704.06
Nước: Việt Nam (Hiện đại)
77 bài thơ, 17 bài dịch
8 bình luận
33 người thích
Tạo ngày 04/05/2007 13:18 bởi cỏ hoang, đã sửa 2 lần, lần cuối ngày 28/06/2008 07:10 bởi Vanachi
Trần Dần (23/8/1926 - 17/1/1997) tên thật là Trần Văn Dần, nguyên quán thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Cha Trần Dần là một viên chức kho bạc Nam Định. Ông học qua bậc Thành chung ở quê rồi lên Hà Nội học tiếp và đỗ Tú tài Triết.

Năm 1946, Trần Dần cùng Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương thành lập nhóm thơ tượng trưng Dạ đài với tuyên ngôn 16-11-1946 với những câu: “Chúng tôi, một lũ người vong gia thất thổ, trót đầu thai nhằm lúc sao mờ…” Đến ngày 19-12-1946, ông cùng nhóm Dạ đài ra số báo Dạ đài 2, khi Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông trở về Nam Định tham gia công tác thông tin tuyên truyền ở huyện Vụ Bản rồi làm việc ở Sở Tuyên truyền Khu IV.

Năm 1948, ông tham gia Vệ quốc quân, ở Ban Chính trị Trung đoàn 148 Sơn La (nay thuộc Sư đoàn 316), làm công…

 

Thơ dịch tác giả khác

 

 

Ảnh đại diện

Phong trào Nhân văn giai phẩm

Nhân Văn Giai Phẩm là phong trào đòi hỏi tự do dân chủ của văn nghê sĩ và trí thức miền Bắc, có tầm vóc lớn lao, khởi xướng đầu năm 1955 và bị chính thức dập tắt vào tháng 6 năm 1958.

Từ 1959 cho đến nay, hai nguồn tư liệu tương đối đầy đủ về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP) vẫn chỉ là: Cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc (THĐNTĐB) của Hoàng Văn Chí, do Mặt Trận Tự Do Văn Hoá, in ở Sài Gòn năm 1959 và cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận (BNVGPTTADL) của Nxb Sự Thật, in ở Hà Nội, cùng năm 1959.

Từ thập niên 90 trở đi, ở ngoài nước, có thêm một số tư liệu mới, rải rác dưới dạng tự thuật, bút ký... của những nhà văn đã tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm như Phùng Quán, Phùng Cung, Hữu Loan, Hoàng Cầm... và hồi ký Trần Dần (Văn Nghệ, Californie, 2001). Những tư liệu này góp phần làm sáng tỏ thêm về Nhân Văn Giai Phẩm, giúp các nhà nghiên cứu sau này có thể xây dựng lại bối cảnh toàn diện của phong trào tranh đấu cho tự do sáng tác độc đáo trong lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ XX.

Ngày 13/4/1999, trong dịp nhà thơ Lê Đạt sang Pháp lần thứ nhì, chúng tôi đã đề nghị ghi âm ông, mong ông soi rõ những chỗ chưa được các tài liệu trước nói đến, hoặc nói sai. Buổi nói chuyện - được thu thanh với chủ đích giữ lại làm tài liệu văn học sử- vừa mang tính cách cá nhân, vừa có tính cách hệ thống về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Chúng tôi đã đồng ý với nhà thơ là sẽ chỉ công bố tài liệu sau khi ông qua đời, bởi lúc đó ông cho biết, ông không có ý định viết hồi ký.

Đầu năm 2004, nhân dịp kỷ niệm 50 năm trận Điện Biên Phủ 1954-2004, chúng tôi dự định làm một chương trình đặc biệt kỷ niệm 50 năm phong trào Nhân Văn Giai Phẩm (nếu coi 1954 như thời điểm manh nha sự gặp gỡ giữa các văn nghệ sĩ chủ trương phong trào), vì vậy đã cố gắng liên lạc với nhà thơ Lê Đạt qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội, nhưng không thể thực hiện một cuộc phỏng vấn mới, bởi chỉ qua vài lời đối thoại là đường dây bị nhiễu ngay. Sau nhiều tháng phân vân, cuối cùng, với sự đồng ý của nhà thơ Lê Đạt, chúng tôi quyết định phát thanh trên RFI, toàn bộ buổi nói chuyện thu thanh ngày 13/4/1999 tại Paris, do đó mà tập tài liệu văn học sử này đến với người nghe và người đọc sớ hơn dự tính.

Đây là lần đầu tiên, một tư liệu trực tiếp qua lời thuật của một thành viên cột trụ trong Nhân Văn Giai Phẩm được công bố. Bên cạnh nhân chứng của Lê Đạt, còn có nhân chứng của hai nhân vật chủ chốt khác trong phong trào, đó là buổi phỏng vấn ngắn nhà chính trị và văn hoá Nguyễn Hữu Đang, ghi âm qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội tháng 8/1995, nhân dịp chúng tôi hỏi ông về việc ông tổ chức ngày lễ Độc Lập 2/9/1945. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng có thể ghi âm được ông Nguyễn Hữu Đang. Tất cả những cố gắng về sau đều vô hiệu: bởi chỉ nói vài câu là đường dây điện thoại bị nhiễu ngay. Những buổi nói chuyện với nhà thơ Hoàng Cầm được ghi âm tản mạn trong khoảng thời gian từ 1995 đến 2000, và truyền thanh trên RFI, trong những dịp khác nhau. Các bạn sẽ lưu ý thấy sự trả lời của Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội, không đạt mức độ tự do triệt để như trường hợp trò truyện trực tiếp với Lê Đạt ở Paris. Nhưng tựu trung cả ba chứng nhân cùng đồng quy ở điểm nói thẳng, nói thật cho nên có những câu hỏi cùng đặt ra cho Hoàng Cầm và Lê Đạt ở những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau nhưng những câu trả lời gần như tương tự. Phần phát biểu của nhà thơ Lê Đạt, cho đến nay, là chứng từ quan trọng và đầy đủ nhất về lịch sử Nhân Văn Giai Phẩm.

*

Hoàng Văn Chí, tức Mạc Định, soạn giả Trăm hoa đua nở trên đất Bắc (Mặt Trận Tự Do Văn Hoá xuất bản tại Sài Gòn) cho biết: “Ở Hà Nội ra đi đầu năm 1955, tôi đã hẹn với các bạn ở lại là hễ có dịp sẽ nói lên tiếng nói của họ”, “Tôi làm việc một mình”, “Tôi liên lạc được với một uỷ viên trong Uỷ ban kiểm soát đình chiến. Họ đi Hà Nội như đi chợ. Mỗi tuần họ cắp về Sài Gòn cho tôi tất cả báo chí xuất bản ở Hà Nội”, “Tôi làm việc trong hai năm 56-58”. “Bộ Thông tin và nói chung, chính quyền Sài Gòn không hề giúp. Lý Trung Dung đến chào Bộ Thông tin, yêu cầu mua cho một số, nhưng chẳng mua một cuốn nào”. “Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá ở Việt Nam là một chi nhánh của một tổ chức quốc tế, tên là Congress for Cultural Freedom, trụ sở trung ương ở 104 boulevard Haussmann, Paris. Bác sĩ Lý Trung Dung làm chủ tịch. Tội nghiệp, chỉ vì làm chủ tịch Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá mà phải đi cải tạo đến nay (1986) chưa được thả”. “Trước khi đưa in, Lý Trung Dung nghe nói có người gần ông Diệm ngờ rằng tôi soạn cuốn Trăm hoa đua nở là có ý xúi dục trí thức miền Nam bắt chước trí thức miền Bắc nổi lên chống lại chế độ. Vì vậy nên Lý Trung Dung bàn với tôi nên để bút hiệu Mạc Định là soạn giả. Chỉ ký tên Hoàng Văn Chí vào bài Tựa” (Phỏng vấn cụ Hoàng Văn Chí, Từ Nguyên thực hiện, bán nguyệt san Tự Do số 50, ngày 16/11/1986, phát hành tại Bỉ).

Hoàng Văn Chí đã nói rõ lý do và điều kiện ra đời của tập THĐNTĐB. Nhưng tại sao Hoàng Văn Chí lại đặc biệt lưu ý đến phong trào Nhân Văn Giai Phẩm? Ai là những người “ở lại” mà Hoàng Văn Chí đã hứa sẽ nói lên tiếng nói của họ? Nếu tìm sâu hơn về liên hệ gia đình giữa Hoàng Văn Chí và Phan Khôi, có thể chúng ta thấy câu trả lời: Sở Cuồng Lê Dư có ba người con gái -và vì bà Lê Dư là em ruột Phan Khôi- cho nên ba cô này là cháu ruột Phan Khôi. Cô đầu gả cho Vũ Ngọc Phan, cô thứ nhì lấy Hoàng Văn Chí và cô út là vợ Tướng Nguyễn Sơn. Riêng nữ sĩ Hằng Phương, vợ nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, đã viết bài đả kích thậm tệ Nhân Văn Giai Phẩm. Và rất có thể, người em ruột Hằng Phương, tức bà Hoàng Văn Chí, là một trong những động cơ thúc đẩy Hoàng Văn Chí thu thập tài liệu và viết về Nhân Văn Giai Phẩm.

Tác phẩm của Hoàng văn Chí, cho đến nay vẫn là tác phẩm hoàn chỉnh nhất về phong trào. Phần lớn những tác nhân chính đều có mặt, với một tiểu sử khá chính xác và những bài viết tiêu biểu của họ trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm. Nhược điểm duy nhất: vì không phải là người trong cuộc, và ông đã rời miền Bắc từ đầu năm 1955, khi phong trào mới manh nha, cho nên có những điểm sai mà ngày nay qua chứng nhân của những người trong cuộc, chúng ta có thể đính chính lại được.

Tập tài liệu tựa đề Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận do Nxb Sự Thật (nay là Nxb Chính Trị Quốc Gia), in tháng 6, năm 1959, tại Hà Nội, là cuốn sách tập hợp những bài viết hoặc diễn văn tố cáo, lên án, buộc tội Nhân Văn Giai Phẩm. Cuốn sách có một chương nhỏ, in lại “những lời thú tội” của các thành viên Nhân Văn Giai Phẩm, còn toàn thể dành cho phía công tố “phát hiện tội”, với những lời lẽ vô cùng khiếm nhã, khó thể mường tượng được, từ miệng, hoặc từ ngòi bút của giới được gọi là “trí thức văn nghệ sĩ” đối với các đồng nghiệp và bạn hữu của mình đã tham gia Nhân Văn Giai Phẩm. Nó ghi lại một thời kỳ mà nhân cách con người đã đạt tới đáy sâu của sự tha hoá.

Tập tư liệu dày 370 trang này còn hữu ích về mặt lịch sử và văn học sử, nó mở ra nhiều khía cạnh của vấn đề NVGP: về tầm vóc của phong trào, về không khí đàn áp thời đó, về mức độ khốc liệt của lớp đấu tranh Thái Hà mà sau này, nhà thơ Lê Đạt sẽ mô tả một cách tường tận.

Những bài luận tội có tính cách hạ nhục NVGP của 83 văn nghệ sĩ, và các đoàn thể, báo chí, nhân dân cũng như các vị trong ban chấp hành trung ương Đảng, với những tên tuổi như: Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Phạm Huy Thông, Trần Hữu Tước, Đặng Thai Mai, Nguyễn Huy Tưởng, Hồng Cương, Nguyễn Văn Bổng, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông, Hồ Đắc Di, Vũ Đức Phúc, Quang Đạm, Bàng Sĩ Nguyên, Nguỵ Như Kontum, Hằng Phương, Lương Xuân Nhị v.v... phản ảnh rất rõ nhân cách của người tố. Ví dụ cách viết của Nguyễn Huy Tưởng, Đặng Thai Mai, không giống cách viết của Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Phạm Huy Thông... Cho nên, có thể nói, chính với những “văn bản tố”, các tác giả đã để lại nhân cách trí thức của mình trong ký ức dân tộc. Sau cùng nhờ cách sắp xếp thứ tự “những tên đầu sỏ” trong cuốn sách mà chúng ta biết được thứ tự “tội” nặng, “tội” nhẹ, cùng hoạt động của mỗi người.

Hành trình Nhân Văn Giai Phẩm

Với những tư liệu và nhân chứng hiện hành, ngày nay chúng ta có thể tóm tắt lịch trình hoạt động của phong trào NVGP như sau:

Tháng 3/1955, trong quân đội, nổi lên một phong trào tranh đấu do Trần Dần, Tử Phác chủ trương (với sự cộng tác của Lê Đạt, Hoàng Cầm và các văn nghệ sĩ khác...): Một mặt, lên tiếng phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Một mặt, đưa ra đề nghị cải cách chính sách văn nghệ trong quân đội, chủ yếu đòi trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ.

Tố Hữu viết:

Cuộc tấn công vào chế độ ta và Đảng ta đã bắt đầu trên mặt trận văn nghệ từ đầu năm 1955, ngay khi hoà bình vừa lập lại.

Trong khi bọn gián điệp còn giấu mặt chờ đợi thời cơ, và bọn tờ-rốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo tích cực chuẩn bị lực lượng ở trường Đại học, thì bọn Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, hai tên phản Đảng ẩn nấp trong báo Văn Nghệ của Hội Văn Nghệ cùng bọn Trần Dần, Tử Phác cũng là những tên phản Đảng trong phòng Văn nghệ quân đội, đã kết thành một bè phái chống Đảng trong Văn nghệ.

Như lời thú nhận của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc là do cái bè phái ấy sắp đặt, để đánh vào sự lãnh đạo và đường lối văn nghệ của Đảng, đường lối phục vụ chính trị cách mạng, phục vụ công nông binh, và để đề xướng cái “điệu tâm hồn” ruỗng nát của chủ nghĩa cá nhân tư sản, mở cửa cho lối sống tự do sa đoạ.
Đương nhiên cái “điệu tâm hồn” ấy của Lê Đạt xướng lên không thể nào hoà được với cái điệu lớn của cách mạng, và cũng rất tự nhiên nó chỉ hoà được với “tiếng sáo tiền kiếp” lóc gân của tên mật thám Trần Duy.

Cũng lúc ấy, bọn Trần Dần, Tử Phác -những đứa con hư hỏng của Hà nội cũ- nay lại trở về với “cảnh cũ người xưa” bỗng cảm thấy đời sống trong quân đội “nghẹt thở”, chỉ vì thiếu cái tự do trở lại đời sống truỵ lạc cũ. Đối với chúng, đời sống trong quân đội cách mạng chỉ còn là “những sợi dây xích trói buộc phải phá mà ra”. Được tiêm thêm ít nhiều chất phản động của Hồ Phong, Trần Dần gióng lên “tiếng trống tương lai” chửi cán bộ chính trị là “người bệnh”, “người ròi”, “người ụ”. Cùng Tử Phác, khiêu khích những anh em khác, hắn tổ chức một cuộc đấu tranh “buộc lãnh đạo thực hiện mọi yêu cầu” của họ.
Họ đòi thực hiện những gì? “Trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ. Thủ tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội. Thủ tiêu mọi chế độ quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội. Thành lập trong quân đội một chi Hội văn nghệ trực thuộc Hội văn nghệ, không qua Cục Tuyên Huấn và Tổng Cục Chính Trị”. Tóm lại là thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng và kỷ luật của quân đội đối với họ” (Tố Hữu, Nhìn lại 3 năm phá hoại của nhóm “Nhân Văn-Giai Phẩm”, BNVGPTTADL, trang 22-24). Vì vụ việc này, Trần Dần bị giam trong trại từ 13/6 đến 14/9 để kiểm thảo. Trong thời gian bị giam, Trần Dần viết trường ca Nhất định thắng mà Hoàng Cầm và Lê Đạt đều có bản thảo.

Cùng thời điểm đó, báo Nói Thật của Hoàng Công Khanh trích đăng bài Sự chia tay giữa văn nghệ và chính trị của Lỗ Tấn.

Nhưng phải đến tháng 2 năm 1956, phong trào mới chính thức công khai, với sự xuất hiện của Giai phẩm mùa xuân, do Hoàng Cầm và Lê Đạt chủ trương, đăng các tác phẩm của Trần Dần, Văn Cao, Sĩ Ngọc, Tử Phác, Phùng Quán, Nguyễn Sáng, Tô Vũ... Giai phẩm mùa xuân, ngoài bài Nhất định thắng của Trần Dần xem như cái sườn chính, còn có bài thơ Ông bình vôi của Lê Đạt, và Cái chổi quét rác rưởi của Phùng Quán. Lúc đó, Trần Dần và Tử Phác, đang tham gia cải cách ruộng đất tại Yên Viên, Bắc Ninh, và theo Hoàng Cầm thì Trần Dần không hề biết việc đăng bài thơ Nhất định thắng. Bài thơ của Trần Dần đã gây tai hoạ cho nhà thơ và tờ giai phẩm. Báo vừa phát hành, Lê Đạt bị gọi ngay lên Tuyên huấn để kiểm thảo. Giai phẩm mùa xuân bị tịch thu. Trần Dần và Tử Phác bị bắt. Trần Dần cứa cổ tự vận nhưng không chết [1].

Hồng Cương viết: “Nhân cơ hội đó, tất cả các lực lượng đối lập với chủ nghĩa xã hội đều ngóc đầu dậy chống lại sự lãnh đạo của Đảng và chính phủ. Bọn phản động trong Công Giáo hành động phá rối trật tự ở Nghệ An, Nam Định v.v...” (sđd, trang 17).

Tuy vậy, nhà cầm quyền miền Bắc vẫn chưa có thái độ dứt khoát với những người làm Giai phẩm mùa xuân.

Ngày 26/5/1956, Mao Trạch Đông phát động phong trào “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Ngày 28/6/1956, Ba Lan nổi dậy. Theo chính sách của Tàu, Đảng Lao động (tiền thân của đảng Cộng sản) cũng nới rộng chính sách văn hoá chính trị: Tháng 8/1956, Hội Văn Nghệ đứng ra tổ chức lớp 18 ngày, học tập dân chủ trong văn nghệ, học tập chống tệ sùng bái cá nhân (Staline) của Liên Xô. Trong lớp học này, sự phê phán chính sách văn nghệ của nhà nước khá mạnh mẽ, đặc biệt Nguyễn Hữu Đang đứng ra đọc bài tham luận “nảy lửa” chỉ trích đường lối văn nghệ của Đảng.

Ngày 29/8/1956, Giai phẩm mùa thu (tập I) ra đời, có bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi, bài Bệnh sùng bái cá nhân trong lãnh đạo văn nghệ của Trương Tửu...

Ngày 15/9/1956, bán nguyệt san Nhân Văn số 1, do Hoàng Cầm, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, chủ trương, với Phan Khôi chủ nhiệm và Trần Duy thư ký toà soạn, ra đời với những bài chủ chốt: Con người Trần Dần của Hoàng Cầm, bài thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, và bức tranh Nguyễn Sáng vẽ Trần Dần với vết sẹo trên cổ...

30/9/1956 Nhân Văn số 2.

8/10/1956 tái bản Giai phẩm mùa xuân.

15/10/1956 Nhân Văn số 3, đăng bài Nỗ lực phát triển dân chủ của Trần Đức Thảo...

Cuối tháng 10/1956, Giai phẩm mùa thu (tập II) ra đời, có những bài Những người khổng lồ của Trần Duy, Chống tham ô lãng phí của Phùng Quán, Cũng những thằng nịnh hót của Hữu Loan... Đồng thời ở đại học, các giáo sư Trương Tửu, Trần Đức Thảo... huy động sinh viên cho ra tờ Đất Mới số 1, với Phùng Quán, Bùi Quang Đoài... Đất Mới ra được một số thì bị đình bản. Hồng Cương viết: “Sự chống đối của chúng không còn tính chất văn nghệ nữa mà đã trở thành một cuộc chống đối vế chính trị công khai. Nhóm Giai Phẩm chống Đảng về văn nghệ đã biến thành nhóm phá hoại chính trị trắng trợn “Nhân Văn-Giai Phẩm”. (...) Từ Nhân Văn số 4 trở đi (...) thì chúng đã chuyển hẳn sang chống đối về chính trị, kích động quần chúng biểu tình chống lại Đảng và chính phủ ta nhân lúc Quốc Hội ta đang họp.” (sđd, trang 18-19).

05/11/1956 Nhân Văn số 4, đăng bài Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ của Trần Duy, Con ngựa già của chúa Trịnh của Phùng Cung...

10/11/1956 Hungary nổi dậy.

20/11/1956 Nhân Văn số 5, đăng bài Bài học về Ba-lan và Hun-ga-ri của Lê Đạt, ký tên Người Quan Sát, bên cạnh bài xã luận Hiến pháp Việt Nam 1946 và Hiến pháp Trung Hoa của Nguyễn Hữu Đang, Thi sĩ máy của Như Mai...

Tháng 11/1956 Giai phẩm mùa thu tập III đăng các bài Văn nghệ và chính trị của Trương Tửu, Muốn phát triển học thuật của Đào Duy Anh...

Tháng 12/1956 Giai phẩm mùa đông, đăng bài Nội dung xã hội và hình thức tự do của Trần Đức Thảo; đăng tiếp Văn nghệ và chính trị của Trương Tửu...

09/12/1956, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bãi bỏ quyền tự do báo chí.

15/12/1956, Lệnh đóng cửa Nhân Văn, số 6 đang in, bị chận lại.

Từ 20 đến 28/2/1957, Đại hội văn nghệ lần thứ hai họp tại Hà Nội với gần 500 đại biểu, Trường Chinh kêu gọi đấu tranh “đập nát” phong trào NVGP. Tuy vậy, Đảng Lao Động vẫn giữ thái độ tương đối hoà hoãn với văn nghệ sĩ, bởi vì bên Trung quốc vẫn còn đang tiếp tục phong trào “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”, cho nên đến đầu tháng 4/1957 Hội Nhà Văn chính thức được thành lập (trước đây là Hội Văn Nghệ), Tô Hoài làm Tổng thư ký, kiêm giám đốc nhà xuất bản Hội Nhà Văn và một số thành viên cũ của Nhân Văn như Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh vẫn được bầu vào ban chấp hành. Ngày 10/5/1957, hội cho ra tuần báo Văn, với Nguyễn Công Hoan (chủ bút), Nguyễn Tuân (phó chủ bút), Nguyên Hồng (tổng thư ký). Ban đầu báo Văn cũng đi theo đường lối chính thống. Nhưng khi trên báo Học Tập (của đảng) Thế Toàn lên tiếng chê báo Văn “nghèo nàn”, “xa rời thực tế cách mạng”, Nguyên Hồng trả lời trên báo Văn số 15 (16/8/1957), phê bình Thế Toàn là “quan liêu”, “trịch thượng”, Văn dần dần thay đổi thái độ, chẳng bao lâu một số cây bút cũ trong NVGP lại thấy xuất hiện trên báo Văn. Văn số 21(27/9/1957) đăng bài thơ Lời mẹ dặn của Phùng Quán, số 24(18/10/57), đăng kịch thơ Tiếng hát của Hoàng Cầm, số 28 (15/11/1957), đăng bài Hãy đi mãi của Trần Dần. Số 30 (29/11/1957) in hý hoạ của Trần Duy chế giễu chế độ văn nghệ của Đảng.

Cuối năm 1957, Mao Trạch Đông hạ lệnh đánh phái hữu. Theo Hoàng Cầm: Huy Cận và một người nữa được cử đi học tập ở Trung Quốc trở về: Đảng liền thay đổi đường lối, chủ trương đàn áp mạnh hơn. Tờ Văn ngừng ở số 36 (10/1/1958), có đăng bài Ông Năm Chuột của Phan Khôi.

Để “trừ khử nọc độc Nhân Văn”, Đảng tổ chức hai lớp học tập đấu tranh chống “bọn NVGP” ở Thái Hà Ấp, mà tài liệu chính thức gọi là hai cuộc “hội nghị”:

“Đầu năm 1958, có hai cuộc hội nghị của anh chị em công tác văn nghệ, nghiên cứu nghị quyết của Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, kết hợp với hai bản Tuyên Ngôn và Tuyên Bố của hội nghị các Đảng Cộng Sản và các Đảng Công Nhân họp ở Mạc Tư Khoa cuối năm 1957. Hội nghị đầu, tháng 2 năm 1958, gồm 172 người dự. Hội nghị sau, tháng 3 năm 1958, gồm 304 người dự.

Qua hai cuộc hội nghị ấy, tất cả những “nhân vật” bỉ ổi đã được phát hiện (...) Cái ổ chuột “Nhân Văn- Giai Phẩm” bị vạch trần trước ánh sáng của dư luận.

Qua sự phát hiện của hai cuộc hội nghị nói trên, chúng ta được biết nhóm phá hoại “Nhân Văn Giai Phẩm” bao gồm những tên đầu sỏ, những “cây bút” đã viết “hoặc nhiều hoặc ít” cho “Nhân Văn Giai Phẩm” như: Thuỵ An, Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Phan Khôi, Trần Duy, Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Chu Ngọc, Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Phùng Quán, Hoàng Tích Linh, Trần Công, Trần Thịnh, Phan Vũ, Hoàng Huê, Huy Phương, Vĩnh Mai, Như Mai tức Châm Văn Biếm, Hữu Thung, Nguyễn Khắc Dực, Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Yến, Thanh Bình, Yến Lan, Nguyễn Thành Long, Trần Lê Văn, Lê Đại Thanh v.v...

Nhưng đó không phải là tất cả (còn những tên chưa ra mặt). Và cũng không phải tất cả những “cây bút” trên đây đều có những hành động phá hoại giống nhau, hoặc phá hoại với những mức độ giống nhau. Có bọn đầu sỏ, có bọn phụ hoạ...” (sđd, trang 309-310).

Những tên tuổi trên đây có lẽ đã không xếp đặt một cách tình cờ mà theo một trật tự “tội” nặng, nhẹ, đã được thẩm định từ trước.

Theo Lê Đạt, thực chất hội nghị đầu là dành cho 172 đảng viên, đi để học tập cách “phát hiện” và tố giác, để chuẩn bị cho hội nghị sau (gồm 304 người, cả đảng viên lẫn quần chúng và những người ngoài đảng tham gia NVGP), dốc toàn lực đấu tranh chống NVGP.

“Trận chiến đấu chống bọn phá hoại NVGP” đã kết thúc bằng hội nghị của ban chấp hành hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam, họp lần thứ ba tại Hà Nội ngày 4/6/1958 với bài báo cáo tổng kết của Tố Hữu, và Nghị quyết của của ban chấp hành hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam lên án “bọn” NVGP. Ngày 5/6/1958, tại Hà Nội, hơn 800 văn nghệ sĩ thảo bàn nghị quyết gọi là “Nghị quyết của 800 văn nghệ sĩ” phụ hoạ với nghị quyết của Hội Liên Hiệp. Sau đó trong tuần lễ từ 21/6 đến 3/7/1958, các ban chấp hành Hội Nhạc Sĩ, Hội Mỹ Thuật, Hội Nhà Văn, lần lượt thi hành các biện pháp kỷ luật đối với các thành viên của Hội đã tham gia NVGP:
- Hội Nhà Văn khai trừ Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh ra khỏi ban chấp hành.
- Hội Mỹ Thuật, cảnh cáo Sĩ Ngọc, “chấp nhận cho Sĩ Ngọc và Nguyễn Sáng rút khỏi ban chấp hành”.
- Hội Nhạc Sĩ “chấp nhận cho Văn Cao, Nguyễn Văn Tý rút khỏi ban chấp hành”.

Cả ba hội quyết định:
- Khai trừ Phan Khôi, Trương Tửu, Thuỵ An ra khỏi Hội Nhà Văn, Trần Duy ra khỏi Hội Mỹ Thuật.
- Khai trừ trong thời hạn một năm Hoàng Cầm và Phùng Quán ra khỏi hội nhà văn. Khai trừ ba năm Trần Dần, Lê Đạt ra khỏi Hội Nhà văn, ba năm Tử Phác và Đặng Đình Hưng ra khỏi Hội Nhạc sĩ. Và cảnh cáo một số hội viên khác đã tích cực hoạt động trong nhóm NVGP.

