渡黃河

渺渺黃流泛曉晴,
倚蓬眺覽聽濤聲。
九千巨派周中土,
五百休期應聖明。
曠見比同包老笑,
誕辭愧殺迺翁盟。
不須更問張騫事,
八月乘槎正坦平。

 

Độ Hoàng Hà

Diểu diểu Hoàng lưu phiếm hiểu tình,
Ỷ bồng thiếu lãm thính đào thanh.
Cửu thiên cự phái chu Trung thổ,
Ngũ bách hưu kỳ ứng thánh minh.
Khoáng kiến tị đồng Bao Lão tiếu,
Đản từ quý sát Nãi ông minh.
Bất tu cánh vấn Trương Khiên sự,
Bát nguyệt thừa sà chính thản bình.

 

Dịch nghĩa

Sông Hoàng mênh mông, thuyền bồng bềnh trong sớm mai quang đãng,
Tựa mui thuyền lắng nghe tiếng sóng, mắt nhìn ra xa.
Dòng nước lớn dài chín nghìn dặm, chảy khắp đất Trung Nguyên,
Cứ năm trăm năm, lại ứng điềm lành có thánh minh ra đời.
Việc rất ít thấy, giống như nụ cười Bao lão,
Lời nói ngông ngạo, làm thẹn chết “Nãi ông” ở hội thề.
Chẳng cần lại hỏi sự tích về Trương Khiên,
Tháng tám cưỡi bè, chính là rất bình yên.


Nguyên dẫn: “Nhị thập thất Thìn khắc, tự Cương lý công quán ngũ lý để Hoàng Hà nam ngạn. Trường tống liệt vị tế Hà ngật, đăng chu hoành độ. Thời lạo thoái thuỷ thịnh, vị bán canh để bắc ngạn.” 二十七辰刻,自岡里公館五里抵黃河南岸,長送列位祭河訖,登舟橫渡。辰潦退水盛;未半更抵北岸。 (Giờ Thìn ngày 27, từ công quán Cương lý đi khoảng 5 dặm, thì đến bờ nam sông Hoàng Hà. Các vị Trường tống lễ tế thần sông rồi lên thuyền qua sông. Trời mưa to vừa tạnh, nước sông lớn, chưa đầy nửa canh giờ thuyền đã sang đến bờ bắc.)

Sông Hoàng Hà lớn thứ hai Trung Quốc, phát nguyên từ Thanh Hải chảy qua các tỉnh Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Nam, Sơn Đông rồi ra biển. Nước sông nhiều phù sa vàng, nên gọi là sông Hoàng Hà.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]