, Lạc hồn ca, vv… Thơ Đinh Hùng như thế này: “Nửa mặt phù sinh nép hậu trường”. Tôi thích là vậy.
Hoàng Phủ Ngọc Tường: Tôi rất thú vị về cái quyết tâm «chôn tiền chiến» của thế hệ các anh. Đọc lại văn của các anh thời đó, đã in hoặc trên bản thảo, tôi lạ lùng thấy các anh đã làm nổi cái việc khủng khiếp ấy, là vừa đánh Điện Bên Phủ, vừa «chôn tiền chiến». Tôi biết, cho đến bây giờ nhiều người trong công chúng văn học vẫn chưa hết bị ám ảnh về cái lộng ngữ «vĩ đại như tiền chiến». Dù rằng, ai cũng biết tiền chiến đã tạo ra được những thành tựu lớn lao cho đời sông văn học, so với thời trước của nó. Tôi cũng sốt ruột mong cho sách của các anh viết thời đó, hoặc viết thầm lặng trong ba mươi năm qua, sẽ nhanh chóng được tái bản hoặc công bố, để có thể nhìn lại sự Đổi Mới đích thực của văn học «sau tiền chiến». Tôi cho rằng lúc đó câu chuyện văn chương «minh hoạ» hay «không minh hoạ» chắc lại còn nhiều điều hạ hồi phân giải.
Vĩnh Nguyên: Thưa anh ca dao như thế nào? Tôi nhớ thơ anh nói: Sấm con gái – Lúa con gái. Thế cũng như Lúa non ngấp nghé đầu bờ, hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên… Vậy chính Trần Dần cũng là ca dao.
Trần Dần: Đó là di sản dân tộc, một ông thầy phải đặt ngang như Nguyễn Du, Cao Bá Quát. Phải học để mà chôn đi.
Phùng Quán: Các anh tiếp xúc với Trần Dần vài buổi đã thấy bằng vai, thì ngay anh em mình trước cũng không hiểu Trần Dần. Nay hiểu, vật lộn để hiểu nhau chính là vấn đề «bằng vai».
(Nghe Phùng Quán dùng chữ «vật lộn», tôi nhìn lại: Tất cả từ bao giờ đều đã đánh trần, trừ ông Trần Dần vẫn mặc áo, tay nào tay ấy mồ hôi ròng rã. Đêm nóng, điện cúp, nói nhỏ kẻo phiền hàng xóm, nhưng mọi cặp mắt đều có vẻ gì quyết liệt)
Nguyễn Quang Lập (đứng dậy, chống hai tay vào hông cho đỡ nóng): Tôi muốn hỏi lại, các anh đã bị đưa ra khỏi Hội Nhà Văn ba năm, sau đó thành ba mươi năm. Tại sao khi người ta yêu cầu các anh viết đơn để được vào lại, thì các anh lại viết?
Trần Dần: Lúc ấy tôi thật khó xử. Nếu theo mạch của tôi, thì tôi ghi vào phản-nhật-ký, là đốt hết và chết luôn, như nhà sư tự thiêu. Nhưng nghĩ lại, mình tuổi già đã hết cái máu ấy rồi. Sáu mươi ba tuổi, nếu được hoạt động hai năm nữa cũng quí rồi, cố mà ra khỏi đó. Nhưng tôi biết, phục hồi thì cũng vô thưởng vô phạt, chỉ là hình thức thôi. Sau đó nhiều người chất vấn tôi mà tôi không trả lời được. Như thế quả là hèn thực. Đáng lẽ là một Silence de la mort. Đó là cách trả lời mini nhất.
(Tan cuộc, nhìn lại đã gần mười hai giờ khuya.)
Trần Dần (chống gậy khập khiễng ra cổng, lầu bầu): Lại mất ngủ!