Đó mới chỉ là biện pháp kỷ luật của các hội văn nghệ đối với các thành viên của hội. Ngoài ra, người ta cũng chỉ biết sơ lược một số dữ kiện khác, như Thuỵ An, Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Phùng Cung (bị bắt tháng 5/61)... bị kết án từ 12 đến 15 năm tù. Các giáo sư đại học như Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh... bị cách chức và bị quản thúc. Còn những biện pháp trừng phạt đối với toàn bộ văn nghệ sĩ, trí thức, sinh viên và quần chúng đã ít nhiều tham gia, đã đọc, đã mua báo, hoặc đã ủng hộ phong trào NVGP, thì hiện nay chưa có một ước lượng nào gần với sự thật.

Mục đích hoạt động của phong trào

Theo lời buộc tội của Tố Hữu, công tác được “phân phối” như sau:
- Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm hoạt động ở Hội Nhà Văn.
- Trần Duy, Sĩ Ngọc, Nguyễn Sáng ở Hội Mỹ Thuật.
- Chu Ngọc, Hoàng Tích Linh ở Hội Nghệ Sĩ Sân Khấu
- Tử Phác, Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Đặng Đình Hưng ở hội Âm Nhạc.

Tố Hữu cho rằng: Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, là những “nhà tư tưởng của phong trào”. Thuỵ An, Nguyễn Hữu Đang liên lạc, huy động và khuyến khích anh em. Trần Thiếu Bảo (chủ nhà in Minh Đức) in các Giai phẩm, giúp đỡ tiền bạc và phương tiện để phát hành báo Nhân Văn. Nhà in Minh Đức còn là trụ sở của các cuộc họp báo Nhân Văn và Đất Mới.

Theo lời buộc tội của Nguyễn Đình Thi, thì chủ trương của NVGP dựa trên 6 điểm:

1. Cho chủ nghĩa Cộng Sản là không nhân văn, là chà đạp con người. Coi những người cộng sản là chà đạp con người. Coi những người cộng sản là những người khổng lồ không tim (Trần Duy). Văn học xã hội chủ nghĩa là công thức, giả tạo, đẻ ra những thi sĩ máy (Như Mai). Đòi quyền tự do cá nhân, tự do sống đời sống tình cảm riêng tư cuả mỗi con người: “Đem bục công an máy móc đặt giữa tim người. Bắt tình cảm ngược xuôi theo luật đi đường nhà nước” (Lê Đạt).

2. Phản đối chuyên chính, đòi dân chủ, tự do trên mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá. Đả kích mậu dịch, quản lý hộ khẩu, các bộ máy nhà nước. Đòi tự do đối lập.

3. Chống sùng bái cá nhân. Cho sự lãnh đạo của Đảng là Đảng trị, là độc đoán, mâu thuẫn với quyền lợi căn bản của con người. Bài Ông bình vôi của Lê Đạt có những câu:
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại.
4. Đề cao chủ nghĩa quốc gia, tư sản, đả kích Liên xô, cho sự giáo dục con người ở Liên xô là rập khuôn, văn học nghệ thuật Liên xô là công thức.

5. Chống chính sách cải cách ruộng đất.
(Xin mở ngoặc: Ngày 30/10/1956, trước Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội, luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc bài diễn văn quan trọng tựa đề “Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo”, nội dung phân tích những sai lầm của chế độ, đi từ sai lầm cải cách ruộng đất ở thôn quê, sang sai lầm trong chế độ mậu dịch ở thị thành, đến chính sách kinh tế mang tính cách bóc lột. Ông truy nguyên nguồn gốc những sai lầm và trình bày những nguyên tắc mới để sửa sang lại guồng máy luật pháp, chính trị, văn học, kinh tế).

6. Về văn nghệ, chủ trương phát triển “Trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng”. Chối bỏ sự lãnh đạo của Đảng, nêu cao khẩu hiệu “Trả lại văn nghệ cho văn nghệ sĩ”.
(6 điểm kê khai theo bài tố cáo của Nguyễn Đình Thi, sđd, trang 114).

Những nguy cơ sụp đổ chế độ cũng được bàn đến, Hồng Cương viết: “Hạ được tập thơ Việt Bắc và hạ được Tố Hữu xuống là hạ được cả giá trị văn nghệ kháng chiến xuống và hạ được sự lãnh đạo văn nghệ của Đảng và Chính phủ xuống. (...) Chúng vu khống chế độ ta là cộng sản thời trung cổ (communisme du moyen âge), là cộng sản phong kiến (communisme féodal), chế độ ta là cộng sản suy đồi (dégénérescence du communisme), chúng xuyên tạc và nguyền rủa chỉnh huấn của ta là đồi truỵ tinh thần (avilissement de l’esprit), là nô dịch hoá tư tưởng (esclavage de la pensée). Chúng chế giễu chính sách đãi ngộ của ta là “bổng lộc” vua ban, huân chương của ta là “mề đay” của đế quốc. Không khác gì Phan Khôi đã ví chế độ ta với một triều đại phong kiến nào đó.” (Hồng Cương, sđd, trang 128, 129).

Chính Hữu trong bài tố cáo Lê Đạt, nói đến cái hoạ Nhân Văn số 5: “... Lê Đạt đã viết Bài học về Ba-lan và Hung-ga-ri trong Nhân Văn số 5, ký tên “Người quan sát” đăng ngay bên cạnh bài xã luận kích động quần chúng của Nguyễn Hữu Đang Hiến Pháp Việt Nam 1946 và Hiến pháp Trung Hoa, trong đó có những đoạn nói đến quyền công dân được tổ chức biểu tình tuần hành thị uy. Bài của Lê Đạt đưa ra những nhận định nguy hiểm cho tình hình nước ta lúc đó: “... Nhưng tốc độ và mức độ sửa chữa không kịp với đòi hỏi của tình thế và yêu cầu của quần chúng nên càng thúc đẩy sự công phẫn và phong trào đấu tranh tự phát của quần chúng...” Hai bài báo đó là những lời kêu gọi làm loạn. Đạt và nhóm Nhân Văn đã hỗn xược buộc Đảng và chính quyền ta phải chọn lấy một trong hai con đường: hoặc “lập tức” mở rộng tự do dân chủ, để cho chúng và bọn thù địch khác phá hoại, và cải thiện “ngay” sinh hoạt cho nhân dân, nếu không quần chúng sẽ biểu tình.” (Chính Hữu, sđd, trang 130, 131).

Những người xây dựng nên phong trào

Nhiều người đã khuất, thế hệ trẻ ngày nay ít ai biết rõ về con người, về những hoạt động của họ. Những nhà văn mà Hoàng Văn Chí ghi lại tiểu sử và tác phẩm trong cuốn THĐNTĐB, được nhiều người biết đến hơn. Qua những bài buộc tội trong tập tài liệu BNVGPTTADL, chúng ta cũng có thể biết thêm được về tư tưởng và hành động của mỗi cá nhân và “tội trạng” nặng nhẹ của mỗi người.

Thuỵ An là người phụ nữ duy nhất -ở trong hay ở ngoài phong trào- bị kết án là “gián điệp”. Bà là một trường hợp đặc biệt, theo Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang, bà không ở trong NVGP, vậy mà tên bà được nêu lên hàng đầu trong “hàng ngũ phản động” với nhãn hiệu “Con phù thuỷ xảo quyệt” và những lời lẽ độc địa nhất dành cho bà: “Như vắt ngửi thấy máu, Thuỵ An như rắn bò tới các câu lạc bộ Hội Nhà văn phun nọc độc mạt sát chế độ ta bần cùng hoá nhân dân” (Bàng Sĩ Nguyên, sđd, trang 120).

Vụ án Thuỵ An có phải là một vụ án chính trị? Hay là một sự quy kết oan uổng? Lê Đạt sẽ soi tỏ một số nghi vấn chung quanh sự kiện này.

Trước hết Thuỵ An là ai? Thuỵ An hay Thuỵ An Hoàng Dân tên thật là Lưu Thị Yến. Cho đến nay chúng ta chỉ biết sơ về bà qua những gì Vũ Ngọc Phan đề cập đến trong Nhà văn hiện đại: Là một nhà thơ, nhưng bà là người đi tiên phong trong địa hạt tiểu thuyết với cuốn Một linh hồn (1943). Nhà phê bình họ Vũ nhận định: “Một linh hồn cũng đáng kể là cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay, tác giả đã giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách vững vàng, chắc chắn”. Bà đã từng làm chủ nhiệm những tờ Đàn Bà Mới (Sài Gòn), Phụ Nữ Tân Văn (Sài Gòn), và Đàn Bà (Hà Nội). Là phóng viên chiến tranh, bà đã tham dự nhiều cuộc nhảy dù ra mặt trận để cung cấp tài liệu cho báo chí. Bà đã từng giữ chức giám đốc Việt Tấn Xã.

Mới đây chúng tôi liên lạc với nhà văn kiêm nhà báo Bùi Thuỵ Băng, con trai thứ nhì của Thuỵ An, hiện làm chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt san Atlanta Việt báo, ông vừa hoàn tất tập tài liệu “Thuỵ An, 1945, 1954, 1975”. Tập tài liệu đồ sộ này sẽ được đăng dần trên Atlanta Việt báo và trên mạng Intrenet. Qua Bùi Thuỵ Băng, chúng tôi được biết thêm những chi tiết sau đây: Lưu Thị Yến sinh năm 1916 tại Hà Nội, là con ông bà Lưu Tiến Ích và Phùng Thị Tôn, quê gốc làng Hoà Xá, quận Vân Đình, tỉnh Hà Đông. Thủa nhỏ học trường Hàng Cót, Hà Nội. Năm 1929, 13 tuổi, Yến đã được đăng thơ trên tờ Nam Phong. 16 tuổi được giải thưởng văn chương của Triều đình Huế. Vào khoảng 1930-32, cô Yến được cha mẹ cho học tư thêm với một ông thầy người Quảng Bình. (Trong điện thư ngày 15/9/2004, ông Bùi Thuỵ Băng cho biết: “Người thày giáo đề cập ở đây là Tướng Võ nguyên Giáp. Năm 1930, ông ngoại của tôi đã mướn người thầy giáo sử địa Võ Nguyên Giáp về nhà kèm má tôi học. Năm 1933, má tôi theo thầy vô Nam - có thể để đi sang Trung hoa. Nhưng má tôi lại gặp ba tôi ở Sài Gòn và hai người lấy nhau”). Và trong bài tiểu sử Thuỵ An, Bùi Thuỵ Băng viết:

“Ông thầy giáo trẻ ấy đã bị trò Yến cùng các bạn trêu chọc là “Anh đồ Nghệ”. Hơn thế, Yến còn làm thơ nhạo báng dí dỏm:
...Khéo ghét anh đồ xứ Nghệ
Hơn mình mấy tí tuổi đầu (trích Sao lại mùa thu của Thuỵ An) (...)
Hơn thế nữa, chính người thầy giáo trẻ ấy lại là một chiến sĩ hoạt động trong bóng tối. Chúng ta hãy lắng nghe lời thơ giới thiệu của Thuỵ An về người anh hùng đó:
... Hung hãn vọng vào tiếng bể
Hờn căm rít ngọn gió Lào
Anh mang trùng dương giận dữ
Anh mang hoang dại khô khan.
và như:
Mắt anh hừng trí bốn phương
Tay run nắm hồn dân tộc
Tóc xoà vương hận núi sông
Môi bậm tay tai nghe rên xiết
Áo cơm doạ dưới cùm gông!...
Thật sự, Thuỵ An đã hấp thụ tư tưởng cách mạng qua Thầy đồ Nghệ
... Rồi anh bắt đầu dẫn dắt
Dạy em khui lửa bất bình
Oán hận réo sôi lòng đất
Công lý tù đầy uất uất
Miếng cơm nghẹn họng nhân sinh...
(Sao lại mùa thu)
(Trích tiểu sử Thuỵ An, do Thuỵ Băng viết).

Người chồng của Thuỵ An là giáo sư Bùi Nhung, em ruột ông Bùi Kỷ và bà Trần Trọng Kim. Bùi Nhung có bút hiệu là Băng Dương. Thuỵ An sinh được 6 người con: An Dương (1934), Thuỵ Băng (1937), Thư Linh (38), Dương Chi (39), Ngọc Trinh (43) và Châu Công (45). Ông Bùi Nhung hai lần làm giám đốc đài phát thanh Hà Nội từ 48-49, và 51-52; rồi giám đốc đài phát thanh Hải Phòng năm 1954. Thuỵ An - Băng Dương sống ly thân từ 1949, nhưng không ly dị vì cả hai đều theo đạo công giáo. Người ta cũng nói đến quan hệ giữa bà và ông Đỗ Đình Đạo, một nhân vật quan trọng của Việt Nam Quốc Dân Đảng cùng cái chết có nhiều nghi vấn của ông Đỗ Đình Đạo.

Trong thời kỳ NVGP, Phan Khôi nhận Thuỵ An là con nuôi. Theo cả hai bên nhân chứng, buộc tội cũng như bênh vực, thì bà thường xuyên ra vào các hội văn nghệ, bà đã có ảnh hưởng không nhỏ đối với một số văn nghệ sĩ tham gia NVGP. Bà liên lạc, nâng đỡ tinh thần, tích cực giúp đỡ anh em Nhân Văn, đặc biệt gia đình Lê Đạt. Theo Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang thì Thuỵ An không viết gì cho báo Nhân Văn. Nhưng có thể Thuỵ An viết cho báo khác, vì Vũ Đức Phúc trong bài tố cáo, có nói đến “những nhân vật như một anh nghiện hút, ăn cắp (trong Ông Năm Chuột của Phan Khôi), một con đĩ, một tên ăn cướp (trong Bích-xu-ra của Thuỵ An), một tên việt gian cao cấp, một tên sĩ quan trong quân đội địch trung thành với đế quốc (trong Trường hợp tòng quân của thiếu uý Lâm cũng của Thuỵ An), lại trở thành những người đáng thương, đáng yêu, những người yêu nước đáng học tập” (BNVGPTTADL, trang 118).

Trả lời câu hỏi: Thuỵ An bị bắt ở đâu? Bùi Thuỵ Băng, trong cuộc nói chuyện điện thoại với chúng tôi, ngày 16/12/2004, cho biết: “Tôi nghe nói bà cụ tôi bị bắt ở Hoà Xá. Nhưng theo lời ông cụ tôi thì bị bắt ở Phủ Lý. Tại sao lại như vậy? Bởi vì khi thấy lâm nguy, biết mình bị theo dõi, Thuỵ An thường di chuyển giữa Hà Nam-Phủ Lý (quê chồng) và Hoà Xá-Vân Đình (quê mình) để trốn tránh”.

Thuỵ An bị giam tại Hoả Lò Hà Nội từ tháng 3/1957 đến đầu năm 1960, bà bị đưa ra toà, rồi sau đó bị chuyển đi trại giam khác. Vào Hoả Lò chưa được 3 tháng bà đã tự chọc mù một mắt. Con người đã viết những câu thơ “Tay run nắm hồn dân tộc, tóc xoà vương hận núi sông” lại một lần nữa ký tên dưới hành động của mình: lần này dưới những chữ đòi tự do, dân chủ cho dân tộc vừa lấy lại được quyền tự chủ.

Việc bà chọc mắt, được nhiều người thân xác nhận, trong đó có Lê Đạt. Bùi Thuỵ Băng cho biết: “Trong số những bài viết về bà cụ tôi, có bài của Trần Minh, tựa đề “Nhân văn giai phẩm, một tư trào, một tội ác” đăng trong Giai phẩm (Việt Báo) xuân Tân Tỵ 2001, là chính xác nhất. Với những chi tiết mà chính tôi trước đây cũng không biết: Vào Hoả Lò chưa được 3 tháng thì bà cụ tôi chọc mắt. Lý do là bởi phải ra toà án nhân dân, đứng trước lá cờ đỏ sao vàng, người ta bắt bà cụ tôi phải cúi xuống, nhưng bà cụ không cúi. Vào nhà giam, không có bút viết, thì bà cụ tôi lấy cái đinh guốc, viết lên tường lời phản kháng chọc mù mắt để không phải nhìn thấy chế độ này nữa. Sau này có một người cũng bị giam tại căn phòng đó, đọc được và ghi lại, một vài nhà văn có chép lại câu này trên sách báo”.

Ngày 21/1/1960 bà bị đưa ra toà cùng với Nguyễn Hữu Đang và bị kết án 15 năm tù. Tháng 10/1974 Thuỵ An được thả theo diện “Đại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris”, cùng diện với Nguyễn Hữu Đang. Được trả về quản thúc ở nguyên quán làng Hoà Xá, trên xe tù bước xuống, Thuỵ An bị ném đá. Năm 1976, nhờ em trai, là Lưu Duy Trác xin cho vào Nam đoàn tụ với gia đình, bà được vào sống với mẹ tại Gia Định.

Về biệt hiệu Thuỵ An Hoàng Dân, Bùi Thuỵ Băng giải thích: Phan Khôi và Thuỵ An là hai người bạn vong niên từ lâu, Thuỵ An kém Phan Khôi khoảng gần 30 tuổi. Biệt hiệu Chương Dân của Phan Khôi và Hoàng Dân của Thuỵ An, là cùng để tưởng niệm đến một người anh hùng, có tên là Chương Hoàng Dân hay Hoàng Chương Dân.

Trong “sổ đoạn trường”, Nguyễn Hữu Đang, đứng thứ nhì sau Thuỵ An. Ông sinh ở Thái Bình, sớm tham gia các phong trào ái quốc. Trước 1942, ông hoạt động trong phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ. Năm 1942, khi ảnh hưởng Việt Minh lên cao, ông tham gia Văn Hoá Cứu Quốc. Từ 1954, Nguyễn Hữu Đang liên lạc mật thiết với Trần Thiếu Bảo (sau này là chủ Nxb Minh Đức). Trong thời kỳ toàn quốc kháng chiến, ông đứng ra tổ chức Thanh Niên Xung Phong và sau đó làm Thanh tra Bình dân học vụ. Năm 1947, Nguyễn Hữu Đang chính thức vào Đảng. Nhưng vài năm sau, ông bắt đầu chán nản, tự ý bỏ cơ quan. Năm 1951, ông ly khai Đảng, và từ đó, khi ở Cầu Bố, khi ở Hậu Hiền, ông lên tiếng đả kích đảng, chống đối cách mạng. Vai trò của Nguyễn Hữu Đang trong tờ Nhân Văn sẽ được xác nhận rõ ràng qua lời tường thuật của Lê Đạt. Theo lời buộc tội của Mạnh Phú Tư thì “Nguyễn Hữu Đang là linh hồn của tờ Nhân Văn, Đang tìm kiếm, kiếm giấy, thu xếp việc ấn loát và viết bài, nhưng lại ký tên người khác, che lấp những nguồn tài chính, những người cung cấp phương tiện bằng hình thức nêu danh những người góp tiền in báo có một nhân lên gấp mười”. (Mạnh Phú Tư, sđd, trang 50). Lê Đạt sẽ trở lại những thông tin này, với cái nhìn của người trong cuộc. Trong bản tự kiểm thảo, Trần Dần cũng đã xác định: “Nếu không có Đang, không ai có thể tập hợp anh em được. Sẽ không có tham luận với những đề nghị: gặp Trung ương, ra báo... mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn”.

Theo Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang bị bắt trong lúc đang xẩy ra lớp đấu tranh Thái Hà, trên đường tìm cách vào Nam.

Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, ba nhà thơ cùng nhạc sĩ Tử Phác, là những người dấy lên phong trào. Tuy vậy Hoàng Cầm dường như vẫn được nhà cầm quyền xử nương nhẹ hơn; vì Hoàng Cầm nổi tiếng từ trước kháng chiến? vì Hoàng cầm là tác giả những bài thơ hào hùng trong kháng chiến? hay vì Hoàng Cầm có thái độ cam chịu hơn? Do đó Trần Dần, Lê Đạt trở thành hai khuôn mặt nhà thơ “phản động nhất nước”.

Hoàng Cầm sinh năm 1921 tại làng Lạc Thổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Hải Dương. Trước kháng chiến ông đã nổi tiếng với ba vở kịch thơ Viễn khách, Kiều Loan và Lên đường. Trong kháng chiến, thơ Hoàng Cầm càng nổi bật với các bài Đêm liên hoan, Tâm sự đêm giao thừa, và trường ca Bên kia sông Đuống. Thời kỳ NVGP, Hoàng Cầm là người đầu tiên xin ra khỏi quân đội, cùng với Lê Đạt xây dựng nên các tờ Giai Phẩm và Nhân Văn. Hoàng Cầm giữ vai trò liên lạc và cổ động các văn nghệ sĩ, thúc giục Văn Cao làm thơ cho Giai Phẩm, ông đem bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần ra in v.v... Những sáng tác của ông trong thời kỳ này không nhiều, được ghi lại có bài thơ “Em bé lên 6 tuổi” viết về hoàn cảnh đau thương của một em bé con địa chủ, bố bị đấu tố, mẹ bỏ đi Nam:
Chị Đội bỗng lùi lại
nhìn đứa bé mồ côi,
cố tìm vết thù địch,
chỉ thấy một con người.
Và vở kịch thơ Tiếng hát, mượn hình ảnh tiếng hát để nói về nghệ thuật và tự do, để xác định “không thể cưỡng bức được nghệ thuật”. Bài viết có tính cách tiêu biểu của Hoàng Cầm trong giai đoạn này là bài Con người Trần Dần, in trong Nhân Văn số 1, biện hộ cho Trần Dần. Nhưng tác phẩm chủ yếu của ông là Về Kinh Bắc, viết sau Nhân Văn, trong thời gian 57-58, phản ảnh ý chí quật cường của nhà thơ trước cơn bão tố dập vùi.

Trần Dần là một trường hợp đặc biệt bất phục tòng và đã chịu sự trù dập nặng nề. Hăng say tham gia kháng chiến, thời kỳ Điện Biên Phủ, ông viết Người người lớp lớp. Yêu người con gái ở phố Sinh Từ, gia đình đã di cư vào Nam, bất chấp sự ngăn cấm của đảng, Trần Dần vẫn kết hôn với người yêu. Những câu thơ “Tôi bước đi không thấy phố, không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa, trên màu cờ đỏ” đã trở thành biểu tượng của một thời.

Bị bắt. Cứa cổ. Trần Dần biểu dương bi kịch NVGP. Mấy tháng sau, Đảng phát động “Trăm hoa đua nở”: trên Giai phẩm mùa thu tập I, Phan Khôi viết bài Phê bình lãnh đạo Văn nghệ, bênh vực Trần Dần, và bài Ông bình vôi bênh vực Lê Đạt. Trên Nhân Văn số 1, Hoàng Cầm viết bài Con người Trần Dần, và Nguyễn Sáng vẽ chân dung Trần Dần với vết sẹo trên cổ. Đảng phải xét lại trường hợp Trần Dần: Trần Dần được thả và ngày 2/10/56 Hội Văn Nghệ phải viết bài tự kiểm thảo đăng trên các báo. Đến cuối năm 1957, báo Văn in bài Hãy đi mãi của Trần Dần, tính cách tranh đấu vẫn còn quyết liệt:
Tôi có thể mặc thây ngàn tiếng chửi tục tằn
Trừ tiếng chửi sống không sáng tạo.
Trong bài tự kiểm thảo, Trần Dần viết: “Những sáng tác của tôi đều là cái loại đả kích vào các chính sách của Đảng cả. Nếu đọc cả một đống như thế, người ta sẽ cảm thấy sự lãnh đạo của Đảng là một sự ngột ngạt không thể nào sống nổi”. “Người sáng tác phải có quyền và có gan như người viết sử thời xưa, vua chém đi 6 người, đến người thứ 7 vẫn chép sử đúng như sự thật, vua đành chịu vậy”, (trích Những lời “thú tội” của Trần Dần, sđd, trang 312).

Lê Đạt là người duy nhất, từ trong nội bộ của đảng đứng lên đòi hỏi tự do dân chủ. Là một cán bộ hoạt động ở ngành Tuyên huấn, Lê Đạt được xếp vào loại “đầu sỏ”, “nguy hiểm” như Nguyễn Hữu Đang.

Theo lời tố của Xuân Diệu: “Đã rõ rệt như ban ngày, tập Giai phẩm mùa xuân 1956 phất lá cờ đầu tiên chống Đảng, chống chế độ, và Lê Đạt là nhà lý luận trong đó. Lê Đạt mở đầu Giai phẩm với cái tuyên ngôn: “Trích thơ gửi người yêu” (...) và bài thơ tuyên ngôn thứ hai “Mới” đăng trong Giai phẩm (...) Lê Đạt đưa ra cái tà thuyết rạch đôi các sự vật làm hai: hễ cái gì mới là cách mạng, hễ cái gì cũ là đeo kính vào viện hàn lâm, là mệt mỏi, lối mòn, vết già nua, lề đường han rỉ..(...) Lê Đạt là một người chủ chốt của báo Nhân Văn, tham mưu cho cả tờ báo, tự tay sửa chữa nhiều bài đả kích chế độ ta rất cay độc (...) Đứng lên lập nhóm Giai phẩm mùa xuân. Cùng với Nguyễn Hữu Đang làm bộ óc của báo Nhân Văn, đứng làm “nhà lý luận” của bọn chống Chế độ (...) Sau khi báo Nhân Văn bị cấm, Lê Đạt liên lạc cấu kết với Thuỵ An, Lê Đạt đóng vai trò quan trọng trong việc lũng đoạn Hội Nhà Văn, Lê Đạt tích cực dùng ngòi bút viết lối văn hai mặt; Lê Đạt luôn luôn giữ một cương vị đứng chủ trường phái; mãi đến trong lớp học văn nghệ lần thứ hai (tháng 3 và 4/1958) vẫn còn tìm cách quay quắt. Cho nên, xét Lê Đạt, ta phải nhìn thấy cho hết, rằng Lê Đạt chống đối ta, phá hoại ta từ trong bản chất giai cấp thù địch” (trích bài “Những biến hoá của chủ nghĩa cá nhân trong thơ Lê Đạt”, trong tập Dao có mài mới sắc của Xuân Diệu, 1963, các trang 86, 87, 89 và 95).

Chính Lê Đạt cũng xác nhận vai trò của mình trong bài tự kiểm thảo: “Tôi tham gia Nhân Văn với ý thức là người lãnh đạo lý luận của tờ báo vì tôi cho tôi vững vàng hơn Nguyễn Hữu Đang. Ban biên tập lúc đó gồm có 4 người: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Hoàng Cầm và tôi. Để tấn công quan điểm vô sản chuyên chính của Đảng, tôi vận động Thanh Châu viết bài Mậu Dịch, tôi góp ý, vẽ tranh một người đẽo chân cho vừa giày mậu dịch. (...) Nhân Văn bị đóng cửa nhưng tư tưởng Nhân Văn, tư tưởng chống đối vẫn chưa hết. Sau một thời gian các báo ngớt đánh, tình hình trở lại bình thường, chúng tôi lại vẫn gặp nhau đả kích Đảng, cho là độc đoán”. (trích Những lời “tự thú” của Lê Đạt, sđd, trang 318, 319).

Thơ Lê Đạt trong thời kỳ NVGP, có những câu đã in sâu vào ký ức dân tộc:
Đem bục công an đặt giữa trái tim người
Bắt tình cảm ngược xuôi theo luật đi đường nhà nước
Có những lời lẽ tiên tri:
Lịch sử muôn đời duyệt lại
Không ai lừa được cuộc đời
Trần Thiếu Bảo, chủ trương Nxb Minh Đức, trách nhiệm ấn loát và phát hành những tờ Nhân Văn, Giai Phẩm, Đất Mới, quê quán ở Thái Bình. Ông mở hiệu sách Minh Đức (sau trở thành nhà xuất bản) ở Thái Bình, đến 1954, rời về phố Phan Bội Châu, Hà Nội. Trần Thiếu Bảo không theo cách mạng ngay từ đầu và có tiếng là Mạnh Thường Quân đối với văn nghệ sĩ. Cùng với Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, tổ chức lễ kỷ niệm Vũ Trọng Phụng (thời ấy, Vũ Trọng Phụng còn bị liệt vào thành phần phản động). Theo lời buộc tội, Nxb Minh Đức đã “lợi dụng chuyện khai thác vốn cổ” để tái bản những sách “có hại” của Tự Lực Văn Đoàn như Tiêu sơn tráng sĩ v.v... Nxb Minh Đức cũng là trụ sở các cuộc họp báo Nhân Văn.

Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa, là nhà phê bình, nhà văn, giáo sư đại học và lý thuyết gia. Ông bước vào làng văn với loạt bài phê bình những tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn trên báo Loa, Hà Nội, năm 1935. Là nhà phê bình đầu tiên sử dụng phương pháp phê bình Mác xít một cách có hệ thống và có tính sáng tạo, đặc biệt trong những tác phẩm như: Nguyễn Du và truyện Kiều (Hàn Thuyên, 1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (Hàn Thuyên 1944), Kinh thi Việt Nam, (Hàn Thuyên 1950)... Ông còn là tác giả những tập tiểu thuyết tranh đấu và xã hội. Khi Mặt trận Dân Chủ của Việt Minh bắt đầu hoạt động, Trương Tửu viết bài đả kích Mặt Trận Dân Chủ trên các báo Quốc Gia và Thời Thế. Trương Tửu tuyên bố: “Văn nghệ không làm chính trị để giữ sự độc lập của trí thức”. Cùng với Nguyễn Đức Quỳnh, ông thành lập nhóm Hàn Thuyên theo khuynh hướng Cộng Sản Đệ Tứ, in sách của Lương Đức Thiệp, Thái Văn Tam, Nguyễn Tế Mỹ, Nguyễn Hải Âu, Hồ Hữu Tường và Nguyễn Bách Khoa (tức Trương Tửu). Năm 1945, Hồ Hữu Tường ra Bắc gặp Trương Tửu, thành lập Uỷ Ban Văn Hoá Bắc Bộ. Ngày 10/9/1945, Trương Tửu cho xuất bản cuốn Tương lai văn nghệ Việt Nam, trong đó ông đã nhắc đến “cái hôm nay đen tối và chật hẹp”, và mượn lời André Gide, khuyên các văn nghệ sĩ, hãy “reo rắc vào tâm trí mọi người chất men bất phục tòng và phản kháng”. Tuy vậy khi toàn quốc kháng chiến, ông cũng theo cách mạng trong 9 năm. Sau 54, ông dạy học.

Trong thời kỳ NVGP, Trương Tửu viết hai bài quan trọng “Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ” và bài “Văn nghệ và chính trị”. Hoài Thanh tố cáo: “Trong ba tập Giai phẩm liên tiếp nó đả kích thậm tệ vào toàn bộ cán bộ Đảng phụ trách công tác văn nghệ, phủ nhận tính chất mác xít, tính chất vô sản của Đảng. Vẫn một lối huênh hoang và bịp bợm cũ, nó làm như chỉ có nó mới là triệt để cách mạng. Một mặt nó bóp méo, bịa đặt sự việc để vu khống... Một mặt khác nó xuyên tạc lời nói của các lãnh tụ. Nó trích dẫn lời Mác đả kích chính quyền phản động cũ để gián tiếp đả kích chính quyền ta”. (Hoài Thanh, “Thực chất của tư tưởng Trương Tửu”, BNVGPTTADL, trang 66).

Nguyễn Vĩnh tố cáo: “Trong bài “Bệnh sùng bái cá nhân trong giời lãnh đạo văn nghệ” (Giai phẩm mùa thu, tập I), Trương Tửu giả vờ công nhận “Đảng lãnh đạo văn nghệ là một tất yếu lịch sử” để rồi đòi trả lại “quyền điều khiển chuyên môn cho những người chuyên môn”. Trong bài “Văn nghệ và chính trị”, Trương Tửu tiến lên một bước, xuyên tạc bài “Tổ chức Đảng và văn học có đảng tính” của Lê nin (...) Làm như vậy, Trương Tửu có thâm ý tách rời văn nghệ ra khỏi chính trị, xúi dục văn nghệ sĩ thoát ly đường lối văn nghệ của Đảng, thoát ly sự lãnh đạo của Đảng” (Nguyễn Vĩnh, sđd, trang 115, 116).

Bàng Sĩ Nguyên phát hiện: “Tửu đã nói gì khi giảng dạy? Tửu đã vu khống Đảng là hiện tượng tha hoá. Trường đại học có Đảng trị. Có Đảng cụ thể và Đảng trừu tượng, cụ thể bao giờ cũng có sai lầm, vậy mỗi giai đoạn cần có một Đảng mới”. (...) Con người mới là con người ở nông thôn chống thu mua, ở thành thị chống mậu dịch, trí thức chống chính sách báo chí. Tửu gây ý thức thoát ly sự lãnh đạo của Đảng. Cụ thể là tấn công vào cán bộ lãnh đạo của Đảng trong đại học. Tửu đề cao quá đáng Vũ Trọng Phụng (...) để nói rằng “không có Đảng lãnh đạo nhà văn vẫn viết được những tác phẩm có giá trị và văn nghệ sĩ còn sáng suốt hơn Đảng, cố vấn cho Đảng, phát hiện vấn đề cho Đảng biết.” (Bàng Sĩ Nguyên, sđd, trang 119-120).

Trần Đức Thảo, triết gia, giáo sư đại học. Đỗ vào trường Normale Supérieure rue d’Ulm ở Pháp năm 1936, thủ khoa ban văn chương. Đậu thạc sĩ (agrégé) triết học. Thời kỳ ở Pháp, ông cộng tác với J.P. Sartre, tham gia nhóm Les Temps Modernes. Sau này ông kiện Sartre về một cuốn sách viết chung mà Sartre không muốn xuất bản. Những năm 44-45, ông hoạt động cho Hội Việt kiều. Phạm Huy Thông, giáo sư thạc sĩ, bạn học cùng thời với Trần Đức Thảo ở Pháp, được cử viết bài đánh Trần Đức Thảo. Phạm Huy Thông cho biết: Khi phái đoàn Việt Minh Đồng Chí Hội sang Pháp năm 1946, Trần Đức Thảo đả kích phái đoàn, cho chính sách ngoại giao của Việt Minh là đầu hàng và phản bội, và đảng Cộng Sản Pháp có đầu óc đế quốc thực dân. Trần Đức Thảo chống lại hiệp định sơ bộ 6/3/1946. Năm 1949, tại Đại Hội Hoà Bình Thế Giới ở Paris, Trần Đức Thảo lên tiếng cảnh cáo đại biểu Liên Xô và đại biểu Pháp là phản bội các dân tộc thuộc địa.

Phạm Huy Thông viết: “Ngay từ năm 1945, Thảo công kích những người đem tư tưởng Mác xít truyền bá cho kiều bào, công nhân, cho rằng công nhân không có văn hoá, không tiếp thu được, hay tiếp thu “máy móc” thì “nguy hiểm” (!). Còn đối với đảng Cộng Sản Pháp, thì Thảo có một lập luận phản động rằng: đảng Pháp, tuy có uy tín đấy, nhưng trình độ lý luận Mác xít khó lòng cao, vì hầu hết những cương vị cao trong đảng đều do công nhân nắm (!)” (Phạm Huy Thông, sđd, trang 69). Năm 1951, Trần Đức Thảo trở về nước, làm giáo sư đại học. Năm 1956, ông tham gia phong trào NVGP. Phạm Huy Thông viết về người bạn cũ của mình: “Thật ra “thành tích” học thuật cũng như “thành tích” chính trị của Thảo ở Pháp trước đây, nhìn lại toàn là những “thành tích” bất hảo (...). Trong thư gửi hội nghị học tập của trường đại học, Hoàng Cầm có viết: “Tôi nhớ rất rõ: trước Nhân Văn số 4, trong một buổi họp ở nhà Trần Duy, 55 đường Trần Quốc Toản, lần đầu tiên Trần Đức Thảo đến họp. Vấn đề hôm ấy do Trần Duy nêu ra là: Ta nên chuẩn bị cái hướng số 4 như thế nào? Một số như Trần Dần và tôi phát biểu là: “Thêm một bài về tự do dân chủ thôi!” Trần Đức Thảo nói: “Tôi thấy cần phải bớt vấn đề văn nghệ đi, nếu cần thì rút bớt cả sáng tác, để bàn nhiều về chính trị, vì tình hình trong nước và thế giới có nhiều tài liệu khác nữa”.

Ta thấy đường lối chính trị của nhóm Nhân Văn là do Trần Đức Thảo trực tiếp và chủ yếu vạch ra. (Về vai trò của Trần Đức Thảo trong tờ Nhân Văn, Lê Đạt sẽ xác định lại.)

Mượn cớ “phát huy tự do dân chủ” Thảo đã bày vẽ cho chân tay của mình trong sinh viên đả kích sự lãnh đạo của Đảng ở nhà trường (...), giáo sư Nguyễn Lân, phụ trách môn giáo dục học, trường đại học sư phạm đã phát biểu: “Tôi còn rùng mình khi nghĩ đến hoạt động của bọn Trần Đức Thảo. Nếu bọn chúng thực hiện được ý muốn thì không những giáo sư đảng viên, mà đầu của những người lương thiện trung thành với chế độ như tôi cũng đều treo lên ngọn cây.” (Phạm Huy Thông, sđd, trang 74 và 134).

Sau khi Nhân Văn bị cấm, Trần Đức Thảo vẫn tiếp tục hoạt động, che chở và giúp đỡ các sinh viên. Ông mở diễn đàn tự do ở đại học để truyền bá tinh thần tự do dân chủ. Hai bài viết quan trọng của ông trong thời kỳ NVGP là bài Nội dung xã hội và hình thức tự do đăng trong Giai phẩm mùa đông tập I, lên án những sai lầm trong cải cách ruộng đất và bài “Nỗ lực phát triển tự do dân chủ” đăng trên Nhân Văn số 3, tháng 10/1956, được coi như bản đề cương tranh đấu cho tự do dân chủ của nhóm NVGP. Trần Đức Thảo viết: “Cái tự do mà họ tức là những người lao động trí thức và chân tay muốn phát triển là tự do của toàn dân phê bình lãnh đạo. Cái tự do đó là quyền của người công dân đã được hoàn toàn công nhận và bảo đảm trong chế độ ta. Tự do không phải là cái gì có thể ban ơn. Người trí thức hoạt động văn hoá cần tự do như khí trời để thở, có tự do thì mới đẩy mạnh được sáng tác văn nghệ, nghiên cứu khoa học, cải tiến kỹ thuật. Phát triển tự do là nhu cầu thiết thân, đồng thời là nhiệm vụ số một của người trí thức cũng như của toàn dân. Hình thức tự do là tự do cá nhân, cá nhân phục tòng tập thể nhưng tập thể cũng phải có cá nhân xây dựng. Xét đến tình hình thế giới mới đây, lý tưởng tự do cá nhân lại là lý tưởng của những ngày tiến tới, lý tưởng của chủ nghĩa Cộng Sản bây giờ, đã bắt đầu trở thành một thực tế lịch sử ở Liên Xô”, ký tên Trần Đức Thảo.

Học giả Đào Duy Anh đóng góp tiếng nói của mình trong Giai phẩm mùa thu tập III, với bài Muốn phát triển học thuật, nội dung phân tích những sai lầm trong nguyên tắc dùng chính trị để lãnh đạo học thuật. Ông viết: “Sự xâm phạm của những cán bộ chính trị vào địa hạt chuyên môn, cố nhiên là rất trở ngại cho công tác chuyên môn, nhất là công tác nghiên cứu khoa học. Cái điều kiện không thể thiếu được để cho học thuật phát triển là tự do tư tưởng, tự do thảo luận. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh hai hình thức hạn chế tự do tư tưởng tác hại nặng nhất đối với học thuật là bệnh giáo điều và biến chứng của nó là bệnh sùng bái cá nhân. Ở nước ta thì các bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại còn trầm trọng hơn khiến người ta, vô luận bàn về vấn đề gì, cũng đều phải bắt đầu dẫn những đề án của Marx, Engel và Lénine, hoặc những ý kiến của Staline hay các lãnh tụ khác. Bệnh giáo điều và bệnh sùng bái cá nhân lại dẫn thẳng đến cái tệ tư tưởng độc tôn, hễ thấy ai có ý kiến gì vượt ra ngoài những công thức cũ, những khuôn khổ sẵn thì người ta chụp ngay cho những cái mũ dễ sợ như danh hiệu “cải biến chủ nghĩa” chẳng hạn, để bịt mồm, bịt miệng người khác.

Tư tưởng không tự do thì không thể tự do thảo luận được. Mặc dầu không ai cấm tranh luận, các nhà lãnh đạo vẫn thường nói nên mở rộng tranh luận, nhưng trong thực tế thì sự tranh luận đã bị thủ tiêu từ gốc rồi. Nghiên cứu hay nghị luận một vấn đề gì, người người chỉ nơm nớp lo sợ, không khéo thì trật ra ngoài đường lối tư tưởng chính thống độc tôn. Đối với những người ấy công tác học thuật trở thành trò xiếc leo dây.Con đường học thuật phải là con đường cái thênh thang cho mọi người tự do đi lại chứ không phải là sợi dây căng cho mọi người làm xiếc. Phải trừ bỏ những bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân để trả lại tự do cho học thuật”.

Phan Khôi, chủ nhiệm báo Nhân Văn. Nhà văn và nhà cách mạng lão thành Phan Khôi như một vị tiền bối đứng ra che chở cho các anh em văn nghệ trẻ. Cùng thời với Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh... Phan Khôi sinh năm 1887 tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, là con trai Tri phủ Phan Trân, và là cháu ngoại Tổng đốc Hoàng Diệu. Năm 1907, Phan Khôi ra Hà Nội tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, ít lâu sau, phong trào bị đàn áp, ông trở lại Quảng Nam, hoạt động trong phong trào Văn Thân cùng với Huỳnh Thúc Kháng. Bị Pháp bắt, Phan Khôi học tiếng Pháp trong tù. Ra tù, ông bắt đầu cuộc đời viết văn làm báo.

Trong nửa thế kỷ, từ Nam ra Bắc, ngòi bút sắc bén của Phan Khôi tung hoành trên các báo: Nam Phong, Lục Tỉnh Tân Văn, Đông Pháp Thời Báo, Thần Chung, Phụ Nữ Tân Văn, Trung Lập, Thực Nghiệp Dân Báo, Hữu Thanh, Phụ Nữ Thời Đàm, Tràng An, Sông Hương... Từ 1920 đến 1925, ông dịch Kinh Thánh cho Hội Tin Lành. Tác phẩm đầu tiên của Phan Khôi là tập Nam âm thi thoại, ký bút hiệu Chương Dân, in năm 1920 ở Hà Nội (năm 1936, tái bản tại Huế, đổi tên là Chương Dân thi thoại). Bài thơ Tình già của Phan Khôi đăng lần đầu tiên trên báo Phụ Nữ Tân Văn, tháng 3/1932, được coi như bài thơ mở đường cho phong trào thơ mới.

Bởi địa vị văn học, địa vị cách mạng và thái độ đối lập của Phan Khôi, cho nên ông có một vị trí riêng và đồng thời ông cũng đã phải chịu những sự phỉ báng nặng nề thô bỉ.

Về hoạt động chính trị, Phan Khôi luôn luôn là một khuôn mặt đối lập với Việt Minh. Tháng 6/1946, phái đoàn Trung ương của Việt Minh về Quảng Nam, mở cuộc mít tinh để giải thích Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, Phan Khôi lên diễn đàn, công kích hiệp định sơ bộ. Tham gia Việt Nam Quốc Dân Đảng, Phan Khôi được bầu làm chủ nhiệm chi bộ Nam Ngãi. Nguyễn Công Hoan viết: “Đêm 12/7, trong khi hắn (chỉ Phan Khôi) đương họp bàn với bọn đầu sỏ Quốc Dân Đảng ở 80 đường Quan Thánh, thì xẩy ra việc Công an ta đến khám toà báo Việt Nam của đảng ấy tại trụ sở ấy. Bọn phản động ở trong nhà nổ súng ra để chống cự. Tức thì Công an buộc lòng phải bắt bớ người. Trong số những người bị bắt có Phan Khôi.

Song, Phan Khôi lại một lần nữa được Chính phủ tha cho về để suy nghĩ tội lỗi mà hối cải.” (Nguyễn Công Hoan, Hành động và tư tưởng phản động của Phan Khôi cho đến thời kỳ toàn quốc kháng chiến, báo Văn Nghệ số đặc biệt thứ hai chống NVGP, số 12, tháng 5/1958, trang 14).

Về thái độ của Phan Khôi đối với Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Công Hoan viết:“Cách mạng tháng Tám cải tử hoàn sinh cho hai mươi nhăm triệu nhân dân Việt Nam, trong đó có Phan Khôi. Nhưng cái tên già này rất vô ơn với Cách mạng tháng Tám.

Cho đến năm hoà bình, 1954, chưa bao giờ hắn viết, hoặc nói mà dùng danh từ “Cách mạng tháng Tám”. Chính hắn đã khoe điều ấy bằng cả sự hằn học với người tâm phúc của hắn. Hắn nói rằng trước kia hắn dùng ba tiếng “cướp chính quyền”, mà cũng ngượng mồm. Hắn nói rằng lúc đó, Pháp đổ rồi, Nhật hàng rồi, chính phủ Trần Trọng Kim tê liệt rồi, chính quyền bỏ rơi, thì ta “lượm” được, chứ “cướp” ở tay ai?” (bài đã dẫn, Văn Nghệ, trang 12)

Về thái độ của Phan Khôi đối với Hồ Chí Minh, Nguyễn Công Hoan viết: “Hôm họp Hội nghị văn hoá, Hồ chủ tịch có đến. Khi nói về tiểu thuyết, Người có một nhận xét để khuyên nhủ anh em cầm bút là “tiểu thuyết của ta có vạch được tội ác của chế độ phong kiến và đế quốc, nhưng chưa đề ra phương pháp cải tạo. Như vậy là kém phần xây dựng”. Trong khi mọi người rất phục Hồ chủ tịch sáng suốt cả về lĩnh vực văn nghệ, thì tên Quốc Dân Đảng già, vốn bản chất là đối kháng, dè bỉu Hồ chủ tịch, cho là Người chỉ giỏi chính trị, chứ không biết về văn nghệ. Hắn bàn tán với bạn hữu rằng Hồ chủ tịch nói sai. “Văn nghệ chỉ có nhiệm vụ trình bày, còn xây dựng là nhiệm vụ của chính trị, của nhà cầm quyền” (bài đã dẫn, Văn Nghệ, trang 15).

Phan Khôi không tự ý đi theo kháng chiến mà “bị mời” đi kháng chiến, Đào Vũ viết: “Kháng chiến bùng nổ. Phan Khôi đi theo kháng chiến. Nói cho đúng hơn, chúng ta đưa Phan Khôi đi theo kháng chiến từ đầu chí cuối”, “tôi biết rằng cơ quan đối với y bao giờ cũng dành những ưu tiên lớn”, theo Nguyễn Công Hoan, “Phan Khôi đi với kháng chiến, không lúc nào hắn không ngớt chửi bới kháng chiến”, Đào Vũ viết: “Phan Khôi bấy nay không ưa gì Đảng của chúng ta. Vốn là hay xỏ xiên vặt, y gọi Đảng ta là “cái Đảng” thế này thế khác. Có người vặn lại: sao lại gọi là “cái Đảng”, tiếng “cái” ấy có cần thiết gì đâu? Phan Khôi sẽ thủng thỉnh trả lời: tiếng “cái” ấy cũng như “le, la, les” của tiếng Pháp mà thôi.” (Đào Vũ, Tính cách vô lại và bộ mặt chính trị nhơ nhớp của Phan Khôi ngày nay, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958).

Là nhà Hán học, nhưng lý luận khúc triết và đanh thép theo phương pháp luận phương Tây, những bài bút chiến của Phan Khôi với Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh... đã gây không khí sôi nổi trên văn đàn những năm 30. Tài năng, nhân cách và kiến thức đã đưa Phan Khôi lên địa vị “Ngự sử văn đàn” của thời ấy.

Khi toàn quốc kháng chiến. Miễn cưỡng lên Việt Bắc, Phan Khôi dịch sách chữ Hán, chữ Pháp, sang tiếng Việt.

Thời kỳ NVGP, Phan Khôi đứng ra nhận chức Chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Nhân Văn để bao che cho các cây bút trẻ. Trong bài Phê bình lãnh đạo Văn Nghệ, với tác phong Ngự sử văn đàn, Phan Khôi nghiêm khắc lên án chế độ quản lý tư tưởng: Ông chỉ trích Trường Chinh ăn nói bừa bãi, chất vấn gắt gao Tố Hữu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, những người chủ chốt trong việc kết tội Trần Dần. Sau khi tách bạch hai giai cấp: Lãnh đạo văn nghệ và Quần chúng văn nghệ, Phan Khôi phê bình triệt để ba vấn đề thực tiễn:

1 - Vấn đề tự do của văn nghệ sĩ: Sau khi đưa ra những dẫn chứng cụ thể về việc lãnh đạo nghiệt ngã bắt bẻ người viết phải theo đúng đường lối, Phan Khôi hỏi lãnh đạo: chính trị muốn đạt đến cái mục đích của nó thì cứ dùng khẩu hiệu, biểu ngữ, thông tri, chỉ thị không được hay sao mà phải cần dùng đến văn nghệ sĩ, rồi ông cánh cáo: “Lãnh đạo đã xâm phạm mỗi ngày một hơn vào quyền riêng nghệ thuật của văn nghệ sĩ.”

Những lời khẳng khái nổi tiếng của Phan Khôi: “Nhược bằng bắt hết mọi người viết, phải viết theo lối với mình thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết”. Hoặc phê Đảng: “Đảng giáo dục Xuân Diệu làm cách mạng chứ có giáo dục Xuân Diệu làm thơ đâu!”

2 - Về vụ Giai phẩm mùa xuân, Phan Khôi chất vấn ban chủ toạ hội Văn nghệ: “Hỏi độc tội một Trần Dần thôi là cái ngón chính tri tài tình lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hoá những người trong Giai Phẩm, cái ngón ấy đã thành công”.

“Tôi còn nhớ có vị bắt lỗi trong bài thơ Trần Dần có chữ Người viết hoa, lấy lẽ rằng chữ Người viết hoa chỉ để xưng Hồ chủ tịch, thế mà Trần Dần lại viết hoa chữ Người không phải để xưng Hồ chủ tịch. Tôi ngồi nghe mà tưởng như ở trong chiêm bao, chiêm bao thấy mình đứng ở một sân rồng nọ, ông Lê mỗ tố cáo ông Nguyễn mỗ trước ngai vàng: “Trong phép viết chỉ có chữ nào thuộc về Hoàng thượng mới phải đai, thế mà tên Nguyễn mỗ viết thư cho bạn dám xài những chữ không phải thuộc về Hoàng thượng. Nhân may cho tôi, tôi tỉnh ngay ra là mình đang ngồi ở trong phòng họp hội Văn nghệ”.

3 - Về vụ giải thưởng văn học năm 54-55, ba tác phẩm Mưa sao của Xuân Diệu, Truyện anh Lục của Nguyễn Huy Tưởng và Nam Bộ mến yêu của Hoài Thanh đều chiếm giải. Phan Khôi phê bình: “Cả ba ông Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh đều có tác phẩm dự thi mà đều ở trong ban trung khảo. Nếu ở trong ban trung khảo mà thôi còn khá, thử điều tra lại hồ sơ, thì ba ông còn ở ban sơ khảo nữa, sao lại có thể như thế? Trường thi phong kiến xưa, tuy có ám muội gì bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn sạch tiếng. Một người nào có con em đi thi thì người ấy có được cắt cử cũng phải hồi tỵ, không được chấm trường. Bây giờ đến cả chính mình đi thi mà cũng không hồi tỵ, một lẽ là ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đã đổi mới, đã liêm chính cả rồi, một lẽ trắng trợn vì thấy mọi cái miệng đã bị vú lấp.”

Phan Khôi viết truyện Ông bình vôi, ngẫu hứng từ bài thơ Ông bình vôi của Lê Đạt, chủ đích bênh vực Lê Đạt, đồng thời nhạo báng lãnh tụ, gọi lãnh tụ là Ông Cọp, Ông Trưởng, Ông Đầu Rau, Ông Tre, Ông Bình Vôi... như những bài vị mà người dân thường phải để chân dung trong nhà. Trong bài Ông Năm Chuột, Phan Khôi đòi hỏi phải trả văn nghệ lại cho văn nghệ, chuyên môn cho chuyên môn qua lời người thợ bạc: “người ta cái gì biết ít thì nên nghe chứ không nên nói, tôi không nói chuyện văn chương chữ nghĩa với ông, cũng như ông không dạy nghề làm thợ bạc cho tôi.”

Theo bài viết của Đoàn Giỏi đăng trên báo Văn Nghệ số ra ngày 15/8/1958 thì tháng 12 năm 1957, Phan Khôi còn đưa đến nhà xuất bản Hội Nhà Văn một tập bản thảo dầy, tên là Nắng chiều gồm nhiều bài bút ký, tạp văn, viết từ đầu kháng chiến Việt Bắc đến năm 1957. Đoàn Giỏi trích một số đoạn để đả kích, nhờ vậy mà độc giả biết được đại cương nội dung những tác phẩm đó. Theo Đoàn Giỏi, ngay trong hai bài đầu, tựa đề Cầm vịtTiếng chim, Phan Khôi đã khẳng định “Xã hội không có đấu tranh giai cấp, của ai người nấy ăn. Vấn đề đấu tranh giai cấp chỉ là kiểu rình phần ăn của kẻ khác”. Về bài viết Cây cộng sản, Đoàn Giỏi tự hỏi: Tại sao Phan Khôi lại đem cây cứt lợn, cũng gọi là cây chó đẻ, và cây bọ xít, toàn là những tên không nhã tý nào hét, để gọi nó là Cây cộng sản và cỏ cụ Hồ? Đến bài giới thiệu Nguyễn Trường Tộ, Phan Khôi viết: “Vua thì như thế, còn đám quan liêu từ triều đình đến các tỉnh phần nhiều là hủ nho, đám sĩ phu ở dân gian càng đông hơn, cũng đều hủ nho. Dưới vua, hai hạng người này nắm quyền lợi một nước trong tay họ, họ cấu kết với nhau để giữ lấy quyền lợi thì còn ai mà làm gì được”. Đoàn Giỏi bị kiểm thảo về tội vờ đả kích Phan Khôi để công bố những nét đại cương của một tác phẩm bị cấm. Bản thảo tập Nắng chiều hiện nay còn hay mất? Đó là một nghi vấn văn học chưa được soi tỏ.


Paris 12/2004
Thuỵ Khuê

[1] Một nhà phê bình (xin giấu tên), cho biết: Trần Dần bị mật giam ở một nơi gần Hà Nội. Vì sợ bị thủ tiêu, cho nên ông đã phải dùng dao cạo cứa cổ, với chủ ý làm ầm lên. Chính tướng Nguyễn Chí Thanh đã ra lệnh “cứu” Trần Dần.
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
25.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Trần Dần - Nhà cách tân tầm cỡ

Không phải đến hôm nay người ta mới gọi Trần Dần là “nhà cách tân”. Từ năm 1946 khi tham gia nhóm Dạ Đài, Trần Dần đã cùng với Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Vũ Hoàng Địch… soạn ra bản “tuyên ngôn tượng trưng” nhằm cách tân thơ Việt sau rất nhiều thành công của Thơ Mới (trước 1945). Ông cũng là nhà tiểu thuyết đầu tiên viết về chiến dịch Điện Biên Phủ với nhan đề “Người người lớp lớp” được phổ biến rộng rãi sau 1954. Dù được khen ngợi nhiều, nhưng Trần Dần vẫn chưa ưng ý. Ông thú nhận trong nhật ký rằng: “Tôi vừa viết xong cuốn Người người lớp lớp. Viết về chiến tranh ở Điện Biên Phủ đấy. Nhưng mà tôi đã chán rồi. Tại vì rằng tôi ít thấy sự thực của chiến tranh trong đó quá. Và vì rằng tôi ít thấy sự thực của bản thân tôi trong đó quá. Chưa phải là chiến tranh, và chưa phải là tôi. Cho nên tôi viết tới hơn 300 trang mà không thích bằng một bài thơ tôi cũng mới làm về chiến tranh: “Anh đã thấy” (mes douleurs) trên dưới có 6 trang! Vài trang thơ này tôi còn thấy chiến tranh nhiều hơn, và thấy tôi nhiều hơn 300 trang Người người lớp lớp”. Nghĩa là ông luôn trăn trở cho thơ văn phải hướng về phía trước, phía cách tân. Sau này, suy nghĩ về thơ, ông tuyên bố “phải chôn Thơ Mới”, tức là phải sáng tạo ra một thứ thơ khác, thời đại hơn, mới mẻ hơn những thành tựu đã có, dù Thơ Mới đã làm xong cuộc cách mạng thơ đặc sắc.

