Đăng bởi Vanachi vào 30/06/2005 23:16, đã sửa 4 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 21/09/2007 18:51

楓橋夜泊

月落烏啼霜滿天,
江楓漁火對愁眠。
姑蘇城外寒山寺,
夜半鐘聲到客船。

 

Phong Kiều dạ bạc

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hoả đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

 

Dịch nghĩa

Trăng lặn, quạ kêu, sương phủ đầy trời.
Hàng phong bên sông, ngọn đèn thuyền chài ở trước người đang ngủ buồn.
Ngoài thành Cô Tô là chùa Hàn San,
Tiếng chuông lúc nửa đêm vẳng đến thuyền khách.


(Năm 756)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 8 trang (80 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [5] [6] [7] [8]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Trăng lặn quạ kêu sương khắp trời
Phong buồn khó ngủ lửa ghe chài
Chùa Hàn thành ngoại Cô Tô vắng
Chuông tới thuyền đêm ngân vọng dài.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Tạ Trung Hậu

Lạc bóng trăng tà, quạ khóc sương
Lửa chài, phong bãi, giấc thiu buồn
Cô Tô ngoài bến neo thuyền khách
Chuông sớm chùa Hàn văng vẳng buông

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Tạ Trung Hậu

Quạ réo trời sương, bóng nguyệt chìm
Lửa chài, phong bãi, giấc buồn thêm
Chùa Hàn ngoài bến Cô Tô vắng
Vọng đến khách thuyền chuông giữa đêm

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Đất Văn Lang

Quạ kêu, trăng lặn, trời sương trắng
Đèn cá, hàng phong, giấc cảm hoài
Xa tít, Hàn San chùa tịch lặng
Nửa đêm thuyền lộng tiếng chuông dài.

Đất Văn Lang
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Trăng tà tiếng quạ dội trời sương,
Cây bến đèn ngư đối giấc buồn.
Thành ngoại Cô Tô, chùa lặng lẻ,
Nửa đêm thuyền khách vọng hồi chuông.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Trăng lặn quạ kêu trời phủ sương,
Lửa chài le lói giấc sầu vương.
Cô Tô thành ngoại Hàn San vắng,
Thuyền khách nửa đêm nghe vọng chuông.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bổ sung chú giải nghĩa Phong Kiều dạ bạc – Trương Kế

楓橋夜泊-張繼
月落烏啼霜滿天,江楓漁火對愁眠。
姑蘇城外寒山寺,夜半鐘聲到客船
Phong Kiều dạ bạc – Trương Kế
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang Phong Ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn sơn Tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Chú giải nghĩa:
1. Phong Kiều (楓橋): tên địa danh, vùng đất bên ngoài cửa Xương Môn thành Tô Châu (Thành Cô tô), nay là thành phố Tô Châu tỉnh Giang Tô Trung Quốc, gần chùa Hàn sơn.
2. Dạ bạc (夜泊): dạ là đêm, bạc có nghĩa là bến nước, bến sông, chữ bạc trong chữ Lương Sơn bạc。
3. Phong Kiều dạ bạc: đêm cập thuyền ở bến Phong Kiều.
4. Nguyệt lạc (月落): mặt trăng xuống hướng tây, đã quá nửa đêm。
5. Ô đề (烏啼): ô: tên thường gọi là Lô Tư Ô, có nghĩa là con chim cốc, loại chim được thuyền chài đánh cá trên sông nuôi để bắt cá. Người Việt khi dịch thơ vẫn hay nhầm dịch thành con quạ, con quạ tiếng Hán là ô nha. Đề: tiếng kêu. Ô đề: tiếng chim cốc kêu.
6. Sương mãn thiên(霜滿天) sương mù trời, khói sương mịt mùng mặt nước.
7. Giang Phong (江楓): cây phong mọc bên bờ sông.
8. Ngư hoả (漁火): ngọn đèn lửa hoặc ngọn lửa trời của thuyền đánh bắt cá, người Trung Quốc ban đêm bắt cá trên sông dùng ánh sáng đèn hoặc ngọn lửa trời để thu hút cá. Sau đó thả chim cốc xuống sông bắt cá.
9. Đối sầu miên (對愁眠): cùng sầu thiếp ngủ. Sự hoài cảm của khách trên thuyền.
10. Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự (姑蘇城外寒山寺): chùa Hàn Sơn bên ngoài thành Cô Tô.
11. Dạ bán chung thanh(夜半鐘聲): đương thời chùa viện có thói quen đánh chuông vào ban đêm gọi là “chuông vô thường”.
12. khách thuyền (客船): thuyền chở tác giả, do tác giả ngồi thuyền phiêu bạt trên đất khách cho nên tự gọi là khách thuyền.

Dịch Nghĩa:
Trăng tà, tiếng cốc kêu, sương giăng đầy trời.
Hàng phong bên sông, ngọn đèn thuyền chài cùng khách trên thuyền đang ngủ buồn.
Chùa Hàn Sơn bên ngoài thành Cô Tô.
vẳng tiếng chuông chùa đến khách thuyền lúc nửa đêm.

Dịch thơ (mượn ý thơ cụ Tản Đà)
Trăng tà, tiếng cốc kêu sương,
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm vẳng tiếng chuông chùa Hàn San.

15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của TchyA

Quạ kêu trăng xế sương tuôn,
Lửa chài cây bến đối buồn nằm khan.
Thành Cô Tô, miếu Hàn San,
Nửa đêm chuông vẳng tiếng sang thuyền người.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Vũ Trí Viễn

Trăng khuất quạ kêu sương giăng trời,
Lửa chài bờ phong buồn đầy vơi.
Hàn Sơn chùa tại Cô Tô ngoạị,
Chuông đến khách thuyền nửa đêm khơi.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Thích Viên Thành

Trăng lặn quạ kêu sông nhuộm sương
Lửa chài gây bén giấc sầu vương
Thuyền ai ghé bến Cô Tô đậu
Trong viện Hàn Sơn vẳng tiếng chuông.


Tháng 11-1968

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời

Trang trong tổng số 8 trang (80 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [5] [6] [7] [8]