經金甌山寺

寒山掛出草庵孤,
遍訪金甌舊跡無。
風落禽聲來客路,
日移花影出僧廚。
誰營大吏清虛院,
乍占安孫險要都。
閏位空遺岩壑醜,
今人猶罵老奸胡。

 

Kinh Kim Âu sơn tự

Hàn sơn quải xuất thảo am cô,
Biến phỏng Kim Âu cựu tích vô.
Phong lạc cầm thanh lai khách lộ,
Nhật di hoa ảnh xuất tăng trù.
Thuỳ doanh Đại Lại thanh hư viện,
Sạ chiếm An Tôn hiểm yếu đô.
Nhuận vị không di nham hác xú,
Kim nhân do mạ lão gian Hồ.

 

Dịch nghĩa

Trên núi vắng, cheo leo một am cỏ,
Hỏi khắp Kim Âu, dấu tích cũ không còn.
Ngọn gió đưa tiếng chim vẳng đến đường khách,
Mặt trời chuyển bóng hoa ra khỏi bếp chùa.
Ai xây toà viện thanh u ở làng Đại Lại?
Bỗng chiếm đô hiểm yếu ở thành An Tôn.
Việc “cướp ngôi” để mãi tiếng xấu cho núi khe,
Người đời nay còn nguyền rủa lão Hồ gian hiểm.


Nguyên chú (dịch): Núi ở làng Chương Các, huyện Vĩnh Phúc, xưa gọi là làng Đại Lại, cư quán của Hồ Quý Ly. Họ Hồ từng xây chùa ở sườn núi, xúi giục Thuận Tông vào chùa đi tu và nhường ngôi cho Thiếu Đế. Hồ lại sửa sang thành An Tôn làm Tây Đô. Ít lâu sau bức giết Thuận Tông và Thiếu Đế, đổi quốc hiệu là Ngu, rồi ở lại Tây Đô, truyền ngôi cho con là Hồ Hán Thương, tự xưng là thượng hoàng. Sau, bị quân Minh bắt, đưa cả hai cha con về Yên Kinh và chết ở nơi bị giam. Theo Việt sử thông giám cương mục: Sau, Hồ Quy Ly ở trong ngục được tha ra, bắt đi thú ở Quảng Tây; Hồ Nguyên Trừng vì giỏi nghề chế binh khí, dâng phép chế súng lên vua Minh, nên được tha ra để dùng.

Núi Kim Âu thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Huyện Vĩnh Lộc xưa gọi là Vĩnh Phúc, đến thời Nguyễn huý chữ “phúc” nên đổi ra chữ “lộc”. Làng Chương Các nay là Chang Các. Ở đây có con sông Đò Lèn (Đại Lại) chảy qua, rồi đổ về thành Tây Giai (thành nhà Hồ).


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]