Cuộc cách tân thơ của Trần Dần sau Hoà Bình 1954 vừa mới khởi ra chưa được bao lâu thì đã bị tai nạn “Nhân Văn – Giai Phẩm” (NVGP). Ông bị kỷ luật và bị “treo bút” 3 năm, nhưng thực ra thì mãi 30 năm sau mới xuất hiện trở lại văn đàn. Thuở ấy ông làm một cuộc du ngoạn vào Huế chơi với anh em văn nghệ chúng tôi. Những bài thơ dài của ông thời NVGP như “Nhất định thắng”, “Hãy đi mãi”… được nhiều người đọc lại. Còn ông thì khoe với tôi (ông ở nhà tôi mấy ngày) những tập bản thảo mà ông đã viết trong 30 năm im lặng ấy, gần 30 tác phẩm, đó là thơ-tiểu-thuyết “Cổng tỉnh”, tiểu thuyết “Những ngã tư và những cột đèn”, “Đêm núm sen”… các tập thơ “Mùa sạch”, “Thơ mini”, “Bài thơ Việt Bắc”, v.v… Còn thơ trong các cuốn “sổ bụi” của ông thì nhiều vô kể. Đọc một số bản thảo của ông tôi không ngờ rằng, một người nhỏ thó, gầy đét như ông lại có cả một trái tim lớn lao như vậy. Đấy là trái tim khát vọng “làm quốc ngữ”, làm “người nhân loại”. Có thể nói rằng, bi kịch và cô đơn hoàn toàn đã buộc ông phải chiến thắng bằng vũ khí ngôn ngữ. “Thơ nay hầu như vẫn đặt nghĩa. Tôi đặt thơ là chữ. Con chữ nó làm nghĩa. “Mai sau dù có bao giờ” là con chữ. “Chữ tài liền với chữ tai một vần” là đặt nghĩa” – ông quan niệm. Chính vì làm thơ kiên trì với quan niệm đó mà thơ ông đã mang đến cho nền thơ chung một lối thơ độc sáng. Có nhiều người ảnh hưởng lối thơ Trần Dần, nhưng không ai có thể vượt qua ông về lối thơ đó, vì đấy là thơ tự thân, đó là máu, mồ hôi và óc não của ông đọng thành những con chữ.

Thuở đầu Trần Dần thích thơ Maiacopski. Những bài thơ bậc thang của ông đã tạo nên những nhịp điệu quyết liệt mạnh mẽ khi diễn tả những rung cảm đa chiều của ông về cuộc sống, về dân tộc:

Biển súng
rừng lê
bạt ngàn con mắt
Quân ta đi tập trận về qua
Bóng cờ bay đỏ phố đỏ nhà...
Nhưng về sau thơ ông đã đổi khác. Ông tạo ra những con chữ độc đáo, sinh động và đa nghĩa:
Ðừng ngại mây che từng cây số buồn rầu!
Ðừng ngại mở trong lòng vài khung cửa nhớ...

Thì hãy lấy mùi soa đêm chùi đôi mắt khổ
Hơn là mỏi răng nhai ràu rạu vỉa hè...
Người ta nói rằng, Trần Dần đã thổi hồn vào từng sự vật, thổi sự sống vào từng con chữ. Nhưng cái làm cho người đọc luôn bất ngờ là cái cách tư duy ngôn ngữ táo bạo, độc đáo và mới lạ của ông đã tạo nên những ấn tượng mạnh, thậm chí thoạt đầu gây sốc. Gây sốc bởi vì nó mới quá, nó lạ quá, nó không giống “thơ cũ”. Gây sốc bởi ông chủ trương “làm chữ”, làm những chữ mới và làm mới những chữ cũ. Đấy chính là Trần Dần một cá thể thơ. Trần Trọng Vũ con trai Trần Dần cho rằng, chữ TÔI trong thơ Trần Dần “không thể đứng chung với một người nào khác. TÔI để báo trước một cá thể cô độc. Có thể dựng lại chân dung và cuộc đời của người xưng TÔI, một cách hoàn chỉnh, từ lúc sinh tới khi chết, thông qua rất nhiều chữ TÔI”:
Tôi chôn rau ở tận trời sao.
(Sổ thơ 1973)
Tôi chẳng phải tù binh quả đất.
(Sổ bụi 1979)
Tôi đã leo nhiều ngõ cụt cổ điển.
(Sổ bụi 1979)
Tôi không bao giờ hú với chó sói, chỉ một tội này họ chẳng thể tha tôi.
(Sổ bụi 1982)
Chết đi, tôi vẫn mất ngủ.
(Sổ bụi 1988)
Ngôn ngữ của Trần Dần luôn biến động, và ta thấy cả sự lao tâm của ông cho từng con chữ. Lê Đạt nói “nhà thơ là phu chữ”, tôi nghĩ cụm từ này dùng để gọi Trần Dần thì vô cùng đắc địa. Ngay trong cả loại thơ kiểu văn xuôi của ông vẫn ngồn ngộn hình ảnh và cảm xúc thiên hà. Thơ trẻ hiện nay cố gắng nhiều trong thơ không vần hay thơ văn xuôi, nhưng đọc lại Trần Dần 30 năm trước, vẫn thấy ông còn mới mẻ đến bất ngờ:
«Tôi có nghèo đâu, trăng sao lủng liểng. Mây phơi dằng dặc khắp chân trời. Hương hoả của tôi, kho nào chứa xuể? Ê hề vũ trụ sao bay. Tôi di lại cho ai giờ? Tầng tầng mây, lục địa lục địa của cải»
(Sổ bụi 1979)
Thơ Trần Dần (cũng như tiểu thuyết sau NVGP của ông) ngồn ngộn chữ, ngồn ngộn da thịt, sự sống. Ông không phải một nhà thơ dễ đọc. Ông cũng không phải nhà thơ quần chúng hoá, mặc dù ông thơ hoá nhiều ngôn ngữ quần chúng. Những vấn đề cuộc sống và nghệ thuật luôn được ông soi rọi, chăm chút, xuất thần theo kiểu riêng của mình. Chính vì thế mà ông là người mở đường, người đi trước suốt nửa thế kỷ qua. Tôi khâm phục sự học của ông. Ông học bằng cách đọc thế giới (sách), đọc và quan sát suộc sống, học làm người nghĩa là làm một nhân cách cá biệt, đôi khi như kẻ lập dị giữa đời, giữa đám đông. Học bằng cách làm việc cật lực cho văn thơ. Học bằng cách ngồi dịch sách, dich tài liệu để kiếm sống. Năm 1983, nhạc sĩ Văn Cao nhờ tôi sang nhà Trần Dần mời ông đến nhà uống rượu nhân 60 tuổi, tôi chú ý vết đen trên tường sau chiếc ghế ông ngồi. Cái vết đen như một hình nhân, như cái bóng của ông. Ông đã ngồi dựa tường như vậy suốt mấy chục năm, để đau khổ, để cô đơn toàn phần, để suy nghĩ, để đọc và để viết. Ông viết rất chậm. Có lần Phùng Quán bảo anh Dần viết chậm thế thì bao giờ mới xong tiểu thuyết. Ông thủng thẳng trả lời: ‘Viết văn chứ có phải đi ăn cướp đâu mà cần nhanh”. Vâng, ông cứ đĩnh đạc như thế, cứ nặng chuỳ như thế. Và thế mới là Trần Dần.

Ngày ông mất, tôi nằm ở báo Văn Nghệ 17 Trần Quốc Toản, buồn quá, viết bài thơ vĩnh biệt ông, có đoạn mở đầu:
Mưa rơi không cần phiên dịch
em làm sao phiên dịch đời anh
một khối đá câm
tạc thành ngôn ngữ
một đối thoại câm
thốt ra con chữ…
Bây giờ ông đã xa cõi trần hơn 10 năm, đã được in tuyển thơ dày dặn và những tập sách khác, đã được giải thưởng Hội Nhà Văn, Giải thưởng Nhà Nước… Tôi nghĩ không có phần thưởng nào lớn hơn khát vọng của ông về chân trời và đường bay của nhân dân, của dân tộc. Hai câu thơ ông khóc hay là ông mơ ước:
Tôi khóc những chân trời không có người bay
Lại khóc những người bay không có chân trời


Hà Nội, 23.1.2007
Nguyễn Trọng Tạo

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
25.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tiến tới xét lại một vụ án văn học: Con người Trần Dần

Lời toà soạn báo Nhân văn số 1, ra ngày 20.9.1956

Ít lâu nay, nhất là trong giới văn nghệ, vấn đề Trần Dần được nhiều người nhắc tới. Đó không phải là chuyện ngẫu nhiên, mà chính là vì vấn đề Trần Dần không còn là một vấn đề riêng của anh hay của một số người nào, mà là vấn đề của chung, có liên quan tới quyền chính đáng tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do sáng tác của tất cả mọi người.

Theo tinh thần đó, chúng tôi đăng bài này.


Lần đầu tiên tôi biết Trần Dần là trong một trại hè của các đoàn văn công quân đội năm (19…) Dáng người thấp, hơi thô, tay chân chắc nịnh, lúc nói chuyện thường ồn ào, giọng cười thẳng thắn, ròn rã. Đôi mắt xếch với cặp mày rậm làm cho khuôn mặt anh dữ tợn, nhưng đến khi anh há mồm ra cười thì trông lại như một đứa trẻ con.

Tôi biết tiếng anh từ lâu - Ở bộ đội Sơn La, từ đầu năm 1947, nổi tiếng có một anh Trần Dần nào đó thường vẽ và làm thơ có nhiều cái rất lạ, anh em văn nghệ xung quanh thì rất thích nhưng đồn rằng bộ đội thì không hiểu và một số cán bộ chính trị ở đơn vị thì lấy làm bực mình.

Tới trại hè năm 1951, các đoàn văn công nỗ lực tập luyện để phục vụ một chiến dịch lớn. Trần Dần phụ trách huấn luyện cho mấy trăm anh chị em: sáng tác đạo diễn và diễn viên. Trong bóng rợp của một rừng nứa, giọng anh rủ rỉ như lời tâm sự, giảng về văn nghệ nhân dân. Văn nghệ do dân, vì dân, có Đảng lãnh đạo. Giọng anh thấm thía từng ngày lên lớp. Mấy trăm anh chị em lần đầu tiên được học một tài liệu dài đến gần hai tháng, đều vui trong lòng như một người đi trong đêm rét, chợt nhìn thấy lửa ấm của một túp nhà. Học xong tài liệu Văn nghệ nhân dân, anh chị em say sưa công tác hơn vì người giảng viên Trần Dần đã thổi vào tâm sự mọi người một cái tự hào. Đến bây giờ tôi (…) [1] Lỗ Tấn mà Trần Dần đọc ra để dẫn chứng cho tài liệu:

Hoành mi lễnh dối thiên phu chỉ
Phủ thủ cam nhi nhụ tử ngưu
Học xong phần lý luận có thể nói hầu hết anh chị em văn công đều yêu mến Trần Dần như một người bạn từ lâu lắm. Những người có chuyện riêng gỡ mãi không ra, đều tìm đến hỏi Trần Dần. Một anh sắp lấy vợ, một chị bị ép chồng, một diễn viên già có vợ ở vùng tạm chiến, đều đến tìm Trần Dần – không phải là một câu trả lời thoả đáng – nhưng chính là một sự an ủi, một câu nói chí tình, và để nghe ở anh cái giọng cười quen thuộc, giọng cười vô tư, rất yêu đời.

Dần dần anh chị em gọi Trần Dần là “thày tướng” và lắm khi tin anh như một người đau khổ ngày trước tin số mệnh, đã đặt cho anh một cái tên “Trần Dần cốc tử”.

Hồi ấy Trần Dần yêu một nữ diễn viên văn công. Vốn tính cương trực, lỗ mãng, anh không biết cách nào khéo léo để lấy lòng yêu của người đàn bà. Anh không biết nói đẹp, nói hay, chỉ non thề bể, xem lá rụng, hoa tàn để vừa ý một cô gái rất đỏng đảnh. Gặp cô, anh “tấn công” luôn, rất thô kệch. Cô ấy sợ, và chạy trốn. Anh đuổi không kịp.

Rồi anh thất vọng to, và cũng biết khóc. Một lần bắt chợt anh ôm đầu khóc, tôi kéo mấy anh bạn vào xem: “Vào đây xem voi chảy nước mắt các cậu ơi!” Mãi về sau hình ảnh cô gái đó đột hiện lên, tươi roi rói, đẹp và anh dũng trong những trang đầy nhiệt huyết của cuốn truyện Người người lớp lớp [2].

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Trần Dần thức thâu đêm suốt sáng để viết bản thảo lần thứ ba cuốn truyện về những người đã tạo ra chiến thắng lịch sử lớn lao đó. Dạo ấy tôi thấy anh gầy rộc đi, mắt trũng trong một quầng thâm rộng. Nhưng mắt anh có những tia sáng mới. Anh biết anh đang luyện ngòi bút cho thật sắc sảo, “có sác sảo mới diễn tả hết con người và cuộc đời”. Anh rất ghét lối viết dễ dãi, tạm bợ, tả bộ đội chỉ thấy súng nổ, lửa bốc, chỉ thấy uỳnh oàng mà chẳng thấy người. Anh gọi những loại văn đó là: văn chương khói lửa mịt mù. Nhìn vào những trang sách, độc giả tìm kiếm mãi mà chưa thấy một người, chưa thấy việc đời, chỉ thấy lổn nhổn những bộ máy lắp đi lắp lại và một lô danh từ, hình ảnh trống rỗng, thùng rỗng kêu to.

“Nhưng cái hướng chính của tôi không phải là tiểu thuyết. Hướng đi của tôi là thơ. Tôi sẽ tìm tòi trong thơ và cố gắng tạo ra một lỗi diễn tả riêng biệt – không phải lập dị- nhưng độc đáo.”

Trần Dần đã nói với tôi như vậy sau khi anh viết xong Người người lớp lớp. Hồi đó, anh có đưa tôi xem tập thơ làm đã lâu: Tiếng trống tương lai [3].

Đọc lần đầu tiên, tôi không thích. Tôi cho Trần Dần là lập dị. Đọc lần thứ hai, thứ ba, tôi vẫn không thấy thích, nhưng dần dần tìm ra được nhiều cái mới lạ, khác với nếp cũ thông thường. Tuy nhiên, tôi vẫn không thấy thích cái lối thơ ấy. Dần dà đọc nhều bài thơ anh làm về sau, tôi càng thấy “cái anh chàng này khác thường”. Khác thường theo ý tôi chưa chắc là đã hay. Dù sao do thơ Trần Dần, tôi suy nghĩ nhiều về trách nhiệm người làm thơ trước cuộc đời: đi sâu vào đời sống có suy nghĩ của con người, tìm cách diễn tả riêng, tạo ra một thế giới riêng cho mình. Tôi thấy thơ Trần Dần có phần đau xót, u ám, nhiều khi rất buồn, vừa cộc cằn lại vừa có cái tự hào sôi nổi, nhiệt tình thẳng thắn, táo bạo.

Nhưng giọng thơ của anh, vẫn không lọt được vào tâm hồn tôi - một người làm thơ theo một dòng khác. Dù sao tôi vẫn trân trọng và quý mến những cái tìm tòi của Trần Dần trong thơ. Tôi cũng nghĩ như anh thường nói: Mỗi người làm một kiểu. Có thơ như tiếng sáo, có thơ như tiếng kèn, có thơ như tiếng trống. Đừng bắt thơ ai phải giống ai. Có thế mới thành một cuộc “hoà âm” lớn của thi ca. Độc giả thơ cũng ví như người xem xiếc. Có người thích kiểu tung cầu, kiểu đứng trên lưng ngựa. Lại có người thích xem dạy hổ, leo dây. Nhiều khi sợ đến rùng mình, nhắm mắt. Mỗi dòng thơ thích hợp cho một loại độc giả. Có thế mới trăm hoa đua nở được. Gò bó theo ý thích chủ quan của một vài người, thơ sẽ thành hoa giấy đóng hộp bày trong tủ kính.

Hồi đó, tôi chưa biết Mai-a-cốp-sky. Khi hoà bình lập lại, về Hà Nội, đọc Mai-a, tôi thấy hơi thơ và cách diễn tả của Trần Dần có nhiều chỗ giống Mai-a. Tôi trách anh:
- Sao cậu lại bắt chước Mai-a? Bắt chước thì không thể nào độc đáo được.

Trần Dần nói:
- Tâm hồn có giống nhau thì mới ảnh hưởng sâu sắc được chứ! Mình bị ảnh hưởng Mai-a thực, nhưng cái chính là mình chịu ảnh hưởng thực tế cách mạng Việt Nam. Do đó mình sẽ dần trở thành mình.

Viết xong Người người lớp lớp, Trần Dần được phân công viết thuyết minh cho cuốn phim Chiến thắng Điện Biên Phủ và anh được cử sang Trung Quốc làm nhiệm vụ đó. Nhưng đi kèm bên cạnh anh là một cán bộ chính trị có quyền tối hậu quyết định [4]. Anh cán bộ này, đáng lẽ phạm vi công tác là góp ý kiến vào nội dung bản thuyết minh và bảo đảm cho nó không phạm những sai lầm về đường lối chính sách của Đảng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, thì đã lợi dụng uy quyền của mình đi quá xa vào phạm vi văn học, bắt Trần Dần phải viết như ý mình, từng câu từng chữ, lạm dụng danh từ chính trị khô khan rỗng tuếch để nhét cho kỳ được vào bản thuyết minh.

Đầu tiên, Trần Dần rất phục tùng người cán bộ chính trị khi dự thảo thuyết minh, và hoàn toàn theo sát những vấn đề chính trị sẽ đặt ra khi thuyết minh. Đến khi thấy anh cán ấy “lên gân” và thọc bàn tay cứng lạnh vào phạm vi viết văn thì Trần Dần bắt đầu có phản ứng. Nhưng anh vẫn bình tĩnh, đề nghị cấp trên xét lại vấn đề. Đến khi “anh cán bộ vẫn là tối hậu quyết định cả từng câu chữ” thì Trần Dần thôi không làm công việc đó nữa, nhường cả phần “văn chương” cho đồng chí cán bộ.

Sau việc này sự mâu thuẫn giữa văn nghệ sĩ và cán bộ chính trị bắt đầu phát triển khá mạnh trong con người Trần Dần. Anh vẫn cố dẹp đi, nhiều lúc anh thẫn thờ ít cười ít nói nhưng vốn là con người chân thực – cái chân thực nhiều khi đến thô lỗ - lắm khi anh đã cục cằn, thốt ra những lời gay gắt thiếu lịch sự. Anh thường bàn với anh em, khi thấy nhiều thắc mắc quanh việc này: “Ôi già! Cái con số cán bộ chính trị bóp chết nghệ thuật thì không ít đâu. Làm thế nào để Trung ương Đảng biết rõ tình hình và đề ra những chính sách cụ thể cho văn nghệ sĩ, đó là nhiệm vụ của mỗi đứa chúng mình. Tin Đảng, yêu Đảng, đi theo Đảng đến cùng thì phải có phần góp ý kiến cho Đảng. Đảng cần nhiều khối óc, cần nhiều bàn tay, cần nhiều trái tim, chứ Đảng không cần đến những con người máy, giật thế nào làm thế ấy”.

Đó là động lực thúc đẩy Trần Dần, rồi đến Tử Phác, Đỗ Nhuận, Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Hoàng Tích Linh, và rất đông anh em công tác văn nghệ trong bộ đội dự thảo ra bản “Đề nghị Chính sách Văn nghệ” trình bày với cấp trên hồi đầu năm 1955, tại Hà Nội.

Bản dự thảo sắp được thông qua. Một vài cán bộ cao cấp trong quân đội tỏ ý tán thành những điểm chính trong bản đề nghị đó, và nhất là hoan nghênh tinh thần xây dựng của bản đề nghị.

Trong thời gian bản dự thảo còn bàn đi bàn lại, thì bỗng có một người đàn bà đến rất nhanh chóng trong đời sống của Trần Dần. Một chị ngoài 20 tuổi, đi đạo, ở Hà Nội mới giải phóng. Trần Dần gặp người đó và hai người yêu nhau. Lúc mới yêu người ta dễ say. Trần Dần lại là người chưa từng được yêu bao giờ, dù anh đã gần 30 tuổi. Anh mê man với mối tình đó buổi đầu và đã đôi ba lần làm trái với nội quy sinh hoạt của bộ đội. Cái tật xấu nhất của Trần Dần là bừa bãi trong sinh hoạt: quần áo, sách vở, vứt lung tung, bạ đâu ngủ đấy. Trong sự giao thiệp với người đàn bà này, anh cũng rất bừa bãi. Mới quen lần đầu đã nghiễm nhiên vác ba lô đến ở chơi nhà người ta vài ngày, rồi cười đùa ầm ỹ. Anh đã sấn sổ đòi tình yêu. Người thiếu nữ có lẽ vì sợ đôi mắt xếch đã đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác, và đến lúc nhượng bộ cuối cùng: chị đã trao cả cuộc đời mình cho anh. Nhân lúc đang ốm yếu, được phép nghỉ, anh đã đến nhà người yêu ở hàng nửa tháng liền. Và anh đề nghị cấp trên cho anh được cưới.

Một người con gái mới lớn, đã sống trong không khí tôn giáo, sống trong vùng tạm chiếm lâu năm, lại có được uỷ quyền cho thuê mấy cái nhà, bây giờ bỗng dưng yêu một anh cán bộ quân đội. Vấn đề gì đặt ra đây?

Trần Dần vẫn yêu đắm đuối và ngang ngạnh. Anh đề nghị đơn vị đi sát giúp đỡ anh. Lý lịch người thiếu nữ, theo anh, không có gì là mờ ám. Một công dân còn trẻ, chưa hiểu việc đời nhiều lắm, trình độ chính trị rất thấp, nhưng biết yêu lá cờ vinh quang của Tổ quốc, ngày giải phóng thủ đô, cũng chạy ra đường vẫy quân đội, miệng hoan hô không biết mỏi.

Trần Dần ngày càng không thể dứt ra được tình yêu dù anh biết mối tình đó sẽ gặp nhiều trắc trở. Quả nhiên, không ai “tán thành” tình yêu của anh, trừ một vài người bạn thân. Có người lên giọng đạo đức: Thằng Dần sa ngã rồi. Mới về Hà Nội đã hư hỏng, hoà bình chủ nghĩa thật.

Có người nghiêm nét mặt, đề cao cảnh giác: Cẩn thận! Kẻo sa lưới địch! Nó đang âm mưu tấn công vào hàng ngũ ta.

Tình yêu của Dần với cô gái Hà Nội đã làm cho anh em chung quanh bàn tán sôi nổi. Nhưng không ai chịu khó đi tìm chân lý. Những câu chuyện nói cho vui mồm, những lời dèm pha, chế giễu, những “nhận định” cao siêu, những “lập trường” “quan điểm” giai cấp tính, tư tưởng tính, “tư sản” và “vô sản” v.v… Người ta rút những câu to lớn nhất trong hàng chục pho sách chính trị để quy kết cho một mối tình.

Trần Dần đã gục mặt vào tay đau đớn. Tôi đã gặp anh ngồi lặng hàng giờ trong một căn phòng quần áo bàn ghế bừa bãi ở nhà người thiếu nữ đó. Giữa anh và chị, có một niềm tủi cực, cay đắng, xót xa. Chị đã thôi không trang điểm, xếp áo màu vào tủ, có cái thì đem cắt ngắn, nhuộm nâu. Đã tan đi từ lâu lắm tiếng cười ròn rã. Trong giọng nói đã thấy ngấn nước mắt. Có vài căn nhà được uỷ quyền cho thuê, chị đã nghe lời anh đem giao lại cho Uỷ ban nhà cửa. Đầu tiên, khi nghe người yêu bàn việc đó, chị K. ngạc nhiên mắt đen tròn mở to:
- Thế rồi sống bằng gì hả anh? Sao lại giả nhà cho Chính phủ hở anh? Chính phủ có kết tội những người có nhà cho thuê không hở anh?

Rất nhiều câu hỏi. Anh đã bàn:
- Không! Chính phủ vẫn bảo đảm cho người có nhà cho thuê. Nhưng chúng mình phải làm lấy mà sống. Không nhờ vào đâu cả, ngoài bốn cánh tay mình, đủ sống thì thôi.

Trần Dần hết sức giải thích cho người yêu và hướng người yêu vào cong đường “làm lấy mà sống” “đừng nhờ vả ai”. Hình ảnh người con gái đi tìm việc làm trong mưa, về sau tôi lại gặp rất đau xót, trong bài thơ Nhất định thắng in trong tập Giai phẩm mùa Xuân 1956.

Mối tình đó kéo lê những ngày lo sợ, buồn phiền. Trần Dần không ngờ yêu lại khổ đến thế này. Cùng một thời gian đó, bản “Đề nghị Chính sách Văn nghệ” thảo luận chưa xong. Giời sang hè, mùa mưa tầm tã. Trần Dần và người yêu vẫn sống trong một góc nhà tối thiếu ánh sáng. Bữa cơm không vui. Bụi phố Sinh Từ rắc vào nhà như sương, bụi phủ trắng mặt bàn ghế. Ăn vội vàng, Trần Dần lại về đơn vị để rồi lại được nghe những lời phê phán, những tiếng xì xào. Và người thiếu nữ lại chân đất, áo ngắn, đi tìm việc làm, có hôm từ sáng đến tôi mới về:
Em đi trong mưa… cúi đầu… nghiêng vai
Đến ngày họp bàn về dự thảo chính sách, Trần Dần được anh em cử ra trình bày. Nguyện vọng của bao nhiêu văn nghệ sĩ trong quân đội. Làm thế nào để sáng tác hay, phục vụ được sâu sắc. Anh nói say mê, nhiệt tình. Trong cách nói nhiều khi bốc. Mặt anh khi đỏ gay, khi tái lại:
- Giả văn nghệ cho anh em văn nghệ sĩ! Phân rõ ranh giới giữa cán bộ chính trị và văn nghệ sĩ. Văn nghệ sĩ phải có sự lãnh đạo của Đảng, nhưng không thể biến thành cái máy v.v…

Đột nhiên trong không khí hào hứng của gần ba mươi anh em văn nghệ sĩ đang sẵn sàng cởi mở hết để xây dựng một trong những chính sách lớn của Đảng, bỗng có một câu quật lại:
- Tinh thần bản đề nghị này chính là một thứ tư tưởng tự do của tư sản. Nó chứng tỏ tư tưởng tư sản đã bắt đầu tấn công vào các đồng chí!

Giá câu nói ấy ở mồm một người thường thì cũng sẽ thường thôi. Nhưng lại ở một cán bộ có đủ thẩm quyền xét lại hay bác bỏ những đề nghị của văn nghệ sĩ, thì bắt đầu có một sự động cựa lớn. Những người trước kia tán thành bản dự án thì bắt đầu trở nên hoang mang.

Thêm vào đó, câu chuyện tình chưa được công nhận. Bóng người con gái hiền lành, hay khóc, người yêu của Trần Dần bỗng trở thành một thứ gì ám ảnh: Một bóng ma đáng sợ. Người nào muốn tỏ ra “lập trường tư tưởng vững chắc” không bị “tư tưởng tư sản tấn công” đều phải ghét người con gái ấy đi. Tình cảm day dứt đến cực độ, như một cành cây non bị quật lên quật xuống trong trận bão khổng lồ, Trần Dần không còn biết bộc bạch cùng ai. Nói gì bây giờ cũng khó lọt qua tai những người “vững lập trường lòng lim dạ sắt”. Trần Dần gần như phát điên. Hết đứng lại ngồi, lại chạy ra phố, lại về đơn vị, ở đâu anh cũng thấy như có những dây trói vô hình mỗi ngày một thít chặt vào trái tim anh.