Đăng bởi Nguyễn Trọng Tạo vào 01/09/2009 22:28
Sau 42 năm, nhà thơ Trần Dần trở lại với Huế. Lần đầu, năm 21 tuổi (1946) anh đến Huế cùng với một người bạn gái làm một cuộc du ngoạn. Lần này, anh đi cùng Phùng Quán, người bạn thơ của anh vừa cùng được “trở lại” Hội Nhà Văn Việt Nam. Hai nhà thơ ghé thăm Hội Văn Nghệ tỉnh, gặp gỡ gần 100 nghệ sĩ và trí thức đang công tác tại Huế. Ðêm gặp gỡ diễn ra thật sôi động. Ðấy là một cuộc đối thoại thẳng thắn và cởi mở. Tuy tuổi tác già yếu, nhưng khi đối thoại, Trần Dần trở nên mạnh mẽ quyết liệt và hết sức chân tình. Anh nói:
“Tôi thích những cuộc đối thoại với nhau như tra tấn. Ðọc là tra tấn có một chiều. Ðối thoại là tra tấn lẫn nhau.”
Trong không khí cởi mở đó, nhà thơ Phùng Quán chiếm ngay diễn đàn giới thiệu tác giả Trần Dần. Anh kể tên những tác phẩm tiêu biểu của Trần Dần như tiểu thuyết Người người lớp lớp, Những ngã tư và những cột đèn, Ðêm núm sen, bài thơ “Nhất định thắng”, trường ca Ðây Việt Bắc, Cổng tỉnh, Mùa sạch, Thơ mini, v.v... Và anh đọc nhiều đoạn thơ tiêu biểu đã in và chưa in của Trần Dần. Phùng Quán tâm sự:
“Các tác phẩm của anh Trần Dần hầu như tôi đều đọc. Có cái tôi hiểu và có cái tôi không hiểu. Nhưng khi tôi hỏi, anh Trần Dần chỉ nói: ‘Mưa rơi không cần phiên dịch’. Ðề nghị anh Trần Dần nói rõ hơn điều này.”
TRẦN DẦN: Tôi với anh Phùng Quán còn thân hơn anh em. Nhưng thơ anh Phùng Quán là thơ quảng trường. Cũng như anh Hoàng Cầm, anh Phùng Quán đọc thơ rất lôi hút người nghe. Tôi lại không thích thơ để đọc. Tôi nghĩ cái tai ngu hơn cái mắt. Trần Dần thì con mắt chạy vào trong. Nhưng thơ thì mỗi người một kiểu. Có kiểu bày thơ, thơ triển lãm. Tôi đang làm thơ mini...
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG: Xin hỏi thật anh. Tại sao phải là thơ mini mà không thể là thơ cách khác. Vậy thơ mini có phải là thời thượng hay không? Thơ có cần thiết hay không?
TRẦN DẦN: Có thể nhịn ăn hai ba ngày, nhưng không thể nhịn thơ. Thơ là thơ thì hết sức cần thiết. Thơ của chúng ta đứng ở “tiền chiến” không được. Phải sáng tạo cái mới của chúng ta. Có người hỏi thơ mini có bắt chước váy mini không? Không. Không có cái mốt gì sống cả.
XUÂN HOÀNG: Anh là nhà thơ đi làm cái mới. Vậy thơ anh có gì kết hợp với ca dao truyền thống hay không?
TRẦN DẦN: Ca dao là lửa, cũng là thầy. Với tôi, Du, Hương, Khiêm, Quát hay Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chương là thầy. Nhưng học trò phải “chôn” thầy. Thơ nay hầu như vẫn đặt nghĩa. Tôi đặt thơ là chữ. Con chữ nó làm nghĩa. “Mai sau dù có bao giờ” là con chữ. “Chữ tài liền với chữ tai một vần” là đặt nghĩa.
NGUYỄN XUÂN TỰ: Thưa anh, tôi nghĩ rằng, muốn là một kiểu, làm thơ là một kiểu. Anh nói làm thơ để đọc bằng mắt, vậy người đọc hôm nay tìm anh ở quyển sách nào? Thơ văn Lý Trần người ta cần đọc. Theo anh, người ta cần đọc anh hay không?
