吊都司汪大侯其一

時來名位及屠沽,
造物何慳彼丈夫。
三品帶啣非健武,
十年羈旅失窮儒。
志奇猶憶斟談夜,
情厚翻乖遘晤途。
隱隱麟岩魂未散,
隔潭征客一長呼。

 

Điếu đô ti Uông Đại hầu kỳ 1

Thời lai danh vị cập đồ cô,
Tạo vật hà khan bỉ trượng phu.
Tam phẩm đái hàm phi kiện vũ,
Thập niên ki lữ thất cùng nho.
Chí kỳ do ức châm đàm dạ,
Tình hậu phiên quai cấu ngộ đồ.
Ẩn ẩn Lân nham hồn vị tán,
Cách đàm chinh khách nhất trường hô.

 

Dịch nghĩa

Gặp thời cơ đến thì bọn bán thịt bán rượu cũng có danh vị,
Tạo vật sao lại hẹp hòi với bậc trượng phu ấy?
Mang hàm tam phẩm nhưng không mạnh về võ,
Mười năm là kẻ lữ khách, đã mất một nhà nho khốn cùng.
Chí lạ, còn nhớ đêm uống rượu nói chuyện cùng nhau,
Tình cảm nồng hậu mà đường đời lại gặp những điều trắc trở.
Ẩn hiện ở vách núi Kỳ Lân, hồn chưa tan,
Khách đi xa bên đầm gọi một tiếng dài.


Nguyên dẫn: Bùi Xuân Uông là người ở Yên Hoà, Khang Lộc. Là người có học thức, lại chuộng khí khái, ít hoà hợp với đời, sống cảnh hàn vi giản dị mà không ham những thứ bên ngoài. Ông được đội ơn ngài Tiết chế chọn vào làm Trực giảng, rất được yêu mến và trân trọng. Ông Bùi là Văn giai Thị lang, nhưng vì số người làm ngạch này đông đúc nên có ý xuống quân ngũ, xin chuyển sang chức ngạch võ để tự giữ sự thanh khiết. Tôi vâng lệnh phụ trách việc giáo dục ở phiên phủ, giao du với ông Bùi đã lâu, xét chí hạnh của ông, cũng được lọt vào mắt xanh, cho nên tình cảm quan hệ rất thân mật. Ông Bùi bị ốm, tôi chưa thể gặp được dầu chỉ một lần. Chợt nghe tin cáo phó, nuối tiếc cả ngày trời, nên làm hai bài thơ để phúng điếu ông.

Phạm Văn Ánh dịch nghĩa.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]