Cùng một thời gian ấy, những sự kiện lớn trong phong trào văn nghệ dồn dập tới: Phê bình tập thơ Việt Bắc, Trần Dần nhận định tập thơ Tố Hữu nhỏ bé nhạt nhẽo trước cuộc sống vĩ đại và mắc một sai lầm nghiêm trọng là sùng bái cá nhân, thần thánh hoá lãnh tụ.

Và truyện Người người lớp lớp phát hành hàng vạn cuốn, được hoan nghênh. Và cuộc phê bình Vượt Côn Đảo [5] cũng sôi nổi không kém cuộc phê bình Việt Bắc. Trần Dần viết một bài phê bình Vượt Côn Đảo giọng châm biếm cục cằn, khiến nhiều người phản đối. Trong một không khí hết sức căng thẳng của văn nghệ bấy giờ, lại bị quy kết là thoát ly chính trị, tư sản tấn công, hoà bình chủ nghĩa v.v… rất nhiều anh em bị cuốn vào một chỗ mịt mù, chân lý gần như bị ngập bởi các thứ thành kiến, chụp mũ hung hăng.

Con giun bị xéo mãi cũng quằn lên. Trần Dần có lúc oang oang ăn to nói lớn, có lúc tranh luận sôi nổi, có lúc nóng nảy văng tục, có lúc lầm lì ngồi một xó, khi thì ngâm thơ giọng buồn thấm thía, khi thì cao đàm hùng biện, khi thì lại vò đầu bứt tóc, nhiều lúc ứa nước mắt, ôm mặt nằm cò queo một mình, có lúc nấc lên, đầu bù tóc rối.

Tấn thảm kịch đã đi đến một chỗ thắt nút quằn quại. Người yêu của anh bắt đầu có mang. Và đột nhiên anh bị giữ ở đơn vị để kiểm thảo cùng với Tử Phác, quanh quẩn trong một gian phòng. Một tháng, rồi hai tháng, ba tháng. Những ngày đầu tiên, như cơn sốt rét đột ngột, anh kêu lên:
- Tôi có tội gì? Tôi có tội gì mà giữ tôi ở lại?

Người yêu anh bỗng thấy anh không về nhà nữa. Nhưng trận ốm nghén đầu tiên đã quật chị xuống như một con bệnh nặng. Mặt choắt lại, người chỉ còn da với xương. Một mình ở một căn nhà bừa bộn với một con chó gầy còm, không cha mẹ, không anh em [6], không bạn bè, chỉ có bà hàng xóm bán guốc thỉnh thoảng chạy đi chạy lại nấu cho bát cháo. Tôi đến gặp chị mếu máo, trông già đi hàng chục tuổi. Chị hỏi:
- Sao anh Dần không về với tôi nữa hở anh?

Tôi giải thích: “Anh ấy bận công tác ít lâu thôi. Chị đang ốm, có cần gì, chúng tôi sẽ giúp chị.”

Chị oà lên khóc:
- Bộ đội có cho tôi lấy anh ấy không?

Tôi lại khuyên nhủ:
- Có chứ! Ai cấm đâu!

Chị bỗng khóc to hơn:
- Phải rồi, không ai cấm tôi và anh ấy lấy nhau. Bộ đội người ta không cấm nhưng anh Dần bỏ tôi rồi! Tôi bụng mang dạ chửa thế này, anh ấy bỏ tôi trốn rồi!

Rồi chị gào lên:
- Bạc như vôi ấy giời ơi! Anh ấy không muốn ăn ở với tôi nữa thì cứ bảo tôi biết, việc gì phải lấy cớ công tác này công tác nọ.

Tôi thấy chua chát lạ lùng, nhưng chỉ nói tránh đi:
- Anh ấy bận công tác thật đấy mà!

Chị vẫn một mực:
- Anh ấy nói dối! Cả anh nữa cũng nói dối. Thôi tôi chết đi! Tôi chết đi cho anh ấy đỡ bận! Mà đỡ phiền cả các anh…

Một số bạn thân của Trần Dần phải cắt nhau đến canh ở đấy, giải thích an ủi, giúp đỡ một người con gái mới yêu lần đầu mà đã bị dao cắt ruột gan.

Trong những ngày u uất đó, anh không được biết tin người yêu, ngồi vò võ trong phòng kiểm thảo. Qua lúc đầu tiên đột ngột, tâm trí anh dần dần bình tĩnh lại. [7]

Ba tháng hết nằm lại ngồi, anh đã trải qua một đoạn đời đau khổ. Nhưng ở Trần Dần luôn luôn có tình yêu sự sống rất mãnh liệt nó đã ngăn không cho anh đến chỗ huỷ hoại cuộc đời còn rất trẻ của mình. Anh viết bài thơ Nhất định thắng (vào khoảng tháng Tư 1955).

Lần đầu tiên tôi vào thăm anh, với một món quà nhỏ: Một túm nhãn tôi mua ngoài phố. Anh vồ lấy ăn ngấu nghiến rồi cười oang oang: “Thi đua với các cậu làm thơ nhé!”.

Thấy tôi rơm rớm nước mắt, anh bỗng hạ thấp giọng:
- Đừng buồn cho mình. Mình cũng nhiều khuyết điểm lắm: có tự kiêu, có nóng nảy, có tự do vô kỷ luật thật. Nhưng không bao giờ không trung thành với Đảng, dù bị mắc tiếng oan, dù bị kỷ luật. Và mình tin những cái độc đoán của một vài cá nhân rồi đây sẽ không còn nữa. Đảng là một khối sáng suốt. Tương lai chúng mình, Đảng sẽ đảm bảo, dù bây giờ Đảng có thể chưa hiểu mình.

Anh lại đọc Mai-a, đọc Sê-cốp, Goóc-ki. Anh lại nằm nghiền ngẫm Đất vỡ hoang và Trên sông Đông êm đềm của Sô-lô-cốp.

Cánh cửa có chấn song sắt khép lại, tôi lùi ra và cảm thấy gian phòng kia không còn chật hẹp, tù hãm nữa đối với một con người đầy lòng tin như Trần Dần.

Hết 3 tháng kiểm thảo, anh lại được về với người yêu. Chị ấy lúc đầu còn giận dỗi:
- Thôi anh đi đâu thì đi, mặc xác tôi.

Nhưng chẳng bao lâu, mắt lại sáng, tiếng cười lại trở về trong căn nhà bề bộn những bàn ghế quần áo và ống chỉ, dao kéo. Chị đã bắt đầu may sẵn áo cho đứa con đang cựa trong bụng. Chị đã xin được việc làm:
Trời đã thôi mưa… thôi gió
Đã thấy nắng lên trên màu cờ đỏ
Rồi Trần Dần đi tham quan Cải cách Ruộng đất [8]. Bài thơ Nhất định thắng gửi Lê Đạt giữ từ lâu, anh cũng gần như quên đi, óc còn mải nghĩ về những mặt khác của cuộc sống để chuẩn bị cho những bài thơ khác sẽ ra đời.

Đã gần đến Tết ta. Một số anh em đã thấy say sưa sáng tác. Tôi chạy đi chạy lại gom góp sáng tác của dăm ba người bạn và nghĩ rằng phải xuất bản một tập văn thơ mùa Xuân để đóng góp với mùa xuân mới của văn nghệ đang sắp nở.

Và nhận thấy cái kỷ luật “cấm sáng tác” do một vài người công bố đối với Trần Dần là một điều vô lý, sai chính sách của Đảng, và đang lúc Trần Dần đi công tác xa xôi không biết anh có sáng tác gì mới không, tôi bèn tìm lại bài thơ Nhất định thắng và cho đăng vào cái Giai phẩm mùa Xuân mà tôi là người soạn bài.

Cứ để bông hoa đó nở thì đã hại gì ai mà có thể có lợi. Nhưng hoa chưa kịp nở, thì đã bị dập vùi. Giai phẩm mùa Xuân bị kết tội, bài thơ Nhất định thắng bị kết tội. Người ta cho rằng cái bè phái độc quyền trong giới văn nghệ bị công kích (bắt đầu từ cuộc phê bình thơ Việt Bắc) đã tìm cách trả thù:

Trần Dần, Tử Phác đều bị tống giam [9].

Cái nút thứ hai khốc liệt hơn, của tấn thảm kịch Trần Dần.

Những ngày mùa xuân 1956, tôi đau đớn như có búa nện vào óc, có đinh đóng vào tim, và có dây trói chặt vào chân tay.

Mùng hai Tết, tôi ăn bữa cơm cuối cùng với Trần Dần. Giữa hai tợp rượu, đã thấy những cơn bão đe doạ, mà lần này chắc ghê hơn lần trước. Chị K. không biết gì vẫn vui vẻ ngồi bóc bánh, rồi xếp dọn ba lô cho chồng để anh ăn xong thì lại đi công tác.

Không khí văn nghệ như sắp sửa có trận bão. Không biết từ đâu cái tin “Trần Dần phản động” “Trong Giai phẩm có mấy tên phản động” bỗng truyền ra rất nhanh. Những tin không hay dồn đến, bổ vây tôi và anh Trần Dần còn đang ăn dở miếng bánh chưng Tết. Chị K. tái mặt, để rơi đôi đũa, nước mắt đã vòng quanh:
- Thế là thế nào hả các anh? Phen này lại bị bắt nữa thì tôi sống thế nào được? Các anh rủ nhau làm những chuyện gì mà khổ sở thế không biết!

Trần Dần cũng tái mặt, anh cắn chặt môi, xốc ba lô lên vai, an ủi vợ:
- Em đừng lo. Tin đồn bậy bạ đấy thôi. Anh đi công tác đây, gần đến tháng đẻ, em đừng lo nghĩ gì cả.

Nhưng chị K. không thể bình tĩnh được. Chị tiễn chồng ra cửa khóc oà lên:
- Anh ơi… Anh có về nữa không, anh ơi!

Cổ tôi bỗng nghẹn nước mắt. Tôi cố cười:
- Ồ cái chị này lẩn thẩn. Thôi để anh ấy đi nào…

Trần Dần ngửng mặt bước đi, ruột tôi bỗng thắt lại: Chuyến này mà nó có làm sao thì chỉ tại mình. Đang tự dưng bày ra cái Giai phẩm. Tuy chưa phải là những sáng tác xuất sắc, nhưng ít ra nó cũng nêu được vấn đề gì. Có vấn đề xã hội trong thơ Văn Cao, có vấn đề chống công thức trong thơ Lê Đạt. Và tuy tôi không hoàn toàn thích bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần, tôi cũng đưa in, vì tôi thấy ít ra nó cũng khác với lối làm thơ một chiều. Dù sao thì cũng có ít ra vài ba con cá quẫy mạnh trên mặt ao tù bấy lâu phẳng lặng.

Từ những ngày Tết mưa lã chã, cái bè phái độc quyền trong văn nghệ bắt đầu họp đứng họp ngồi để tìm cách đối phó với cái Giai phẩm. Một không khí ngạt thở đè nặng lên những anh em có bài trong tập sách đó. Rồi đến một đêm, bài thơ Nhất định thắng bị đem ra luận tội.

Y như một xóm đang đêm tối bỗng có tiếng kêu “Cướp! Cướp! Cướp đã đến”. Lập tức mọi người mắt nhắm mắt mở, vớ lấy giáo mác, gậy gộc, chạy xô ra ngõ, gặp một cái bóng đen. Cả làng hầm hè đánh. Roi gậy, giáo mác, gạch củ đậu thi nhau nện xuống cái bóng người. Một trận đòn nhử tử. Cái tâm lý đánh cướp này là tâm lý chung của nhưng người muốn bảo vệ nhà cửa, xóm làng của mình. Cái bóng đen gục xuống. Mọi người lại về nhà đi ngủ. Sáng hôm sau, mặt trời mọc, đi ra ngõ, thì ra cái “bọn cướp” đó chỉ là một anh đang đêm nực nội mò đi hóng mây gió.

Những người đã cầm gậy đánh, đều rất có lý:
- Hô lên là cướp thì ông đừng giã bỏ mẹ đi à?

Họ là những người yêu làng yêu nước, họ không có lỗi gì. Nhưng lỗi ở những ai hô cướp?

Kẻ nào hô ra hai tiếng “phản động” đầu tiên để gọi cả làng ra đánh chết Trần Dần?

Tôi cố suy mãi, lòng như dao chém. Thôi thế là đêm luận tội đã đóng án tử hình xuống một bài thơ; xuống một con người, đồng thời là một sự đe doạ nặng nề chung cho anh em văn nghệ sĩ đang muốn tìm những lối sáng tác khác với bè phái bên kia.

Sau cuộc lên án đó, tôi không được biết tin gì về anh. Tôi đoán biết được lần này thì anh sẽ thực sự ngồi tù. Vợ anh gần đến tháng ở cữ, vật vã khó suốt ngày suốt đêm vì quả nhiên, sau cái ngày mùng 2 Tết ấy, anh đi không về nữa.

Tôi cũng ân hận hết ngày ấy qua ngày khác, luôn thấy mình là thằng làm hại bạn: “Dần ơi, bây giờ mày nằm trong nhà tù nào, mày có trách tao không?”

Lần này tôi lo sợ hơn lần trước anh bị giam lỏng hơn 3 tháng. Lần này cái bè phái độc quyền văn nghệ kia nó quyết liệt hơn trước, trong không khí văn nghệ đã nghe thấy máu lửa. Tôi lo ngày lo đêm đến con người anh. Lần trước, anh còn chịu được và còn có thể bình tĩnh. Đến lần này, liệu anh còn có đủ can đảm chịu đựng hay không? Tôi đã nghĩ đến cái phút đau đớn cực độ, anh không thiết sống nữa thì một lưỡi dao, một cái đập đầu vào tường… tôi sẽ mất một người bạn, và chúng ta mất tác giả Người người lớp lớp, tương lai mất một nhà thơ.

Khi chị K. ốm nghén, bơ vơ trong một căn nhà, chống gậy sang hàng xóm xin từng ngụm nước, là lúc người yêu của chị đi ba tháng không về.

Khi chị K. đau quằn quại, cho ra đời đứa đầu tiên của một mối tình cay đắng, là lúc người yêu của chị lại đi… không biết bao giờ về.

Đứa bé ra đời, còm rom như một con mèo ốm. Nó quặt quẹo, sài đẹn mấy lần tưởng chết. Chị K. nuôi con bằng nước mắt nhiều hơn bằng sữa.

Tin anh vẫn mịt mù. Lần này chị không còn hiểu lầm anh là “phụ bạc” mà chị đã biết thực sự. Chị không oán thán nữa, chỉ ôm con mà khóc. Có lần tôi đến thăm, chị kể lể:

“Giá đừng biết nhau, đừng yêu nhau thì anh ấy đỡ khổ, tôi cũng đỡ khổ và không đến nỗi phải cho ra đời một đứa bé khổ sở thế này. Liệu nó có mất bố không hở anh? Liệu tôi có goá chồng sớm không hở anh?”

Tôi như bị chích vào vào gan. Bế đứa bé thấy nhẹ bỗng, mặt mũi nó nhăn nhúm, méo mó, tôi đã khóc và suy nghĩ rất lâu về giá trị con người. Đặt tên cháu bé là gì để kỷ niệm những ngày bố cháu và nhân phẩm văn nghệ sĩ bị trà đạp xuống bùn đen? [10]
Hôm nay
Trời đã thôi mưa thôi gió
Nắng lên đỏ phố đỏ nhà
Đỏ mọi buồng tim lá phổi
Em ơi! Đếm thử bao nhiêu ngày mưa…
Sau khi học tập nghị quyết của Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, cái tin vui từ lòng tôi tự dưng toả ra: Trần Dần chắc sẽ được về!

Quả nhiên, một buổi chiều sang hè anh đã về. Tin đó đến với tôi không đột ngột lắm, vì tôi tin chắc ở ánh sáng Đảng Cộng sản Liên Xô, tin ở chân lý mà Đảng ta nắm rất vững.

Anh đã về. Gặp anh, tôi không nói gì được. Vẻ mặt anh vẫn vui, nhưng có hằn thêm những nét khắc khổ. Da mặt xanh, người gầy gộc. Nói chưa được một câu, anh đã cười, vẫn giọng cười hồn nhiên, khoe với tôi bốn bài thơ anh làm trong lúc bị giam, và khoe rằng sở dĩ anh được về là nhờ có sự sáng suốt của Trung ương Đảng.

Tôi đọc kỹ bốn bài thơ đó, và nhìn anh, kinh ngạc. Tôi không thể nghĩ được rằng trong hoàn cảnh bị giam đau đớn thế, anh lại có đủ bình tĩnh làm những bài thơ sáng sủa chan chứa lòng yêu đời, yêu Đảng như thế này. Tôi thấy quí và kính phục người bạn mà tôi cho là rất anh dũng. Tôi khoan khoái đọc to mấy đoạn thơ của anh, anh ngửa mặt lên, tôi chợt nhìn thấy ở cổ anh có một vết sẹo dài nằm ngang cuống họng, thịt mới liền, còn đỏ tươi.

Tôi hiểu cả, không hỏi thêm anh điều gì… Trước mắt tôi, là một người có sức mạnh chống chọi với tủi nhục, với thành kiến, cả đến những lời vu cáo đanh thép nhất cũng rụng dưới chân anh như cỏ héo.

Trước mắt tôi là một người chí tình, tha thiết, đã có những giây phút bốc lên quá nóng nảy cục cằn, đã tự do bừa bãi nhưng không lúc nào ngừng hoạt động vì tiền đồ rực rỡ của văn nghệ.

Trước mắt tôi là một con người dũng cảm của Đảng, có thuỷ có chung, biết tin yêu Đảng vô bờ bến, biết căm ghét những cái thối nát đang làm hại đến uy tín của Đảng, của quân đội…

Trước mắt tôi là Trần Dần.

Trước mắt tôi lúc viết bài này là một chuyện kéo bè để vu cáo trắng trợn, một vụ án văn chương vô cùng oan ức, một tài năng và một tâm hồn trong sạch bị giày xéo.

Trước mắt tôi là lòng tin vào ánh sáng của Đảng. Ánh sáng đó sẽ soi rọi vào bất cứ chỗ nào đang cần bảo vệ giá trị con người.


Hoàng Cầm

[1]Thiếu vài chữ, do bản gốc bị thủng không khôi phục được (các chú thích trong bài của Phạm Thị Hoài)
[2]Trần Dần viết xong tiểu thuyết Người người lớp lớp cuối tháng 9.1954, trước khi lên đường đi Trung Quốc.
[3]Bài thơ dài “Tiếng trống tương lai” hoàn thành tại Bắc Kinh tháng 10.1954
[4]Chuyến đi Trung Quốc kéo dài 2 tháng, từ 10.10 đến khoảng 10.12.1954. Trong đoàn công tác của Trần Dần còn có nhạc sĩ Đỗ Nhuận.
[5]Tác phẩm của Phùng Quán
[6]Gia đình bà Bùi Thị Ngọc Khuê, vợ Trần Dần, đã di cư vào Nam năm 1954.
[7]Trần Dần bị giam kiểm thảo theo kỉ luật quân đội từ 13.6 đến 14.9.1955
[8]Đó là chuyến đi tham quan Cải cách Ruộng đất đợt 5 tại Bắc Ninh, từ 02.11.1955 đến tháng 2.1956.
[9]Trần Dần bị giam 3 tháng tại nhà tù Hoả Lò, Hà Nội năm 1956. Trong tù, ông đã dùng dao cứa cổ toan tự tử.
[10]Con gái đầu của Trần Dần là Trần Thị Băng Kha.
là lá trên rừng, là cỏ dưới đất, là nước Biển Đông...
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Lão Rồng

(Trần Dần kể, Lê Đạt ghi)

Trong các cuộc họp xóm kỳ cải cách ruộng đất ở xã P. T., thường khi bà con chưa đến đủ mà các cụ ông cụ bà bao giờ cũng đến sớm sủa nhất, đã ngồi ních giữa giường bên rồi, các cụ cứ ngồi đợi, nói chuyện thiên chuyện địa mãi, có khi hàng tiếng đồng hồ chán ra các cụ lại đùa nhau, lại hò nhau “văn nghệ”, các cụ bà “kể hạnh”, chỉ có các cụ ông là thua kém về cái môn vui nhộn. Thường khi ấy các cụ ông hay nhắc tới tên lão Rồng. Giá mà lão Rồng còn sống nhỉ!... Cánh lão ta không có lão Rồng đâm ra sút kém hử...! Vân vân. Nhiều lần như thế tôi mới chú ý, hỏi xem lão Rồng là người như thế nào? Các cụ tranh nhau kể lại cho tôi nghe câu chuyện ông lão tài ba ấy.

Cách đây mười năm, hồi còn mồ ma đế quốc Pháp với cái bộ máy hương tổng kỳ lý ở nông thôn, ở xóm Đinh đây có một ông lão ngót sáu mươi, cả ngày say rượu bét nhè gọi tên là lão Rồng. Nhà thì nghèo lắm, độc có hai vợ chồng già với con gái lớn chuyên đi làm thuê làm mướn, ngày mưa cũng như ngày nắng, ngày bão cũng như ngày yên, nếu nghỉ thì treo niêu mất, nên nhà Rồng ấy cứ quần quật năm tháng chẳng biết ngày đêm, vậy mà ông lão Rồng lại nghiện rượu, ngày ít một cút ngày khá hàng chai. Làm bao nhiêu cho đủ được? Bà con sẩm tối là thấy lão Rồng ngất nghểu ở quán hàng đầu xóm, hay khà khiễng đi trong đường làng, miệng hát nghêu ngao, trẻ con đi theo sau hàng chục đứa. Bố mẹ răn con: “Mày cứ theo ông Rồng ông ấy ném xuồng ao thì mày chết”. Còn kêu ai với cái người say rượu, song le lão Rồng chưa ném đứa trẻ nào xuống ao cả. Nói gì đánh, đến như chửi mắng cũng không bao giờ, lão Rồng rất yêu trẻ, nào cho miếng bánh đa quả ổi “đồ nhắm”, nào vỗ vã và nhất là dạy hát. Ấy chính bố mẹ sợ điều ấy nhất, con dại cái mang, nhỡ ra theo lão Rồng rồi hát những câu nhảm câu nhí mà gieo vạ lên đầu bố mẹ. Số là lão Rồng nổi tiếng đặt vè khắp cả một vùng. Mà trẻ con thì như là những tay cán bộ truyền bá câu vè của lão đi. Lão Rồng: sáng tác gia. Trẻ con: nhà xuất bản và phát hành. Nên chi đâu có lão Rồng là có trẻ con. Tuổi trẻ nó hơn tuổi già ở chỗ đó, nó cứ bám quanh lão, học hát, câu vè càng lạ, càng xó xiên nó càng thích. Vả có gì bố mẹ nó khổ nhiều chứ trẻ con đến đánh là cùng. Đánh thì cũng đau nhưng đau mà được hát vè xỏ lá thì vẫn thích hơn. Dù sao vè lão Rồng cũng nổi tiếng lắm.

Thôi thì đủ. Vè răn trộm cướp, giới tà dâm. Kể thì cũng là luân lý cả, song vè lão Rồng không luân lý như ông đồ đạo mạo. Mà nó cứ xồ xề, châm chọc, đâm ba chày củ. Vậy sao thầy đồ không có tuổi trẻ bám chân lại không nổi tiếng như lão Rồng? Ví dụ vè chửa hoang có câu:

Nằm mơ thấy Phật
Cởi quần em ra
Sớm sau bụng phình
Các ông sư lắc đầu, cấm chỉ lão Rồng hễ bén mảng tới cửa chùa thì đánh gẫy cẳng! Các bà mẹ già mộ Phật giận lắm nhưng gặp lão Rồng vẫn phải chào, nhỡ ra lại có vè thì khổ. Bà con ghét lão, khinh lão mà lại sợ lão vì vậy, chỉ có cái tuổi trẻ vô tư mất dạy kia thì mới yêu lão Rồng mà thôi.

Mà cái lão say rượu thế cũng còn dám làm cả vè răn rượu nữa mới khỉ chứ. Nhưng lão khôn lắm:
Những người tuổi tác
Như lão Rồng đây
Be bét đêm ngày
Là môn thuốc lão.
Thế rồi xuống dưới lão mới châm chọc cái tệ rượu, thường là lão xỉa xói những cái bọn nghiện rượu mà xưa nay không mời mọc lão! Đôi khi cũng kết quả ra phết, gặp nhau ngoài quán, lão Rồng lại được thết dăm ba chén lớn nhỏ, có lúc lão cũng còn làm cao “không thèm”.

Ấy thế mà ối người có lúc phải cày cục lão, chẳng hạn như thù nhau, như mất gà, như ngôi thứ đỉnh chung vân vân… thôn quê thiếu gì chuyện ấy, thế là lão Rồng lại có chén. Nhiều thì tuỳ theo, tuy là lão chưa có ý thức rõ rệt về cái vấn đề nhuận bút, quyền tác giả gì đó, nhưng lão cũng đã biết nói là: “để cho nó nhuận bút…”

Song lẽ đời lão lắm kẻ thù. Đến nay bà con còn nhớ ối câu vè lão Rồng, nhưng đời lão gay go từ cái bài “Khuyến thiện” hiện nay còn truyền tụng, nhất là trong cải cách thì thấy nó “hiển hiện” lắm, tưởng như lão Rồng còn đây, sát cánh với bà con đấu tranh địa chủ. Số là bài vè “Khuyến thiện”, lão Rồng đã cả gan nhiếc móc những nhà đương cục, từ chánh phó lý tới hào mục trương tuần. Vì thử vài câu:
Ve vẻ vè ve
Ve vè khuyến thiện
Đừng như lý Tiến
Ăn bửa của dân
Từ một núm cơm
Từ manh váy đụp
Vợ anh cu Núp
Có mấy sợi lông
Đêm nằm tồng hông
Nó ăn cắp mất.
Cứ thế đủ mặt các vị tai to mặt lớn. Không biết lão Rồng có thù riêng gì không? Chã lẽ thù riêng mà lại thù cả một đống một cọc như thế! Không biết có phải do ai thuê lão đặt vè không? Chả lẽ ai thuê, người nào mà lại thù khắp cả các vị xã lý nhiều như thế? Hay là thù giai cấp, lão Rồng thì biết gì giai cấp? Hay là tài năng của lão tự dưng nó cứ phát triển tới một trình độ như thế? Dù sao đó là nguy cơ của lão Rồng. Lý Tiến chửi: cha mẹ thằng to gan! Chưa chửi xong thì ngay đêm giao thừa cửa nhà lý Tiến có dán ngay một mảnh giấy hồng điều, chữ nôm rất là phóng:
Ve vẻ vè ve
Ve vè chúc Tết
Chúc thầy lý chết
Vợ thầy sinh đôi
Một đứa thì đui
Một đứa thì chột…
Sớm mồng Một thì gậy gộc tuần đinh ào ào tới nhà lão Rồng. Tìm ra thấy một lá cờ búa liềm. Thương thay lão có biết cộng sản là cái gì đâu? Lão chỉ biết có ve vẻ vè ve. Nhưng đầu năm mới ấy, người ta tra khảo lão, quần áo rách bươm, be bét máu, mặt mày tan nát. Đến chiều thì lão tắt thở.

Đến nay đã mười năm rồi. Xã lão Rồng đang cải cách ruộng đất. Bà con vẫn còn đọc vè lão Rồng. Có tên ác bá trong vè lão còn sống, bà con đem ra xử tội. Người ta tiếc: “Nếu lão Rồng còn tới ngày nay”. Trước kia ghét, khinh sợ, bây giờ bà con thêm nhớ và yêu. Tuổi trẻ đi nhanh hơn tuổi già như thế. Từ lâu họ đã biết yêu cái lão thi sĩ của nhân dân kia.


Lê Đạt

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
là lá trên rừng, là cỏ dưới đất, là nước Biển Đông...
25.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Trần Dần, mỹ học khổ đau

Trần Dần mất ngày 17 tháng giêng năm 1997. Trong 40 năm, sau Nhân Văn, Trần Dần đã chỉ thấy những hòm bản thảo của mình: 2/3 bị tiêu tán, mục nát, 1/3 bị kết án chung thân trong trạng thái nằm. Vậy mà vẫn viết. Viết đều. Bởi ông cho rằng viết hay ghi là phương pháp duy nhất nói chuyện với mình khi không thể nói được với ai. Từ 1958, “ghi trở nên một hình phạt”, người thanh niên 32 tuổi ấy đã bị “đòn ngấm quá cuống tim rồi”.