TRẦN DẦN: Tôi muốn in ra sách. Nhưng đó là việc của nhà xuất bản. Còn tôi viết là viết cho những người bằng vai. Dù cha chú mình thì vẫn là vô hình. Phải vật nhau, đánh nhau để tạo ra độc giả. Tác giả qua tác phẩm tạo ra độc giả của mình. Tôi chưa kịp tạo ra độc giả thì đã bị vụ ‘Nhân Văn’ rồi...
NGUYỄN ÐẮC XUÂN: Chúng tôi tham gia tranh đấu ở miền Nam, nghe nói sau vụ ‘Nhân Văn’, anh có làm những tập thơ gửi ông này ông nọ trước đấy phản đối anh. Anh có thể cho biết sự tiếp nhận của họ như thế nào?
TRẦN DẦN: Thơ không phải là cái nghề. Tôi nằm như người bị chém, và tôi gửi thơ lên như người phá vây. Còn đầu hàng hay không thì cũng không biết. Nhưng khó ai dàn hoà được tôi với anh Tố Hữu (về quan niệm thơ –NTT). Tôi không làm văn vần.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG: Anh có làm thơ tình yêu không? Và anh quan niệm thế nào về đổi mới hiện nay?
TRẦN DẦN: Sáng tạo là tình yêu. Dù không nói gì về tình yêu, dù không làm về đề tài tình yêu, nhưng những con chữ “làm tình” trong thơ. Theo tôi, đổi mới là tạo nên sáng tạo. Phải để cho các thế hệ tự do sáng tạo. Nếu nói Trần-Dần-Giá-Trị, đấy phải là Giá-Trị-Tự-Do.
NGUYỄN TRỌNG TẠO: Tiểu thuyết Người người lớp lớp của anh là một giá trị. Anh làm ra giá trị đó hơn 30 năm trước. Nay đọc lại, theo anh, nó có rơi vào văn chương minh hoạ hay không, hay là nó vẫn là một giá trị thực sự?
TRẦN DẦN: Nó là hình thức mới. Người người lớp lớp là cái chữ chưa có trước đó. “Ðây rồi”, tôi đã bắt được nó. Sau chiến dịch là nghệ thuật, chứ không phải đi làm chống tiêu cực, làm ký. Nội dung của nó cũng là một sáng tạo, một giá trị. Sau thấy bộ đội làm thơ dùng chữ “Người người lớp lớp”, tôi khoái. Nhưng sau này nói cái gì về tập thể, người ta lại nói “người người lớp lớp”, tôi lại ngán!
(Mọi người cùng cười, phá tan không khí căng thẳng gần hai tiếng đồng hồ trôi qua.)
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG: Không nên lạm dụng sức khoẻ của anh. Tuy vậy, tôi muốn hỏi anh thêm một câu: Theo anh, nhân cách nhà văn quan trọng ở những điểm nào?
TRẦN DẦN: Nhân cách là văn cách. Ðấy là nhân cách sáng tạo. Tôi mong muốn mỗi công dân là một người Thơ. Ðầu tiên là làm người.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG: Cũng có lúc nhà văn sống khác với những điều họ nói. Vậy có tin những điều họ nói và những điều họ sống là một hay không?
TRẤN DẦN: Nhà văn cũng như mọi người. Tin vào mọi người như thế nào, hãy tin vào nhà văn như thế ấy. Theo tôi, có tin mà cũng có ngờ nữa...
*
Cuộc đối thoại đã kết thúc, nhiều người vẫn còn nán lại với hai vị khách quí. Còn được biết thêm, đây là lần đầu tiên sau hơn ba mươi năm anh Trần Dần tiếp xúc chính thức với “đám đông”. Anh chống gậy, chia tay mọi người và vui vẻ nói:
“Ðúng là tra tấn nhau. Vã cả mồi hôi...”