Tác phẩm chịu chung số phận với con người, phần lớn đều chưa được in ra: gần 30 tập thơ, 3 cuốn tiểu thuyết, và không biết bao nhiêu bản thảo bị mối mọt.

Trần Dần sinh ngày 16 tháng 7 năm Bính Dần, tức ngày 23 tháng 8 năm 1926, trong một gia đình giàu có ở Nam Định. Đậu bằng thành chung rồi lên Hà Nội học đến tú tài. Trần Dần là bạn thân từ nhỏ với Vũ Hoàng Địch, em ruột Vũ Hoàng Chương. Trong không khí văn nghệ gia đình và bè bạn, ngay từ 1944, sau khi xong trung học, Trần Dần, đã cùng Vũ Hoàng Địch, Trần Mai Châu, Đinh Hùng... nghĩ đến việc cách tân Thơ Mới, chủ trương nhóm Dạ Đài, viết “Bản tuyên ngôn tượng trưng” ký tên ba người Trần Dần, Trần Mai Châu và Vũ Hoàng Địch, in trên giai phẩm Dạ Đài số 1, ra ngày 16/11/1946. Ngoài thơ, Dạ Đài còn có tiểu thuyết, truyện ngắn và bình luận. Vừa ra được số đầu, mới lên khuôn số thứ nhì thì chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, Trần Dần tham gia kháng chiến.

Đạo diễn Trần Vũ nhớ lại: ở Sơn La, năm 1946, Trần Dần làm công tác tuyên truyền cùng với Vũ Khiêu và Vũ Hoàng Địch. 1948, khi thành lập khu 14 ở Tây Bắc, Trần Dần cùng Vũ Khiêu, Vũ Hoàng Địch lên Tây Bắc. Một thời gian sau, khu 14 bị giải thể. Trần Dần tham gia quân đội, nhận công tác địch vận của trung đoàn Sơn La từ 1948 đến 1950.

Hồ Phương kể lại: “Ở nhóm văn nghệ Tây Bắc có Trần Thứ (nay là Trần Vũ), Trần Dần và Hoài Niệm... Tờ Sông Ðà của nhóm này cũng là một tờ báo được trình bày khá đẹp, nghiêng về sáng tác thơ văn. Hồi ấy Trần Dần hay làm thơ leo thang, bài thơ thường được trình bày khá kiểu cách. Dòng thì in chữ nhỏ, dòng lại in chữ to, thiên về hạng theo mốt.” (trích Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập II, nxb Tác Phẩm Mới, 1987, trang 140)

Sau kỳ học tập chính trị năm 1951, Trần Dần về Trung Ương, nhận công tác ở Cục Quân Huấn. Cuối năm 1953, chiến đấu ở mặt trận Điện Biên Phủ, cùng đội ngũ với Đỗ Nhuận và Tô Ngọc Vân, Trần Dần viết tiểu thuyết Người người lớp lớp.

Năm 1954, được cử đi Trung Quốc để viết bản dẫn giải bằng tiếng Việt cho phim Chiến thắng Điện Biên Phủ. Ông không ghi gì về chuyến đi này trong nhật ký.

Đầu năm 1955, trong quân đội manh nha sự phản đối đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng: Trần Dần, Tử Phác, cùng với sự hỗ trợ của Lê Đạt, Hoàng Cầm, một mặt lên tiếng phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, một mặt yêu cầu hạn chế sự can thiệp của Bộ Chính Trị vào lãnh vực văn hoá văn nghệ. Phong trào tiếp diễn với Giai Phẩm Mùa Xuân, xuất hiện tháng 3 năm 1956, đăng bài Nhất định thắng của Trần Dần. Trần Dần bị bắt, cứa cổ tự tử, nhưng không chết. Phong trào tiếp tục đến tháng giêng năm 1958 thì bị dập tắt hẳn.

Nhưng những chôn vùi thường đưa đến những hậu quả bất ngờ: như hoả sơn Vésuve thình lình chôn sống Pompéi trong một trận mưa tro đá. Nhưng 1700 năm sau, người ta đào lại các lớp địa tầng, “phục hồi” những xác người hoá thạch. Chính những xác hoá thạch đó đã cho biết họ bị ngọn lửa Vésuve bức tử như thế nào. Tại sao mà chết? Xác người hoá thạch ở Pompéi, 1700 năm sau, đã thuật lại cho hậu thế lịch sử cái chết của mình. Vésuve đâu có lường trước hậu quả khi nhúng tay vào tội ác? Vésuve đâu có ngờ rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người cũng tìm đủ mọi cách để “phục hồi” sự thật? Vésuve đâu nghĩ đến sự phản bội của thời gian: đáng lẽ những sự thật đã bị chà đạp, bóp méo, chôn vùi đến hàng ngàn năm phải tiêu tan, tro bụi, nào ngờ, chúng lại được chính thời gian đồng loã với con người, tìm cách soi tỏ sự thật như một thoả thuận nhân văn ngấm ngầm giữa quá khứ và hiện tại, giữa bây giờ và hậu thế.

Về Nhân Văn Giai Phẩm, có những sự việc đã bị chôn sống, tưởng rồi sẽ tan trong lòng đất. Có những sự thực đã bị bóp méo đến độ dị dạng. Trong hơn nửa thế kỷ, người ta đã quen sống với những quái thai dị dạng đó: những xuyên tạc, bôi nhọ được đề cao như những chân lý. Ngờ đâu, những con chữ trong hòm lại có ngày đứng dậy, thuật lại truyện mình. Tập Trần Dần ghi 1954-1960 là một trong những tư liệu hòm, tự khai, tự quật. Do nhà xuất bản Văn Nghệ tại California in năm 2001. Tác phẩm chìa ra những dòng chữ viết đầu tiên, để lấp những trang còn trắng về một thời kỳ văn học sử, còn chưa được biết, còn chưa được viết.

Trần Dần ghi, tức là Trần Dần viết nhật ký cho mình, ghi lại những ý nghĩ, sự kiện, đột hiện ra trong óc. Những điều mắt thấy tai nghe. Những câu chuyện bạn bè kể lại. Tất cả bộ mặt hàng ngày của đời sống “thời ấy”, vui có, buồn có, bực tức có, phẫn nộ có, lạc quan có.

Sự ghi ấy đến với chúng ta như thế nào, sau nửa thế kỷ? Nó cho biết một phần sự thật về thế giới đã bị chôn vùi, dĩ nhiên là dưới con mắt chủ quan của người ghi. Một sự chủ quan đầy ý nghĩa vì đây là những hàng nhật ký chứ không phải hồi ký. Đây là những ghi chép hàng ngày, tại chỗ, còn nóng hổi, chỉ để giúp trí nhớ của riêng mình, không có hậu ý cho người khác đọc. Mà dù có muốn người khác đọc, thì cũng không chắc có một ngày người ta sẽ đọc. Bị xếp trong hòm, nó còn mang tính cách trăn trối, trăn trối với mình, trăn trối với người, trăn trối với nghệ thuật. Vì không cốt yếu viết cho “người khác” đọc, cho nên nó không cần phải “làm đẹp” lên hoặc “làm xấu” đi, không phải giả đò tự phê phán mình để tỏ niềm trung thực, như một số hồi ký viết về thời kỳ này, cốt viết và in cho người khác đọc. Bởi thế, khi đọc Trần Dần ghi, tức là chúng ta đã xâm phạm vào đời tư cá nhân Trần Dần, vào chỗ thầm kín nhất của con người: vào những ý nghĩ riêng tư, nhiều khi thái quá, vào những sự thật trần truồng, nhiều khi không khoan nhượng, vào những sai lầm có thể có, đối với bất cứ ai. Đó là con dao hai lưỡi, cũng là lợi khí của văn học nằm trong tinh thần sáng tác của Trần Dần.

Tập Trần Dần ghi 1954-1960 gồm ba phần. Phần đầu là những suy nghĩ về sáng tạo. Phần thứ nhì chụp lại thời đấu tố. Phần thứ ba nghiêng về chân dung và cuộc sống con người trong ba năm kỷ luật.

Phần thứ nhất, ngắn nhưng sắc sảo, bộc lộ quan niệm thơ nói riêng và sáng tác nói chung của Trần Dần. Tuy viết từ thời trẻ, nhưng đã khái quát những suy nghĩ sâu sắc của một đời người, đời thơ, bao trùm những ý nghĩa triết lý và nghiệm sinh. Đó là một lối tuyên ngôn nghệ thuật phát xuất tự đáy lòng, với những trăn trở, vừa muốn tìm hiểu, vừa để xác định một trật tự cho riêng mình, nhưng chưa vỡ lẽ cái mình muốn xác định ấy là gì. Trần Dần viết: “... những hình ảnh thơ nóng bỏng, cháy như lửa, một hình ảnh ánh lên nhiều hình ảnh, hình ảnh nọ chống đối hình ảnh kia, hoà hợp với nhau, lôi kéo nhau trong một điệu nhảy ma quỷ... Đúng là: một cuộc sống chaotique, nhưng một cái chaos có harmonie của nó. Một điệu danse macabre có cái thần tiên của nó. Một cái hỗn độn có cái trật tự của nó. Và cái harmonie, cái thần tiên, cái trật tự đó là tuỳ theo tiêu chuẩn, tôi cho là: ý thích của tôi. Mà ý thích của tôi là theo tiêu chuẩn tối cao! Đó là sơ lược cái mơ ước ngày tôi 18, 19 tuổi.” (trang 35)

Đó là lời “tuyên ngôn” thơ, rất “hỗn độn”, mơ hồ, nhưng lại rất sát với thơ. Nếu so với những lời văn hoa Trần Dần viết trong bản “Tuyên ngôn tượng trưng” của nhóm Dạ Đài mười năm trước, nào những “Chúng tôi -một đoàn thất thổ- đã đầu thai nhằm lúc sao mờ” (rất Vũ Hoàng Chương), nào những “Chúng tôi đã nhìn lên Tinh đẩu và đã nhìn xuống Thế nhân”, nào những “Sụp đổ: lâu đài phong nguyệt; và mai một: ý tứ những thi nhân mò ánh trăng mà thác”... thì đúng là trong hoàn cảnh nào, các tuyên ngôn cũng vô dụng. Tuyên ngôn Dạ Đài trịnh trọng, khuôn sáo, không nói được gì, so với mấy trang đầu tập Trần Dần ghi 1954-1960.

Nói với mình, Trần Dần bỏ hẳn lối viết rườm rà, hoa mỹ, để hướng về chữ, chỉ có chữ, trần trụi chữ, sâu và thực.

*

Phê bình văn, thơ kháng chiến

Câu hỏi đầu tiên đến với người sáng tác là: viết như thế nào? Trần Dần không thoát ra ngoài thông lệ. Lúc ấy đang đánh nhau, có đòi hỏi phải viết về chiến tranh. Người ta bảo phải viết như thế này, thế kia. Còn anh? Là nhà văn, anh nghĩ gì? Anh viết như thế nào?

Trần Dần ghi: “Chúng ta thấy chúng ta vào khói ra lửa, sinh tử không sờn, chúng ta thấy chúng ta hành động ghê gớm lắm. Nhưng có điều buồn là chúng ta không thấy chúng ta! [...]

Chiến tranh rèn luyện. Chúng ta được nhiều điều. Nhưng [...] tôi nói nó là bộ xương. Chiến tranh làm chúng ta rắn xương rắn thịt, làm cho tâm hồn chúng ta có hình cốt, có cái khung rất tốt rất bền. Nhung bạn đừng lầm bảo rằng bộ xương đó là người, hình cốt và và cái khung là tâm hồn rồi đó. Nói vậy là một sự dối trá [...]

Cho nên bạn nói Chiến tranh là rèn luyện;- bạn cần nghĩ thêm Hoà Bình cũng rèn luyện, mà còn rèn luyện hơn là chiến tranh nữa [...]

Hoà Bình rồi, người ta mới có thể biết trong chiến tranh người ta đã mất mát và thu hoạch được những gì. [...] Tôi nói rằng chúng ta mất nhiều hơn. Tại vì tôi nghĩ tới chiến tranh và tội ác của nó. Và tại vì tôi so sánh những cái thu hoạch 9 năm chiến tranh vừa qua với những cái thu hoạch lớn hơn gấp bội nếu 9 năm qua là 9 năm kiến thiết Hoà Bình. [...] Vì thế tôi muốn viết nhiều, muốn viết những cái tôi chưa dám viết. Và tôi muốn viết không có kiểm duyệt. [...]

Tôi vừa viết xong cuốn Người người lớp lớp. Viết về chiến tranh ở Điện Biên Phủ đấy. Nhưng mà tôi đã chán rồi. Tại vì rằng tôi ít thấy sự thực của chiến tranh trong đó quá. Và vì rằng tôi thấy ít sự thực của bản thân trong đó quá. Chưa phải là chiến tranh và chưa phải là tôi. Cho nên tôi viết tới hơn 300 trang mà không thích bằng một bài thơ tôi cũng mới làm về chiến tranh: “Anh đã thấy” (mes douleurs) trên dưới có 6 trang! Vài trang thơ này tôi còn thấy chiến tranh nhiều hơn, và thấy tôi nhiều hơn 300 trang Người người lớp lớp.

[...] Tôi muốn tả những người chiến sĩ. Người rất già người rất trẻ. Người bần cố và người con địa chủ. Người con tư sản và người công nhân. Người học sinh và người không biết chữ. Người đã làm sư và người đi ăn cướp. Người đi buôn và người đã bị buôn. Người đã lừa lọc và người đã bị lừa lọc. [...] Người anh hùng và người dút dát. Người lấy súng bắn địch và người lại lấy súng tự thương. [...] Người thuần, người ngổ ngáo. Người chỉ biết phục tùng, người hay cãi bướng. Và đa số là ngại học tập,ngại nghe đả thông. Ngại nghe cán bộ nói nhiều. Ngại bị “nắm tư tưởng”. Nắm, nắm con cặc.

[...]

Tôi nghe người ta nói đừng viết cuộc sống telle qu’elle est (chú thích: cuộc sống như nó đang diễn ra) mà phải viết la vie telle qu’elle doit être! (cuộc sống như nó phải được diễn ra) - Tôi lại hiểu rằng: viết cuộc sống telle qu’elle est tức là viết cuộc sống telle qu’elle doit être.- Tôi hiểu rằng không có gì đẹp hơn, không có gì cao cả hơn, không có gì cộng sản hơn là: Sự Thực không tô điểm, Sự Thực trần truồng. Và cũng không có gì xấu hơn, không có gì yếu ớt hơn, phi cộng sản hơn là Sự Thực tô điểm, Sự Thực mặc áo hồng, áo xanh, áo hoa. Tôi nói rằng, dù áo hoa đó thích hợp, dù sự tô điểm đó là tô theo phương hướng thực của cuộc sống thực, thì cái áo đó và sự tô điểm đó vẫn cứ là không đáng tán thành. Cuộc sống cởi truồng, nó có ý nghĩa như những sự tô điểm và những bộ áo đẹp và lý tưởng nhất. Màu da của cuộc đời toute nue, đó là tất cả các bộ áo của trần gian rồi[...]

Chính vì vậy tôi muốn viết chiến tranh telle qu’elle est. 10 cây số máu. Xương phơi đầy đường. Người đáng sống thì chết. Kẻ đáng chết thì sống mãi. Tôi tưởng rằng, nếu mà nói giáo dục, thì không gì giáo dục hơn là sự thực ở trần. Chiến tranh cởi truồng là có thể giáo dục Chiến tranh, lại giáo dục cả Hoà Bình [...]

Cho nên tôi rất muốn viết về chiến tranh. Viết thật trần truồng. Không gì lớn hơn Sự Thực. Vì vậy cho nên không bao giờ tôi viết được Sự Thực[...] Nhưng mà cũng không bao giờ tôi lại không muốn tả cho đúng Sự Thực.[...]” (trích những dòng ghi từ 16/9 đến 1/10/54, trang 43-48).

Lời ghi trần trụi trên đây là một tuyên ngôn cởi truồng về mục đích của văn học, về nhân cách của nhà văn. Suốt cuộc đời, Trần Dần đã tôn trọng nó: ông đã ghi lại cuộc sống của mình, của những người xung quanh, bằng trái tim, một trái tim dù bị dìm dẫm, bằm vặp, nhầu nát nhưng vẫn giữ tròn nhiệm vụ lọc máu để nuôi sống con người.


24/12/1954, đêm Noël, Trần Dần ghi:

“Bước quanh bờ Hồ. Trời tôi tối. Còn vẳng tiếng hát micro nhà thờ buông trầm trầm. Hai thằng đi. Tôi và Lê Đạt. Buồn quá. Đây là những lúc người tôi hẫng lắm. Rỗng lắm. Tôi còn đầy dư vị những câu chuyện trao đổi đêm nay về chính sách văn nghệ. Dư vị chua, đắng, nhạt thếch.

Xem bài thơ “Đại hội văn công” của Dương Chi trên báo Thời Mới. Tôi nhớ lại nhiều bài thơ kháng chiến của anh em kháng chiến. Ý tứ, điệu nhịp. Tôi có ý nghĩ so sánh. Thấy nó na ná nhau quá. Thử đào sâu hơn, tôi thấy phương pháp thơ của Dương Chi không khác là bao nhiêu với phương pháp thơ của nhiều anh em kháng chiến(!) Tôi còn muốn nói là giống nhau nữa. Phương pháp thơ gì? Tôi cho rằng phương pháp thơ đó, căn bản có mấy điểm:

1) một nội dung chính trị chưa thấm, chưa nhuyễn tới mức không còn là chính trị đơn thuần nữa;

2) trộn vào nội dung chính trị đó, một vài cái gì ươn ướt một tí! Ví dụ “đại hội văn công” thì trộn vào:tình đất nước, xuôi ngược Mán, Thổ, Mường... Nam Bắc... bốn phương về đây tụ hội. Và một vài cái ánh đèn... con mắt trái tim rung v.v... [...]

3) đem cái đó đặt thành vần điệu. Kỹ thuật là xem các thể thơ 4, 5, 6, 7 chữ. Thi thoảng hạ một câu lục bát nghe có vẻ mê ly. Tôi thường nghĩ đó là một ngón “thơ chim gái”. Phụ nữ nghe phải sít soa. Và cả quần chúng khi đó, lúc đó, cũng phải rít lên. Nhưng về sau không còn ai nhớ nó nữa.

Vì vậy tôi coi phương pháp thơ Dương Chi trong bài đó giống phương pháp của anh em kháng chiến. Theo ý tôi là một phương pháp thơ rất hỏng. Không có gì đáng gọi là cách mạng cả. Tôi muốn nói: “Các anh đừng có lên mặt kháng chiến. Đừng vênh váo mình tiến bộ. Đừng khinh anh em trong Hà Nội lạc hậu! Về cơ bản, các anh không hơn gì anh em Hà Nội đâu. [...] Ta chưa có cách mạng thi ca”.

Tôi nhớ một hôm tôi đọc chơi chơi ví dụ: “hồn lâng lâng mơ máu giặc nồng say”. Nhiều anh em cười. Tôi đố: thơ ở đâu nào? Có anh đoán:- Một tờ báo Hà Nội nào hẳn? Tôi nói thực: Đó là tập Tiếng hát của nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân. Thơ kháng chiến đấy!” (trang 65- 66).

Trần Dần ghi những điều mà mọi người thấy, nhưng không dám nói ra: Một người chuyên trị thơ kháng chiến như Tố Hữu, nếu ông chịu khó đọc lại thơ ông, thì ông sẽ thấy Trần Dần nói đúng, thơ ông đầy những câu văn hoa ngớ ngẩn, lẩy Kiều một tý, ngược xuôi Mán Mường một tý, ươn ướt một tý, ca dao một tý, rất đúng ngữ điệu “chim gái”:

Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.
(trích Việt bắc)
Bài Bầm ơi, vào loại rất hay của Tố Hữu cũng là một bài lẩy ca dao:
Bầm ra ruộng cấy bầm run,
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.
Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu.
Cho nên khi bình thơ Tố Hữu, Trần Dần đã phê một câu chí lý: “Chỗ nào hay thì lại là lặp lại Nguyễn Du, Tản Đà, ca dao... Tố Hữu chưa đem tới một cách nhìn mới mẻ gì.”

Nhưng cái hoạ của thơ kháng chiến là không chỉ có Tố Hữu làm thơ như thế mà hầu hết các nhà thơ nổi tiếng, khi xung phong yêu nước, họ đều nặn ra những câu thơ ngớ ngẩn như vậy. Điều này rất khác với các nhạc sĩ. Tôi nhớ một hôm, đi chơi xa với nhà thơ Lê Đạt, trong xe, tôi để cassette nhạc kháng chiến của Phạm Duy. Không nhớ rõ là khi nghe đến bài nào, Quê nghèo, Về miền Trung hay Bà mẹ Gio Linh... Lê Đạt buột miệng: “Phải yêu nước như “nó” mới làm được nhạc như thế”. Nguyễn Huy Thiệp khi nghe Thái Thanh hát Bà mẹ Gio Linh cũng bảo: “Nghe nổi cả da gà!”. Câu nói của Lê Đạt, Nguyễn Huy Thiệp làm tôi suy nghĩ nhiều về lòng yêu nước, về thơ và nhạc kháng chiến: quả là thơ kháng chiến “yếu” hơn nhạc kháng chiến rất nhiều. Có bài thơ kháng chiến nào làm cho chúng ta “nổi da gà” như Bà mẹ Gio Linh. Tại sao? Vì các nhà thơ không có “gien” yêu nước? Hay vì làm thơ yêu nước không dễ, có yêu nước thật, may ra thơ mới hay. Có rút ruột mình ra, lên đồng với chữ như Hoàng Cầm, mới làm được Bên kia sông Đuống. Có mất mát như Hữu Loan, mới làm được Màu tím hoa sim? Còn tất cả những “giả đò”, đều ngớ ngẩn và buồn cười, nhất là giả đò yêu nước. Chúng ta thử đọc một bài thơ yêu nước của Xuân Diệu:
Sớm nay xa cách làng Còng
Bước đi một bước trong lòng mến yêu
Làng Còng vất vả, gieo neo
Tô đong, thóc rẽ, bao nhiêu căm thù.
Nông dân lao động bốn mùa
Trồng bông, bón mía, lại vừa tỉa ngô.
Mùa thường ngập lụt chẳng no
Chiêm thời thỉnh thoảng mất khô một kỳ.
Tháng ba hái củi nặng nề
Tháng mười kéo một đêm khuya thức ròng.
(trích bài Tặng làng Còng)
Màu mè hơn Tố Hữu, Xuân Diệu tìm cách trộn trạo hổ lốn các yếu tố ca dao, lao động, nông dân, canh tác... vào cho đủ lệ bộ mũ mã cân đai, có thể rất hợp khẩu vị lãnh đạo, nhưng không làm rung động mảy may “lòng người”. Bài này thuộc loại tạm được, nhưng Xuân Diệu còn bao bài thơ khẩu hiệu không thể nào đọc được, ví dụ:
Người gánh gánh của chúng tôi: là Đảng
Người gánh gánh với chúng ta: là Đảng
Người gánh ta, ta gánh Người: là Đảng
Người gánh đất, Người gánh trời: là Đảng.
(trích bài Gánh)
Tóm lại, hầu như không một nhà thơ nào, thời ấy, theo kháng chiến, (tự nguyện hay bắt buộc) làm thơ ca tụng, mà không nặn ra những bài văn vần, nửa vè, nửa khẩu hiệu, tạo nên một vũ trụ quái thai thơ. Vũ Hoàng Chương cũng có những câu:
Chen tiếng hoan hô này khẩu hiệu
Muôn năm chủ tịch Hồ Chí Minh.
Muôn năm người lính già tiêu biểu
Vì giang sơn quyết bỏ gia đình
(trích bài Nhớ về Hà Nội vàng son)
Đó là bi kịch chung của thơ văn kháng chiến mà Trần Dần đã cô đọng lại trong vài hàng phê bình thẳng thắn và xác thực.

Nhưng điều tệ hại là chính cái sườn nửa vè, nửa khẩu hiệu ấy lại trở thành mẫu mực cho thơ văn suốt một thời dài sau khi kháng chiến chấm dứt, khi đã đánh “tuyệt nọc” Nhân Văn.

Phần cốt lõi trong nhật ký Trần Dần là thân phận con người. Con người trong cải cách ruộng đất và đấu tố, con người sau Nhân Văn. Trần Dần có đấy. Trần Dần ghi. Trước đây, chúng ta đã được đọc nhiều cuốn tiểu thuyết hay viết về thời kỳ cải cách ruộng đất. Nhiều cách viết về thân phận con người, mô tả những khổ, đau, sống, chết... trong cải cách ruộng đất. Trần Dần không viết về cải cách ruộng đất, cũng không viết về tố khổ, mà ông ghi, ông chụp hình tố khổ bằng chữ. Nghệ thuật của ông nằm ở chỗ: không làm nghệ thuật, mà chụp nó. Như thể vô tình ông đã tạo ra cái mà ông gọi là Esthétique de la douleur.

Trong lúc nói chuyện về nghệ thuật với Lê Đạt và Đặng Đình Hưng, có lần Trần Dần bảo: “cái esthétique của tôi, nó là esthétique de la douleur” (mỹ học khổ đau) (trang 345). Nhưng ông có ý phê bình cái mỹ học khổ đau ấy là của thế kỷ XIX. Muốn biết cái “mỹ học khổ đau” ấy như thế nào, thì cứ đọc những hàng Trần Dần ghi. Ông ghi như thế nào? Ghi ngắn, gọn, những điều chính yếu. Bỏ hết những chữ thừa, tác giả xoá mình sau ống kính chữ. Chỉ có chữ. Vắn tắt như tốc ký. Chỉ có cách ấy mới lọc được nước cốt của nỗi đau.

Lối viết ấy có thể xem như một cách chắt hiện thực, lọc nước cốt các loại hiện thực, để chỉ lấy phần cô đọng nhất. Đó là hiện thực Trần Dần. Đó là mỹ học khổ đau.

“Thụ chém xong, Hoành, Sang nhảy vào đè ông Tuân xuống, thọc con dao nhọn vào vết chém đâm sâu vào thái dương, ông Tuân ọc ọc rồi chết. Hoành, Sang khiêng xuống bếp, treo cổ. Hoành chạy đi. Sang chạy ra cản nhân dân, xem giấy không cho vào”. (trang 118)

Những khuôn mặt, những tình huống, những cảnh, những lời, trổi lên qua vài nét phác, đôi khi là khuôn mặt địa chủ, đôi khi là khuôn mặt “nhân dân”... đôi khi cả một khung cảnh. Đôi khi chẳng có gì cả, trần trụi hai ba chữ, cụt lủn, trống không, như những hàng ghi đầu năm 56:

1/1 Thẩm tra chỗ dựa.

Tối họp: Tội ác địa chủ. Bảo vệ đường sắt.

3/1 Nhà Thu.

Tối, trấn áp địa chủ. Họp du kích trao đổi vũ khí. Họp thanh niên, thiếu nhi.

8/1 Điểm tố khổ Nông Hội.

9/1 Nhà Thu.

Thông tin kẻ khẩu hiệu: Có khổ tố khổ. Đánh đổ địa chủ cường hào đại gian đại ác. Hoan nghênh đại hội nhân dân. Sáng suốt chọn người vào thẩm phán xã.

Tố khổ Nông Hội.

1/1 Nhà Thu.

Tối: Công thẩm Hoàn (Nguyễn văn Nga).

12/1 Sáng: đấu Hoàn. (trang 167).

Lối tốc ký: sợ không viết ngay sẽ quên mất, hình ảnh sẽ biến đi, bởi vậy phải ghi hoả tốc. Cảnh đấu Nguyễn Văn Nga được chụp khá đầy đủ, gồm 17 màn, có 17 nhân vật thay phiên nhau lên đàn đấu và đây là hai màn đầu, vẫn lối tốc ký, vắn nhất, tắt nhất:

Đấu Nguyễn văn Nga

1. Anh Tụng lên.

- Mày mất thóc, em mày lấy, mày vu cho tao mày đánh tao.

- Nga, mày có đánh anh Tụng không?

- Không.

Đả đảo...

- Mày có đánh không?

- Có.

Đả đảo thái độ ngoan cố...

- Mày ngoảnh mặt lên đây. Khoanh tay lại. Bây giờ mày đã nhận mày kể lại đi.

- Thưa quý toà con mất thóc về hỏi, chả nhẽ ở nhà mất còn có ai, anh Tụng...

- Anh với mày à?

- Ông Tụng, con hỏi ông Tụng, xong có đánh.

- Nga! Đánh thế nào? Hỏi! Cho phép mày quay về ông bà nhân dân mà nói về việc đánh anh Tụng. Phải thưa ông bà.

- Thưa ông bà nhân dân, con mất thóc, con đánh anh Tụng à ông Tụng. Con trói vào cột.

- Mày có treo anh Tụng lên không?

- Con có treo ông Tụng lên ạ...

Đả đảo...

- Nga! Hỏi! Về sau thóc ai lấy?

- Con không biết ạ...

Kết luận:- Chúng ta nhân dân thấy bộ mặt ngoan cố tên địa chủ. Nó đã nhận là thóc con cháu nó lấy mà nó đổ cho anh Tụng, nó đánh.

2. Ông Sử

- Mày đánh tao nát cả người cả ngợm ra.

- Con chỉ đánh nát người thôi ạ. Không đánh vào ngợm ạ.

- Tao đói quá tao đi bẻ mấy bắp ngô. Tao lấy của nhân dân chứ có lấy của nhà mày đâu? Sao mày lột quần tao ra, chắp 10 roi đánh!

- Mày có đánh ông Sử không?

- Có.

- Mày đánh bằng gì?

- Con đánh bằng roi tre ạ. Ông ấy ăn cắp ngô, con đi tuần thì con đánh ông ấy chảy máu đít. (trang 135-136).

Màn đấu Nguyễn Văn Nga tiếp tục với các nhân vật khác: Em anh Niệm, Chị Vinh, Bà Chính, Ông Thìn, ông Dăm lần lượt lên đàn tố.

...

Ở trang 172, Trần Dần ghi:

Viết 5 câu chuyện tình, không được in, đốt đi 2, còn 3. [...]

Em ạ, chính sách quản lý hộ khẩu là để đánh địch, nhưng em coi chừng, nó lại đánh vào tình yêu của chúng ta [...]

- Đạo lý không có tương lai.

- Viết quyển “Đời làm lính”, xong lại đốt đi. Vì nó đụng đến nhiều thứ quá.

- Nhật ký cho D. “Tác phẩm xuất bản cho một người.”

Hiện thực Trần Dần là một hiện thực tốc ký của mỹ học khổ đau. Không bình. Không luận. Để sự thực trần truồng nói. Là “tác phẩm viết cho một người”, “xuất bản cho một người”, tác giả lọc ra những nét độc đáo nhất của một chân dung, một sự kiện, một hiện tượng để ghi lên giấy, tạc vào óc người, người duy nhất viết và đọc: Trần Dần.

Mỗi hiện tượng, mỗi tình huống hay chân dung phác ra, bằng vài câu, vài dòng. Kẻ đọc “lén”-như chúng ta ngày nay- nếu giầu tưởng tượng, có thể xây dựng nên một tác phẩm văn học. Trần Dần tạo ra nguyên liệu, trong trạng thái thô nhám, ròng, như vàng ròng, chưa pha tạp, chế biến, và mặc “ta” xoay sở:

Chị Chuột chửa hoang.

6 tháng bụng to rồi. Làng mới đem ra điếm cho tuần gác, cùm, trói. Nuôi cho ăn cho đẻ xong xuôi. Trói hai ngón tay, hai ngón chân, lấy xe điếu lăn chân, rứt lông cho đau. Tra hỏi: chửa với ai. Chị Chuột khai chửa với phó Riếm.

Vào bắt bò nhà phó Riếm. Phó Riếm không chịu, xin thử máu. Bát nước lã: Giọt máu phó Riếm với giọt máu đứa bé không quyện vào nhau. Vậy là không phải.

Lại tra, lăn xe điếu. Chuột khai ngủ với Bạch.

Bạch đẹp trai, đàn sáo. Vợ cũng đẹp. Bạch nhận. Làng ăn vạ. Bắt bò, 2 lợn, đong thóc, cả làng ăn. Sạt nghiệp. (trang 139).

Với “vụ việc” chị Chuột như vậy, “ta” có thể đọc như thế nào? Điều tra những gì nằm ngoài các con chữ, là việc của ta. Và “ta” cũng có thể dựng một truyện ngắn, như thể tác giả hào phóng muốn cung cấp những chất liệu đầu tiên cho ai muốn dựng nên một tác phẩm văn học. Cách viết gọi óc tưởng tượng của con người, nhưng rất có thể cũng là cách kêu cứu SOS, ngắn gọn, của một mớ chữ đang bị chôn sống trong hòm: Chuyện Nhân Văn, chuyện cải tạo sau Nhân Văn, cũng nằm trong lối tốc ký ấy:

“9/9

[...]Chiều. Nắng càng tấn công gay gắt. Hàng tấn bom Napalm ánh sáng thiêu đốt đất cát nóng bỏng. 2, 3 giờ, gió máy xem chừng yếu thế, đến chiều thì tắt gió hoàn toàn! Suốt cả cái tháng bẩy này, mùa hạ mùa thu giằng co nhau. Sống trong cái thế cầm cự ấy, vạn vật mệt nhoài... Sao mà tôi ghét cái ách thống trị gắt gao của mùa hè như vậy?

- Nắng này, anh ra đào gốc, không chịu nổi đâu! Nó hắt vào mặt, rát rạt! Anh Thuần bảo tôi... Thôi anh ở nhà(!)... Anh xuống chuồng bò cào phân! Mát mà! Có được không?

[...]

Đêm, tôi thiếp đi trong mộng ác. Tay mưng, đau nhất là ở những chỗ đã thành chai mà lại mưng tái lại. Mọi bắp thịt suốt đêm lọc acide, và chôn cất những tế bào chết vì lao lực quá sức... Lục đục suốt đêm vậy trong toàn bộ xác thịt tôi.

[...]

10/9

[...] Gió khiếp quá. Hàng sư đoàn gió bấc trèo qua núi lúc nào đổ xuống đồng cỏ. Suốt buổi sáng, mùa hè bị đánh tan nát. Nắng bị gió may thổi mát đi, nguội lửa.

Gió tốc mái, rứt mấy lá gồi chuồng bò. Cây cành bị túm tóc, vật vã kêu gào, gió vẫn không tha. Các tàu chuối bị tước xơ ra. Có tàu rách mướp, trông hệt một con rết xanh khổng lồ, hàng nghìn chân xanh ngọ ngoạy điên cuồng, cào trong không khí, cái đuôi nó bị giữ rịt ở thân, nó lồng lộn ngang ngửa, không thoát [...]

Các nón lá bị gió nó hất chụp mặt. Nó kéo ra sau, quai nón xiết cổ như thừng thắt cổ! Bụi phả vào mắt chúng tôi, chưa dụi xong, gió đã ném thêm. Bọn tôi đào gốc, đã nhọc, còn bị lũ gió may kia trêu chọc. Nó đùa dai chứ... Có lúc tôi cuốc đất, mắt nhắm tịt, một anh mù làm việc.” (đầu tháng 9, 1958, trang 334-335)

Tháng 12 năm 1959, Trần Dần thốt lên: “Chao ôi! Con đường để đi tới chỗ “Đúng” mới nhiều máu làm sao.” Con người nhất định thắng ấy, đã thua, đã hàng, chấp nhận ly khai những lý tưởng ngày trước của mình.

10-12-59 Trần Dần ghi:

“Sớm mai toà án xử Thuỵ An gián điệp và Nguyễn Hữu Đang phá hại, cả hai: hiện hành. Tôi không có giấy gọi cho dự, có lẽ vì không có vị trí gì ở đó. Không phải là nhân chứng, cũng không phải là đại biểu của nhân dân...

Người có một cái gì văng vắng. Tôi đã có đứng với nhóm Đang cầm đầu. Tôi đã ly khai với “lý tưởng” đó. Cả khi đứng ở đó, cả khi ly khai, cả bây giờ, tôi vẫn cứ rớm máu. Chao ơi! Con đường để đi đến chỗ “Đúng” mới nhiều máu làm sao? Tương lai có để dành cho tôi nhát dao nào nữa không?

Đang đã nhìn thấy cái sai lớn của Đang chưa?[...].

Ngoài trời mưa bụi. Rét xoàng. Không có gió. Đôi lúc vài tiếng chuông xe đạp. Năm nay rét muộn. Đang ra toà cuối năm. Tôi cũng không thể nào nhởn nhơ với sự kiện này. Chao ôi! Con đường để đi tới chỗ “Đúng” mới nhiều máu làm sao!” (trang 376)

1958, “Ghi trở nên một hình phạt”. Nhưng vẫn ghi. Cuốn sổ 1958 ghi lại con đường nhiều người muốn ngoi lên để đi đến chỗ “Đúng”. Ai cũng muốn tìm một đường “máu” để thoát thân: biết đâu Đảng chả đoái thương mà nghĩ lại? Phương tiện nào cũng tốt kể cả “khai”. Cả “tố”. Bao nhiêu khuôn mặt đã bước trên con đường “nhiều máu “ấy. Trần Dần ghi. Bao nhiêu khuôn mặt đã đạt được sự “Đúng” ấy. Trần Dần ghi. Bao nhiêu khuôn mặt đã vo ve sự “Đúng” ấy. Trần Dần ghi. Bao nhiêu khuôn mặt đã “Sai”. Trần Dần vẫn ghi. Cả đúng lẫn sai đều lầm than, đều dần đi tới chỗ tha hoá. Họ tan tác cả. Chính quyền đã thành công trong sự “giẻ rách hoá “con người, như lời Lê Đạt.

Ngày 16/4/1958, Trần Dần ghi:

“Hiện nay Nguyễn Hữu Đang, Thuỵ An, Minh Đức đã bị bắt, chẳng bao lâu sẽ ra toà. Báo chí vẫn tiếp tục diệt đánh Nhân Văn Bộ 6 Giai Phẩm Mùa Xuân (tức là 6 người: Hoàng Cầm, Văn Cao, Lê Đạt, Trần Dần, Sỹ Ngọc, Tử Phác). Bộ 6 đã buông nhau ra. Bọn Nhân Văn Giai Phẩm cũng ô rơ voa nhau hết [...] Sỹ Ngọc đóng cửa, miễn tiếp khách.

Bản thân tôi, do chỗ đã tự giác đình bản tư tưởng thù địch (thứ tự giác kết quả của áp lực...) nên mọi mặt khác, tôi cũng đình bản cả giao du, đình bản cả việc viết lách.

Có nên đi gặp những đồng chí lãnh đạo để hỏi những việc cần phải làm không? Đi thì lại sợ bị hiểu lầm. Nhưng nếu ngồi nhà, tiêu cực đợi, có khi còn bị hiểu lầm gấp bội. [...]

Bọn Đang - Minh Đức - Thuỵ An thân thì bị cầm tù, tội ác thì đem bêu đầu trên báo chí. Vai trò của bọn chúng trong các vụ phá hoại 3 năm đang được vạch trần.

Phan Khôi thì đóng cửa, nằm khàn, không đọc báo.

Trương Tửu, Trần Đức Thảo làm gì?

Còn cả loại B chúng tôi hiện ra sao? Làm gì?

Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt đang tiếp tục kiểm thảo ở cơ quan, cùng với những Quang Dũng, Trần Lê Văn, v.v...

Chúng tôi đi sâu vào kiểm điểm sáng tác hơn nữa. Kiểm điểm sáng tác cho sâu mới thật là khó sao! Cứ như phải rứt bỏ một mảng thịt của mình.” (trích trang 244, 245)

“Tôi chịu cái hình phạt ấy, nhẫn nại và đau khổ. Hình phạt của một người bị bung dừ [...] Tôi vừa là một tội nhân, vừa phải cố tách mình ra, làm một đao phủ thủ, hành hạ cái chủ nghĩa xét lại có thực trong tôi và đám Nhân Văn.” (trang 260)

Phải nhận tội, phải cắt bỏ những mảng thịt của mình, phải tự chửi rủa mình, phải tìm gặp lãnh đạo, phải tố cáo bạn bè để xin một chút ơn huệ thừa, nhưng rồi cũng không ai thoát được guồng máy, không ai tránh khỏi bị ninh rừ.

Thành công lớn nhất của guồng máy là đã đánh vào những yếu tố thiêng liêng nhất của con người, đánh vào tình bạn, tình người, đánh tan tác hết.

Những người “Nhân Văn” không chết, nhưng họ bị rút máu, rút gân, rút dần sinh lực. Họ đều rời rã, đều muốn đầu hàng, nhiều người đã đầu hàng. Họ muốn được lãnh đạo thương xót, họ muốn được lãnh đạo đoái thương. Họ đã xuống đến đáy vực thẳm, họ chịu hết nổi. Họ sẵn sàng “chút lòng trinh bạch từ nay xin chừa” nhưng người ta vẫn lạnh lùng quay đi. Người ta vẫn không cho ngoi lên. Cái phận người nhỏ nhoi. Cái phận người Nhân Văn phải đi vài sa lầy, phải lún xuống, phải chịu nhận cái thời không nhân văn của dân tộc mình. Câm và điếc. Như là đã chết. Và điều đó chỉ có mỹ học khổ đau của Trần Dần mới viết nên được.


Thuỵ Khuê

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Vì chúng ta thật là khác biệt
Tựa như hai giọt nước trong veo
(W. Szymborska)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Phố Dần trong Cổng tỉnh

Dạ khúc trường thiên Cổng tỉnh là một tập tiểu thuyết thơ, viết trong khoảng 59-60, cùng thời với ba tập thơ khác: Sắc lệnh, Con tầu xã hội17 tình ca. Cả ba đều chưa xuất bản. 59-60 cũng là năm Hoàng Cầm sáng tác Về Kinh Bắc.

Cổng tỉnh được nhà xuất bản Hội Nhà Văn in năm 1994, 15 năm sau khi viết xong.

Thời điểm 58-60 là những năm kinh hoàng, sau Nhân Văn. Không khí đen tối dội lại trong Về Kinh BắcCổng tỉnh.

Cả Trần Dần lẫn Hoàng Cầm đều lấy đêm làm phông cho hai khúc ca bi tráng của mình.

Về Kinh Bắc bắt đầu bằng 5 đêm: đêm Thổ, đêm Kim, đêm Mộc, đêm Thuỷ và đêm Hoả. Hoàng Cầm về Kinh Bắc, về quê cha đất tổ, lậy mẹ, mách mẹ những kinh hoàng đàn áp:

Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc
Con không cười, con thoảng nhớ thoảng quên.
Không chỗ dung thân, Trần Dần về Nam Ðịnh, về “phố mẹ”, nhờ ký ức mở cửa cổng tỉnh, mở gan ruột mình, trở về “tảo mộ xó quê” trong nhà tù tỉnh, bằng những lời thơ mà ông gọi là dạ khúc. Dạ khúc về những đêm giữa ban ngày trong ông và trong lòng tỉnh.

Cổng tỉnh, như lời ghi dưới tựa, là tập thơ tiểu thuyết và là dạ khúc trường thiên.

Hai chữ dạ khúc vừa nói lên tính chất tâm huyết gan ruột của bài ca, dạ như lòng dạ. Dạ cũng là đêm, bài ca về cõi đêm của tác giả và những phận người nằm trong cổng tỉnh.

Cổng tỉnh là một bản trường ca, một cuốn tiểu thuyết hiện thực xã hội, viết về một thời trong lịch sử cận đại: thời Pháp thuộc và Cách mạng kháng chiến. Với những phận người, phận vện, phận tỉnh, phận phố... khi vươn lên dũng tráng, bất khuất, như những anh hùng, khi lếch thếch kéo nhau đi như lũ ăn mày, sinh ra trong đói khát, dốt nát, bị trị, hết thực dân Pháp đến phát-xít Nhật. Cảnh quá khứ Pháp thuộc, phản ánh hồi quang hiện tại 59-60: Bị trị hay độc lập: thành phố vẫn bị cầm tù. Một chữ cổng đã nói lên kiếp tù trong tỉnh: Chỉ đề lao mới cần cổng, chứ tỉnh nào lại có cổng, như tỉnh Nam của Trần Dần thời 59-60.

Trang đầu mở ra với lời khai từ, nhà thơ gọi là Khai tù, như lời khai của những chữ trong tù, như lời đối thoại của một người đi đêm thì thầm cùng kỷ niệm:
Kỷ niệm! Đưa tôi về chốn cũ
Đừng ngại mây che từng cây số buồn rầu
Đừng ngại mở trong lòng vài khung cửa nhớ thương.
Và cứ thế, nhà thơ và kỷ niệm âm thầm dẫn nhau đi, trong đêm, qua cổng tỉnh, trở về đất cũ, chỗ nào không nhớ rõ, nhà thơ lại hỏi kỷ niệm:
Đây có phải bụi Cửa Trường?
Một cuống nhau chôn trạnh lòng phố mẹ!...
Đây có phải đường Hàng Song xanh lấm tấm sao chiều?
Và cứ thế, người và kỷ niệm lủi thủi rủ nhau đi, về sâu, về xa, xuyên thời gian, về lại tuổi trẻ:
16 tuổi!!!
Đây là đêm
Ngoài cổng đề lao tim... sao mọc hững hờ.
Đây là ngày
thời gian lặp đi lặp lại những chiều vàng vọt như nhau.
Và cứ thế, vừa đi, nhà thơ vừa tâm sự với kỷ niệm:
Tôi kiểm thảo bản thân cùng một thời đại buồn rầu
Đêm xuống ướt mui rồi
Sông khuya tì tũm vỗ
Đi thôi! Kỷ niệm!
Có lẽ xa kia là phố tôi sinh
Có sương sớm đọng trên đèn muộn
Tù và thơ ơi!
Dạ khúc khởi đầu.
Cuốn tiểu thuyết gồm hai phần, phần thứ nhất tên là Đêm và phần hai Càng đêm.

Chuyến đi về không gian cũ: thành Nam, ngược thời gian xưa: tuổi trẻ. Chủ đích ngược thời gian và không gian, nhập vào chuyến đi hôm nay của Trần Dần sau Nhân Văn. Cùng đi, là những kinh hoàng hôm qua, gặp những đen tối hãm hại hôm nay, như những bóng ma không tuổi, vượt ngày tháng, đeo đuổi mãi con người.

Nếu Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm bắt đầu bằng đêm Thổ, đêm Kim, đêm Mộc, đêm Thuỷ và đêm Hoả. Năm bề bốn hướng đều đêm. Thì Trần Dần về thành Nam hôm ấy, cũng trong đêm, càng đi, càng đêm:
Gió thổi kèm ma mưa thui lòng ngõ hẹp.
ò... ò đêm đi như một cỗ quan tài.
(trang 11)
Tượng chúa Jê-xu búa gõ tầm tầm
Gió đánh hàng bàng, lá chết chạy vòng quanh
(trang 12)
Quá khứ và hiện tại hoà nhau trong không khí tha ma: Thành Nam dưới thời Pháp thuộc chôn trong hiện tại 59-60 của Trần Dần:
Cổng tỉnh! Người đi nhoà nhoà Cổng tỉnh!
Lá rắc vàng hồ
Phố héo người đi
Là mùa đi!
Người đi manh chiếu rách
Người đi tay áo quệt đôi mày
Năm tàn rồi... Ai?
Ai bắt người đi nhoà nhoà Cổng tỉnh
Ai?
Ai treo cổ rặng đèn trên dãy phố bồ côi
(trang 50)
Thành Nam lâm nạm: “Phố cụt bị thương... phố mù khắc khoải” (trang 36),

Thành Nam tự tử: “Phố thắt cổ có ngọn đèn hoang. Phố hoang có ngọn đèn thắt cổ”. (trang 18)

Thành Nam tàn tạ: “Phố úa. Đừng về phố úa” (trang 49)

Thành phố âm ty, đi đâu cũng lạc, cũng thấy xoã tóc:
Đi đâu? Chớ lạc thành quách bàn cờ.
Xoà xoã tóc hàng cây.
(trang 18)
Thành phố phòng nhì, thành phố công an, mật vụ, khắp nẻo bị chặn đường:
Đứng lại! Ai qua phố ngang
(trang 18)
Bóng tối đầy hàm răng cảnh sát
Ðầu phố ngoạm một người
(trang 21)
Thành phố không lối thoát, ngõ cụt, người đâm:
Phố cụt đâm vào phố cụt
Tôi đâm ngang phố Hàng Đồng đâm bổ xuống bờ sông
(trang 30)
Thành phố không chỗ dung thân:
Tôi còn một mình kháng cự với mông mênh
Tôi đứng thẳng trụ người đêm ngã bẩy
(trang 17)
Thành phố ăn mày:
Phố chéo chênh chênh. Ăn mày gặp ăn mày
Lườm nhau - mắt vải điều cay cay chớp nắng
(trang 12)
Thành phố bán mình:
Phố nịt vú-phố rơi voan
Phố nào thơm dạ hợp
(trang 23)
Thành phố, đói, Ất Dậu: con vện vàng hấp hối, kéo chiếc xe chở nắm xương khô của chủ, đi lần hồi, hành khất từng nhà:
Chiếc xe lăn thừng nâu... con vàng rũ cổ
Một nắm xương khô lọc lọc lòng đường.

Vàng con ơi! Hãy kéo thoai thoải hoàng hôn
Xe đi run run từng bục cửa
Hãy chờ! Nếu quả có lòng nhân.
Heo may dù úa phố
(trang 45)
Rồi một chiều đông con vàng kiệt sức, bỏ chủ ra đi. Người hành khất già quờ quạng:
Ai?
Ai kẻ chôn con?
Cất mình chẳng nổi.
Ngã vật bên lề đường
Nấc rồi lại nấc
Vàng con ơi! Cho bố khất!
Tay run quờ lá rỉ
Đắp chiếu đầy xe
Con bằng lòng vậy
Kiếp sau báo đáp đồng lần
Cha lại kéo xe con.
(trang 46)
Cổng tỉnh là một liên khúc bi đát: đói, đau, cùm, xích... vượt thời gian theo đuổi mãi con người. Cổng tỉnh là những chân dung hôm qua và hôm nay, chập vào nhau như hai giọt nước: chân dung người, chân dung chó, chân dung phố, chân dung gió, chân dung mưa, chân dung bom, chân dung thành phố, chân dung lãnh tụ:
Đã có ta suy nghĩ hộ các ngươi!
Thuỷ bộ không quân!
Mệnh lệnh!
Các ngươi sẽ đi xéo nát các thành quách
Tắt Bách! Tắt Be to (Beetho)! Tắt mọi thứ nhạc.
Chỉ để gầm gừ họng sắt nhạc ca nông
Ta muốn nghe các dân tộc rống lên như con bò bị búa nện
Các ngươi phải luôn tay chọc tiết các kinh thành
Các ngươi sẽ đi dạy dỗ các dân tộc
Người Áo! Ðừng nhận mình có thành Viên
Người Lỗ! Hãy quên Bucarest.
Hỡi năm đại châu! Hỡi tiếng nói đầu lòng!
Phải bập bẹ Furher!

[...]

Ở đâu cũng chỉ cần một thứ ảnh; ảnh ta thôi!
Một thứ tượng: tượng ta là đủ!
(trang 96-97)
Chân dung Hitler. Đúng. Võ rất kín: Chân dung Hitler trùng hợp với chân dung những lãnh tụ độc tài, tiêu diệt nghệ thuật, hò hét chiến tranh: “ta suy nghĩ hộ, tắt mọi thứ nhạc, chỉ gầm gừ họng sắt nhạc ca nông”, thế giới đại đồng: “Hỡi năm đại châu! Hỡi tiếng nói đầu lòng! Phải bập bẹ Furher”, nhại thơ Tố Hữu: “Tiếng đầu lòng con gọi Xít Ta Lin”.

Thành Nam trong Cổng tỉnh, được dựng nên bằng những chân dung hôm qua và hôm nay như thế: những chân dung hò hét, của bom đạn chiến tranh; những chân dung rên la, đói rét, chết lịm, của con người; những chân dung anh hùng, đồng chí; những chân dung nhà lao, cùm xích; những chân dung im lìm rũ xuống, những chân dung gậy gộc đứng lên; những chân dung hoan hô, đả đảo... trên một bản đồ chằng chịt phố: những con phố Dần trong Cổng tỉnh.

Nguyễn Tuân có chữ phố Phái - nhưng chưa ai đả động đến phố Dần trong Cổng tỉnh - những con phố sinh ra, lớn lên, đứng dậy mà đi như người, những con phố vàng úa, chết già, những con phố thanh xuân chết yểu, những con phố trúng đạn, bị thương, những con phố què quặt, những “con phố hoang có ngọn đèn thắt cổ”.

Để lập chuyển động phố, Cổng tỉnh chôn vùi chữ cũ, ăn mừng chữ mới, tạo những chữ sơ sinh, trần truồng, chưa mặc áo lọt lòng, chưa ô nhiễm bụi bậm. Cổng tỉnh mở ra, về phía tỉnh, đánh thức kho ngôn từ bất tận đang ngủ yên trong mỗi con đường, mỗi hàng cây, mỗi phố, mỗi nhà, của một cõi nhân sinh chưa ai tìm đến.

Nhà thơ đi trong Cổng tỉnh, vừa đi vừa kể chuyện đời người, đời phố, kể những cô đơn, bất hạnh, trong chiến tranh, đói khát, trong cách mạng vùng lên, trong con người đổ xuống, dầm trong mưa máu. Phố Dần cũng chuyển động theo người. Phố Dần cũng sinh ra, lớn lên, trưởng thành, yêu đương, tàn tạ, đổ nát. Phố Dần cưu mang cả một thời trong Cổng tỉnh. Phố Dần muôn mặt, đầy hình sắc, đầy tâm sự, đổ ngược đi xuôi, phổ phận vào những sinh linh như ta phổ nhạc. Ngay từ Nhất định thắng Trần Dần đã đem phố vào thơ, ông phổ thơ con phố Sinh Từ, bằng khổ đau của những kiếp đoạ đầy sau chiến thắng. Phố của Dần không chỉ đơn thuần một ký hiệu ngôn ngữ, phố đã trở thành những sinh linh, có tim, óc, đột biến, có dung nhan, tâm sự khác nhau: Phố u ơ, phố vị thành niên, phố trăng non, phố dậy thì, phố cánh sen, phố đào, phố mận, phố ngọc, phố hai cô, phố chụm đầu, phố bơ vơ, phố thề, phố chờ, phố lỗi hẹn, phố phụ tình, phố chạ người, phố xanh, phố đỏ, phố lam, phố bão, phố chiều chìm, phố đục phố trong, phố đâm ngang, phố dọc, phố ngách xiên, phố trăng chênh, phố mạng nhện, phố gió, phố vắng, phố Bà đanh, phố lấm, phố lạnh, phố úa, phố bồ côi, phố goá, phố đói, phố rét, phố xào xạc, phố đèn vàng, phố đèn nâu, phố đèn sương, phố đèn rung, phố đèn Sành, phố Máy cưa, phố vàng lờ, phố Khách, phố cụt bị thương, phố mù khác khoải, phố đổ chàm, phố khổ, phố bụi, phố giày đinh, phố đìu hiu, phố mắt, phố xích, phố hò reo, phố thề, phố bãi chợ, phố hoác phố hơ, phố rỗng, phố nứt, phố khô dầu, phố long sơn, phố cháy, phố đổ, phố đè, phố què, phố máu, phố chết, phố xác, phố vôi bột, phố tha ma...

Những phố Dần, cứ phố phố ôm nhau nằm ngủ (trang 13), phố nhà mồ thông sang phố nhà mồ (114). Những phố Dần cứ: “Mặc! Mặc phố xúc xắc tống tình. Mặc phố me Tây cởi yếm” (trang 2). Còn người Dần, bên cạnh phố, người Dần, làm gì? Người Dần đi kháng chiến, người Dần viết lịch sử. Một lịch sử chiến tranh mưa máu, một lịch sử “ăn khách”, một lịch sử làm nên những best-sellers, một lịch sử bán chạy như tôm tươi, trên khắp địa cầu:
“Báo đê!”... số đặc biệt buổi chiều
...
Mưa máu! Mưa máu cổng nhà thờ
Đàn chiên xạc xào buổi lễ
...
Mưa máu phố trăng non trẻ thơ chơi rồng rắn
Mưa máu thư tình
Mủ chữ nhoà trang
(trang 89)
Người Dần vẫn đi trong phố, trong đêm, càng đi càng đêm... Sau chiến thắng, người Dần được gì?: “Tôi được- đầu lâu ao máu. Ánh đèn bày nhày phố gái mãi dâm” (trang 106). Và sau nữa, thời 59-60, người Dần còn được, được nhiều hơn nữa: “Sớm trước trổ cung vua. Chiều sau tạc chó đá” (trang 111).

Phố Dần chằng chịt tỉnh Nam, chằng chịt trên địa đồ đất nước. Một đất nước bán chạy khói lửa, xuất cảng tin tức chiến tranh, làm giàu các cột báo năm châu bốn biển, nuôi sống hàng vạn nhà báo, bằng những cái chết của dân mình: toàn anh hùng liệt sĩ. “Báo đê! Báo đê!”, từ 1959, Trần Dần đã nhìn thấy, trong Cổng tỉnh, một nước Việt đem bán cái lầm than, chém giết của mình, bán sốt dẻo cho những lò thông tin, luôn luôn cần rực lửa.

1945, “Các đồng chí về. Nghị quyết nằm trong hốc ngực” (trang 71). Theo chân anh hùng Phạm Bảy, “người đồng chí Đảng đầu tiên”, “cách mạng tuyển anh đi từ đó”. 1959, người Dần trở về, đi lại những phố Dần, vào lại ngõ ngách cuộc cách mạng kháng chiến... bằng những con chữ mới. 1959, sau cuộc tổng tấn công, càn quét, bắt sống, xử tử chữ thời Nhân Văn, người Dần trở về quê cũ dẫn ta vào cô đơn, vào cõi chết, vào nhà săm, vào phủ toàn quyền, vào hoả lò, vào lớp học... bằng những âm vang khác, không giống bất cứ một âm vang sôi sục nào của những bài thơ kháng chiến, giục máu, thúc cờ. Mà bằng những con chữ chưa bao giờ xuất hiện trên thị trường chữ nghĩa cách mạng: Thơ ở đây làm với những con chữ ma, một thời đã chết trong cô đơn, âm thầm; chúng rủ ta đi tảo mộ. Thơ ở đây là những con chữ bị giam trong hòm lâu ngày, chúng trốn ra, run run, táp vào ta, lẫn với mưa, với gió. Chữ đây là những sinh linh, những âm bản của cuộc đời. Chữ đây cứ tuôn ra như những giọt nước mắt, những linh hồn đầy thương tích lang thang không nhà, không cửa. Chữ đây là những sinh linh sống nhờ, thác gửi. Mỗi lần nhà thơ gõ đũa gọi hồn là chúng đi theo. Người đọc mê lạc trong nghĩa điạ chữ, bạt ngàn mồ mả, chằng chịt Cổng tỉnh.

Trong những núi thơ ca tụng kháng chiến, ca tụng cách mạng mùa thu, Cổng tỉnh trỗi lên như một cung đàn lỗi nhịp, một ngọn cỏ dại, mọc xế bên mồ.


Thuỵ Khuê

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Vì chúng ta thật là khác biệt
Tựa như hai giọt nước trong veo
(W. Szymborska)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Gặp gỡ Trần Dần: Ðối thoại mất ngủ

Tháng năm, anh Trần Dần vô chơi Huế, cùng đi với Phùng Quán. Trần Dần đã đến Huế lần đầu tiên vào năm 1946, lúc bấy giờ anh mới 21 tuổi; đây là chuyến giang hồ dành riêng cho tình yêu, với một người đẹp nay đã biệt tích trong đời.

Vừa đến Huế, trong một tuần lễ Trần Dần đã tiếp xúc với công chúng hai lần, ở Hội Văn Học Nghệ Thuật Bình Trị Thiên và ở nhà văn hoá Thanh niên Thành đoàn Huế. «Ở cả hai nơi đó», Trần Dần thú nhận, «lúc đầu tôi cảm thấy rét vì phải đối diện với đám đông, sau đó lại quá xúc động vì tính chất thẳng thắn của những câu hỏi đặt ra cho tôi. Cả hai cuộc đối thoại sau đó đều làm tôi mất ngủ». Tôi để ý thấy trong lúc nói chuyện Trần Dần thường dừng lại đột ngột và gõ «cộp…cộp» vào micrô, dù nó vẫn hoạt động tốt: hoá ra là từ ba chục năm nay anh không hề biết tới cái micrô, và bây giờ thỉnh thoảng anh chợt thấy im bặt, không nghe được tiếng nói của mình.

Lần thứ ba trong tuần, chúng tôi gặp lại Trần Dần trong một cuộc rượu bảy tám anh em văn chương ở nhà Ngô Minh nơi dốc Bến Ngự, gần khu vườn cũ của Phan Bội Châu. Chúng tôi quyết định tiếp tục cuộc đối thoại với thi sĩ, trên những vấn đề gợi mở từ hai cuộc gặp gỡ trước. Sau đây là câu hỏi của từng người và ý kiến riêng của Trần Dần, dưới ánh đèn dầu tù mù (vì cúp điện) tôi ghi lại.

Hoàng Phủ Ngọc Tường (mở đầu): Thưa anh, con người sống ai cũng cần có nhân cách, nhà văn lại càng phải có nhân cách. Theo anh nhân cách nhà văn quan trọng nhất là ở chỗ nào?

Trần Dần: Nhân cách nhà văn chính là văn cách của anh ta. Tôi không thấy mô-đen nào cho văn cách cả. Văn cách không chung cho ai. Văn là mình, không thằng nào giống thằng nào. Nó phải tự khẳng định cái tôi của nó, không lùi một ly. Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát là chính mình, không lùi một ly.

Nguyễn Quang Lập: Xin hỏi thật anh: qua thời Nhân Văn, anh tự thấy anh được cái gì nhiều nhất?

Trần Dần: Được cái hoạn nạn. (Thi sĩ chợt im lặng, và tất cả chúng tôi cùng im lặng trong nỗi xúc động. Rồi anh tiếp:) Do được cái hoạn nạn nên được không dưới ba chục tác phẩm trong ba mươi năm. [Tôi xin ghi lại ở đây một số tác phẩm của Trần Dần trong yếu mục sáng tác của tác giả: [i]Chiều mưa trước cửa[/i] (1943), Hồn xanh dị kỳ (1944), Dạ Đài (1946), vẽ và viết báo Sông Đà, Giải Phóng Tây Bắc, Giải Phóng Biên Giới vv...(1946-1949), Tiếng trống tương lai (1954), Người người lớp lớp (1954), Nhất định thắng, Cách mạng tháng Tám (1955), Bài thơ Việt Bắc (1957), 17 tình ca (1957-1958, nằm), Cổng tỉnh (1960, thi tập, nằm)[1], Đêm núm sen (1961, tiểu thuyết, nằm), Những ngã tư và những cột đèn (1965, tiểu thuyết, nằm), Mùa sạch (1964-1965, thi tập nằm)[2], Một ngày Cẩm Phả (1965, tiểu thuyết, nằm), Con trắng (1967, thơ hồi kí, nằm), 177 cảnh (1968, hùng ca lụa, nằm), Động đất tâm thần (1974), Thơ không lời-Mây không lời (1978), Thiên thanh-77-Ngày ngày (bộ tam, 1979), 36-Thở dài-Tư mã dâng sao (bộ tam, 1980), Thơ mini (1987)...]

Nguyễn Quang Lập (tiếp): Có dư luận cho rằng các anh làm dự báo tốt. Nhưng văn cách thì các anh chưa thành công, theo tôi. Vì bạn đọc chưa hâm mộ như trường hợp Bác sĩ Jivagô.

Trần Dần (một chân bị liệt cơ lại phải ngồi trên đòn, đứng dậy vịn ghế cho đỡ mỏi): Ngay độc giả của mình cũng chưa biết mình muốn cái gì. Họ nói thế nhưng họ xác định bằng cái gì? Tiền chiến chỉ quan trọng khi họ chưa biết chúng tôi là ai. Tôi chưa có độc giả. Tác phẩm của tôi sẽ đảm bảo công chúng của tôi.

Vĩnh Nguyên: Nhật Bản có thơ haiku, anh có thơ mini ngắn hơn. Có người nói thơ haiku ngắn nhưng dễ hiểu. Vậy thơ mini định bắt người đọc tới đâu?

(Đêm trước ở hội Văn Nghệ, Phùng Quán đã có dịp giới thiệu thơ mini của Trần Dần, bài chỉ có một, hai câu. Thí dụ như thế này: Mưa rơi không cần phiên dịch, hoặc Mỗi người một vụ án / Mỗi người chôn sống một chân mây, vân vân.)

Trần Dần (ừ ừ…ngẫm nghĩ): Thơ haiku mọi người biết rồi. Thơ mini nay ai cũng chưa biết. Chính tôi cũng chưa biết nó là gì. Nên không thể so sánh. (Một lát, tiếp). Chống công thức là đi tìm cái chưa biết. Cái mới là cái chưa biết. Tôi đi tìm cái mới nên tôi cũng chưa biết thơ mini là gì.

Ngô Minh: Một điều anh em rất trăn trở, nhân thơ mini của anh Trần Dần. Mình muốn chữ cho đắt cho hay thì thơ lại mất đi cái lửa. Chữ trong thơ yêu cầu rất cô. Nếu không có lửa thì thơ không xúc động, nếu viết theo tình thì chữ lại dàn trải quá.

Nguyễn Quang Lập (bổ sung): Nếu chỉ có chữ hay thì chỉ là một bức tranh đẹp anh trình bày bằng chữ. Có lẽ đúng như thế.

Trần Dần: Nó mâu thuẫn nhau rất dữ, cái biết rồi là nghĩa, cái chưa biết là chữ. Cái chưa biết là cái thăm thẳm. Anh làm câu châm ngôn hay như Khổng Tử chưa phải là thơ, nghịch lý như Lão Tử chưa phải là thơ. Nhảy qua bóng mình mới là thơ. Mình chưa hiểu thơ, vì khó mà nhảy qua bóng của mình.

Hoàng Phủ Ngọc Tường: Lão Tử nói: «Vô danh thiên địa chi thuỷ - Hữu danh vạn vật chi mẫu» (Vô danh là khởi đầu của trời đất - Hữu danh là mẹ của vạn vật). Như thế có gì khác với thơ mini không?

Trần Dần: Đó là triết học. Triết học cũng thăm thẳm.

Nguyễn Quang Lập: Lúc nãy anh Dần nói sở dĩ vậy là vì anh chưa có độc giả. Nhưng thời đó các anh có độc giả, ai cũng từng biết Người người lớp lớpVượt Côn Đảo, vv…Tôi xin hỏi: nhiều người nói, nếu in lại những tác phẩm đó thì độc giả ít dần đi. Vậy là văn cách chưa đủ sống với thời gian. Anh Dần nghĩ sao?

Trần Dần: Thời đó là độc giả tiền chiến. Chúng tôi cướp độc giả tiền chiến và sau đó họ cấm chúng tôi, nên chúng tôi chưa kịp có độc giả. Bây giờ chúng tôi sẽ phải chiếm lại độc giả. Chúng tôi đã ba mươi năm khuất bóng.

Ngô Minh: Ba mươi năm trước các anh có độc giả. Rồi im bặt. Ba mươi năm sau anh lại ra, liệu có độc giả hay không?

Trần Dần: Chúng tôi sốt ruột in, tôi mong in để xem. Tốc độ bây giờ nhanh lắm, ba mươi năm ba thế hệ, chúng tôi chỉ là một nhịp cầu để tới thế hệ mới. Đó là một thách thức. Aragông đi mãi với thế hệ trẻ. Chúng tôi cũng hy vọng như vậy.

Ngô Minh: Đọc Vượt Côn Đảo của Phùng Quán, thấy lý tưởng cao lớn, nhưng văn cách thì thế hệ trẻ bây giờ lớn hơn nhiều. Văn cách Vượt Côn Đảo rất vỡ lòng, dù tôi rất kính trọng về lý tưởng. Nguyễn Quang Lập chẳng hạn, bây giờ, văn cách lớn hơn nhiều...

Phùng Quán: Nếu Lập nó chỉ viết bằng tôi thì tôi phải đập cho nó vỡ mật...

Hoàng Phủ Ngọc Tường: Giá như Truyện Kiều vừa mới được viết xong bây giờ, do một tác giả trẻ nào đó ở trường Nguyễn Du của Hội Nhà Văn đem nộp bản thảo cho nhà Tác Phẩm Mới. Liệu người ta có thèm in hay không?

Phùng Quán: Đúng quá. Bây giờ phải viết hay hơn Nguyễn Du chứ!

Hoàng Phủ Ngọc Tường: Không thể viết hay hơn Nguyễn Du nổi. Vấn đề là phải viết khác Nguyễn Du.

Trần Dần: Thế giới bây giờ mong nếu anh có được một độc giả là sướng rồi, được hai ba đọc là may quá.

Nguyễn Quang Lập: «Tôi chỉ viết cho những người bằng vai», anh Trần Dần đã có lần nói như thế. Vậy có phải anh chủ trương nghệ thuật phi giao tiếp, hoặc nghệ thuật dành cho những người đặc tuyển hay không?

Trần Dần: Không. Nhưng quần chúng văn học của anh như thế nào thì là do anh tạo ra. Do đó, tôi cho rằng, tôi viết cho những người bằng vai.

Nguyễn Quang Lập: Krapchenkô có nói rằng không nên đánh đồng tính dễ hiểu với sự tầm thường; nhưng tính dễ hiểu cũng là một đặc trưng của văn học. Anh nghĩ thế nào về điều đó?

Trần Dần: Tôi không coi Krapchenkô là cái gì cả. Tất cả mọi giá trị Chân Thiện Mỹ đều là khó hiểu, trượt băng nghệ thuật cũng khó hiểu.

Ngô Minh: Độc giả ở Hội hỏi anh: Thế giới anh thích ai nhất? Tiền chiến ai nhất? Thời anh, anh nể ai nhất? Sau anh, anh đọc ai?

Trần Dần: Thế giới nhiều lắm nhưng tôi nói về văn học Pháp. Xuất phát tôi yêu Mallarmé, Baudelaire rồi nhất là Rimbaud. Tôi tiếp tục đọc, nhưng cái gốc là ở phía trước. Dòng Rabelais tiếp tục cho đến bây giờ là Céline, hồ sơ đen số một của Liên Xô thời Stalin. Céline là tác giả của tiểu thuyết Đi đến tận cùng đêm. Tiền chiến Việt Nam tôi thích Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Vũ Trọng Phụng, vớt vát thêm thì còn Thạch Lam. Thời bọn tôi, ngoài bọn Nhân Văn thì tôi chẳng còn thích ai. Hoàng Cầm là tên lãng mạn. Xuân Diệu vốn là lãng mạn tiền chiến.

Thế hệ trẻ à? Tôi cứ đợi mãi. Nó bị trong vòng vây của văn chương cung đình, tôi sốt ruột đợi lớp trẻ đủ sức lớn lên để chôn bọn tôi, như chúng tôi đã chôn tiền chiến.

Hoàng Phủ Ngọc Tường: Cho phép tôi quay lại trước một chút. Tôi e rằng anh đánh giá Đinh Hùng hơi quá, ngoại trừ việc thích hoặc không thích. Tôi có dịp đọc Đinh Hùng khá nhiều, xin lỗi anh, tôi thấy văn chương ông ta loè loẹt, có cái gì ghê ghê, như là son phấn. Nếu tôi nhớ không nhầm thì ngay trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh cũng chỉ xếp Đinh Hùng ngồi ở «Chiếu ba» trong làng văn lúc đó…

Trần Dần: Đinh Hùng thời đó là không có chiếu gì. Nhưng Ngõ Bò (gần Bạch Mai, thời đó là nhà ông Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương) là trung tâm thu hút. Ai cũng thấy Đinh Hùng là thi sĩ tượng trưng đầu tiên của Việt Nam trong Mê hồn ca, Lạc hồn ca, vv… Thơ Đinh Hùng như thế này: “Nửa mặt phù sinh nép hậu trường”. Tôi thích là vậy.

Hoàng Phủ Ngọc Tường: Tôi rất thú vị về cái quyết tâm «chôn tiền chiến» của thế hệ các anh. Đọc lại văn của các anh thời đó, đã in hoặc trên bản thảo, tôi lạ lùng thấy các anh đã làm nổi cái việc khủng khiếp ấy, là vừa đánh Điện Bên Phủ, vừa «chôn tiền chiến». Tôi biết, cho đến bây giờ nhiều người trong công chúng văn học vẫn chưa hết bị ám ảnh về cái lộng ngữ «vĩ đại như tiền chiến». Dù rằng, ai cũng biết tiền chiến đã tạo ra được những thành tựu lớn lao cho đời sông văn học, so với thời trước của nó. Tôi cũng sốt ruột mong cho sách của các anh viết thời đó, hoặc viết thầm lặng trong ba mươi năm qua, sẽ nhanh chóng được tái bản hoặc công bố, để có thể nhìn lại sự Đổi Mới đích thực của văn học «sau tiền chiến». Tôi cho rằng lúc đó câu chuyện văn chương «minh hoạ» hay «không minh hoạ» chắc lại còn nhiều điều hạ hồi phân giải.

Vĩnh Nguyên: Thưa anh ca dao như thế nào? Tôi nhớ thơ anh nói: Sấm con gái – Lúa con gái. Thế cũng như Lúa non ngấp nghé đầu bờ, hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên… Vậy chính Trần Dần cũng là ca dao.

Trần Dần: Đó là di sản dân tộc, một ông thầy phải đặt ngang như Nguyễn Du, Cao Bá Quát. Phải học để mà chôn đi.

Phùng Quán: Các anh tiếp xúc với Trần Dần vài buổi đã thấy bằng vai, thì ngay anh em mình trước cũng không hiểu Trần Dần. Nay hiểu, vật lộn để hiểu nhau chính là vấn đề «bằng vai».

(Nghe Phùng Quán dùng chữ «vật lộn», tôi nhìn lại: Tất cả từ bao giờ đều đã đánh trần, trừ ông Trần Dần vẫn mặc áo, tay nào tay ấy mồ hôi ròng rã. Đêm nóng, điện cúp, nói nhỏ kẻo phiền hàng xóm, nhưng mọi cặp mắt đều có vẻ gì quyết liệt)

Nguyễn Quang Lập (đứng dậy, chống hai tay vào hông cho đỡ nóng): Tôi muốn hỏi lại, các anh đã bị đưa ra khỏi Hội Nhà Văn ba năm, sau đó thành ba mươi năm. Tại sao khi người ta yêu cầu các anh viết đơn để được vào lại, thì các anh lại viết?

Trần Dần: Lúc ấy tôi thật khó xử. Nếu theo mạch của tôi, thì tôi ghi vào phản-nhật-ký, là đốt hết và chết luôn, như nhà sư tự thiêu. Nhưng nghĩ lại, mình tuổi già đã hết cái máu ấy rồi. Sáu mươi ba tuổi, nếu được hoạt động hai năm nữa cũng quí rồi, cố mà ra khỏi đó. Nhưng tôi biết, phục hồi thì cũng vô thưởng vô phạt, chỉ là hình thức thôi. Sau đó nhiều người chất vấn tôi mà tôi không trả lời được. Như thế quả là hèn thực. Đáng lẽ là một Silence de la mort. Đó là cách trả lời mini nhất.

(Tan cuộc, nhìn lại đã gần mười hai giờ khuya.)

Trần Dần (chống gậy khập khiễng ra cổng, lầu bầu): Lại mất ngủ!


Bến Ngự, đêm 14-5-1988
Hoàng Phủ Ngọc Tường

(Tạp chí Sông Hương số 31, tháng 5 và 6-1988)

[1] Sáu năm sau (1994) Cổng tỉnh được xuất bản.
[2] Chín năm sau (1997) Mùa sạch được xuất bản. Những tác phẩm nằm khác vẫn tiếp tục nằm.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Trần Dần: “Tôi thích đối thoại như tra tấn”

Sau 42 năm, nhà thơ Trần Dần trở lại với Huế. Lần đầu, năm 21 tuổi (1946) anh đến Huế cùng với một người bạn gái làm một cuộc du ngoạn. Lần này, anh đi cùng Phùng Quán, người bạn thơ của anh vừa cùng được “trở lại” Hội Nhà Văn Việt Nam. Hai nhà thơ ghé thăm Hội Văn Nghệ tỉnh, gặp gỡ gần 100 nghệ sĩ và trí thức đang công tác tại Huế. Ðêm gặp gỡ diễn ra thật sôi động. Ðấy là một cuộc đối thoại thẳng thắn và cởi mở. Tuy tuổi tác già yếu, nhưng khi đối thoại, Trần Dần trở nên mạnh mẽ quyết liệt và hết sức chân tình. Anh nói:

“Tôi thích những cuộc đối thoại với nhau như tra tấn. Ðọc là tra tấn có một chiều. Ðối thoại là tra tấn lẫn nhau.”

Trong không khí cởi mở đó, nhà thơ Phùng Quán chiếm ngay diễn đàn giới thiệu tác giả Trần Dần. Anh kể tên những tác phẩm tiêu biểu của Trần Dần như tiểu thuyết Người người lớp lớp, Những ngã tư và những cột đèn, Ðêm núm sen, bài thơ “Nhất định thắng”, trường ca Ðây Việt Bắc, Cổng tỉnh, Mùa sạch, Thơ mini, v.v... Và anh đọc nhiều đoạn thơ tiêu biểu đã in và chưa in của Trần Dần. Phùng Quán tâm sự:

“Các tác phẩm của anh Trần Dần hầu như tôi đều đọc. Có cái tôi hiểu và có cái tôi không hiểu. Nhưng khi tôi hỏi, anh Trần Dần chỉ nói: ‘Mưa rơi không cần phiên dịch’. Ðề nghị anh Trần Dần nói rõ hơn điều này.”

TRẦN DẦN: Tôi với anh Phùng Quán còn thân hơn anh em. Nhưng thơ anh Phùng Quán là thơ quảng trường. Cũng như anh Hoàng Cầm, anh Phùng Quán đọc thơ rất lôi hút người nghe. Tôi lại không thích thơ để đọc. Tôi nghĩ cái tai ngu hơn cái mắt. Trần Dần thì con mắt chạy vào trong. Nhưng thơ thì mỗi người một kiểu. Có kiểu bày thơ, thơ triển lãm. Tôi đang làm thơ mini...

HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG: Xin hỏi thật anh. Tại sao phải là thơ mini mà không thể là thơ cách khác. Vậy thơ mini có phải là thời thượng hay không? Thơ có cần thiết hay không?

TRẦN DẦN: Có thể nhịn ăn hai ba ngày, nhưng không thể nhịn thơ. Thơ là thơ thì hết sức cần thiết. Thơ của chúng ta đứng ở “tiền chiến” không được. Phải sáng tạo cái mới của chúng ta. Có người hỏi thơ mini có bắt chước váy mini không? Không. Không có cái mốt gì sống cả.

XUÂN HOÀNG: Anh là nhà thơ đi làm cái mới. Vậy thơ anh có gì kết hợp với ca dao truyền thống hay không?

TRẦN DẦN: Ca dao là lửa, cũng là thầy. Với tôi, Du, Hương, Khiêm, Quát hay Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chương là thầy. Nhưng học trò phải “chôn” thầy. Thơ nay hầu như vẫn đặt nghĩa. Tôi đặt thơ là chữ. Con chữ nó làm nghĩa. “Mai sau dù có bao giờ” là con chữ. “Chữ tài liền với chữ tai một vần” là đặt nghĩa.

NGUYỄN XUÂN TỰ: Thưa anh, tôi nghĩ rằng, muốn là một kiểu, làm thơ là một kiểu. Anh nói làm thơ để đọc bằng mắt, vậy người đọc hôm nay tìm anh ở quyển sách nào? Thơ văn Lý Trần người ta cần đọc. Theo anh, người ta cần đọc anh hay không?
TRẦN DẦN: Tôi muốn in ra sách. Nhưng đó là việc của nhà xuất bản. Còn tôi viết là viết cho những người bằng vai. Dù cha chú mình thì vẫn là vô hình. Phải vật nhau, đánh nhau để tạo ra độc giả. Tác giả qua tác phẩm tạo ra độc giả của mình. Tôi chưa kịp tạo ra độc giả thì đã bị vụ ‘Nhân Văn’ rồi...

NGUYỄN ÐẮC XUÂN: Chúng tôi tham gia tranh đấu ở miền Nam, nghe nói sau vụ ‘Nhân Văn’, anh có làm những tập thơ gửi ông này ông nọ trước đấy phản đối anh. Anh có thể cho biết sự tiếp nhận của họ như thế nào?

TRẦN DẦN: Thơ không phải là cái nghề. Tôi nằm như người bị chém, và tôi gửi thơ lên như người phá vây. Còn đầu hàng hay không thì cũng không biết. Nhưng khó ai dàn hoà được tôi với anh Tố Hữu (về quan niệm thơ –NTT). Tôi không làm văn vần.

HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG: Anh có làm thơ tình yêu không? Và anh quan niệm thế nào về đổi mới hiện nay?

TRẦN DẦN: Sáng tạo là tình yêu. Dù không nói gì về tình yêu, dù không làm về đề tài tình yêu, nhưng những con chữ “làm tình” trong thơ. Theo tôi, đổi mới là tạo nên sáng tạo. Phải để cho các thế hệ tự do sáng tạo. Nếu nói Trần-Dần-Giá-Trị, đấy phải là Giá-Trị-Tự-Do.

NGUYỄN TRỌNG TẠO: Tiểu thuyết Người người lớp lớp của anh là một giá trị. Anh làm ra giá trị đó hơn 30 năm trước. Nay đọc lại, theo anh, nó có rơi vào văn chương minh hoạ hay không, hay là nó vẫn là một giá trị thực sự?

TRẦN DẦN: Nó là hình thức mới. Người người lớp lớp là cái chữ chưa có trước đó. “Ðây rồi”, tôi đã bắt được nó. Sau chiến dịch là nghệ thuật, chứ không phải đi làm chống tiêu cực, làm ký. Nội dung của nó cũng là một sáng tạo, một giá trị. Sau thấy bộ đội làm thơ dùng chữ “Người người lớp lớp”, tôi khoái. Nhưng sau này nói cái gì về tập thể, người ta lại nói “người người lớp lớp”, tôi lại ngán!
(Mọi người cùng cười, phá tan không khí căng thẳng gần hai tiếng đồng hồ trôi qua.)

HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG: Không nên lạm dụng sức khoẻ của anh. Tuy vậy, tôi muốn hỏi anh thêm một câu: Theo anh, nhân cách nhà văn quan trọng ở những điểm nào?

TRẦN DẦN: Nhân cách là văn cách. Ðấy là nhân cách sáng tạo. Tôi mong muốn mỗi công dân là một người Thơ. Ðầu tiên là làm người.

HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG: Cũng có lúc nhà văn sống khác với những điều họ nói. Vậy có tin những điều họ nói và những điều họ sống là một hay không?

TRẤN DẦN: Nhà văn cũng như mọi người. Tin vào mọi người như thế nào, hãy tin vào nhà văn như thế ấy. Theo tôi, có tin mà cũng có ngờ nữa...

*

Cuộc đối thoại đã kết thúc, nhiều người vẫn còn nán lại với hai vị khách quí. Còn được biết thêm, đây là lần đầu tiên sau hơn ba mươi năm anh Trần Dần tiếp xúc chính thức với “đám đông”. Anh chống gậy, chia tay mọi người và vui vẻ nói:

“Ðúng là tra tấn nhau. Vã cả mồi hôi...”


Huế 5.1988
(Trích trong Văn chương cảm và luận của Nguyễn Trọng Tạo, NXB Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 1998, tr. 294-8)
chia cho em một đời say
một cây si/ với/ một cây bồ đề
tôi còn đâu nữa đam mê
trời chang chang nắng tôi về héo khô
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook