送妓人出家

盡出花鈿與四鄰,
雲鬟剪落厭殘春。
暫驚風燭難留世,
便是蓮花不染身。
貝葉欲翻迷錦字,
梵聲初學誤梁塵。
從今豔色歸空後,
湘浦應無解佩人。

 

Tống kỹ nhân xuất gia

Tận xuất hoa điền dữ tứ lân,
Vân hoàn tiễn lạc yếm tàn xuân.
Tạm kinh phong chúc nan lưu thế,
Tiện thị liên hoa bất nhiễm thân.
Bối diệp dục phiên mê cẩm tự,
Phạm thanh sơ học ngộ lương trần.
Tòng kim diễm sắc quy không hậu,
Tương phố ưng vô giải bội nhân.

 

Dịch nghĩa

Đem hết trang sức hoa tai cho hàng xóm bốn bên
Cắt đứt mớ tóc mây, nản cho cái xuân tàn
Sợ ngọn đuốc trước gió khó lưu lại trên đời
Giống đoá hoa sen không nhiễm dơ bẩn vào thân
Lá bối muốn giở ra, lộn với chữ gấm
Tiếng kinh phạn mới học lẫn cùng bụi xà nhà
Từ nay sau khi sắc đẹp quy về cửa không
Bến Tương không có người cởi ngọc đeo

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (8 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Hải Đà

Trâm anh trút bỏ tặng quanh làng
Ngán ngẩm xuân tàn tóc cắt ngang
Kinh sợ đời người như nến gió
Giờ đây thân xác tựa sen vàng
Mở xem lá bối lầm chương gấm
Lần học trang kinh ngỡ bụi đàng
Sắc đẹp là không, thôi giã biệt
Sông Tương chắc vắng kẻ quyền sang.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Trọng San

Đem hết trâm hoa tặng xóm ngoài,
Tóc mây cắt đứt, chán xuân phai.
Đời như đuốc gió lo rung mãi,
Thân tựa bông sen chẳng bợn hoài.
Lá bối toan xem, lầm chữ gấm,
Tiếng kinh mới học, lẫn trần ai.
Từ nay sắc đẹp về không nhé,
Cởi ngọc, sông Tương hẳn vắng người.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu

Đem hết trâm hoa tặng xóm gần,
Tóc mây cắt bỏ, ngán tàn xuân!
Ngại ngùng đuốc gió khôn lưu thế,
Phảng phất hoa sen chẳng bợn thân.
Lá bối toan xem lầm cẩm tự,
Câu kinh mới học tưởng lương trần.
Từ nay sắc đẹp về theo Phật,
Tương phố không ngưòi cởi ngọc trân.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Anh Nguyên

Láng giềng, cho hết trâm hoa,
Tóc mây cắt bỏ, xuân qua, chán chường.
Đời như ngọn đuốc không thường,
Tợ sen, thân chẳng để vương bụi trần.
Dịch kinh, chữ gấm mê thầm,
Vừa nghe tiếng Phạn, trên trần đã vương.
Quy ‘‘không’’, sắc đẹp coi thường,
Không người gỡ ngọc bến Tương nữa rồi...

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Cho hàng xóm, nữ trang và tiền bạc
Mớ tóc mây cắt bỏ, ngán xuân tàn
Ngẫm mà kinh nến trước gió phũ phàng
Nên muốn được là sen bùn không nhiễm
Mở lá bối, toan phiên, mê chữ gấm
Nghe lời kinh, mới học, tưởng bụi bay
Người đẹp nay quy y cửa không này
Bến Tương Phố hẳn vắng người cởi ngọc.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Đông Phong

Trang sức đem cho khắp xóm gần
Tóc mây cắt rụng chán xuân tàn
Tạm e đuốc gió không lưu thế
Như tựa hoa sen chẳng nhiễm thân
Lá bối muốn xem mê chữ gấm
Tiếng kinh mới học lạc lòng trần
Từ nay không sắc về sau nhé
Tương Phố còn ai cởi ngọc loan.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Đem hết trâm hoa tặng xóm thân,
Tóc mây cắt đứt chán tàn xuân.
Sợ cho đuốc gió lưu đời khó,
Giống đoá hoa sen ít nhiễm thân.
Lá bối giở ra, lầm chữ gấm
Tiếng kinh mới học lẫn hồng trần.
Từ nay sắc đẹp theo về Phật,
Không có Bến Tương ngọc mỹ nhân.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Nội dung bài thơ

Đưa tiễn người kỹ nữ đi xuất gia
Đem hết trang sức có hình bông hoa cho hàng xóm bốn bên,
Cắt bỏ mái tóc đẹp, buồn chán cho tuổi xuân sắp tàn.
Đôi lúc hoảng hốt cho (tấm thân này như) ngọn đèn trước gió, khó giữ lại trên đời,
Cũng chính là như đoá hoa sen không nhiễm dơ vào thân.
Lá bối (kinh sách) muốn giở ra đọc nhưng mơ hồ (có phải là) chữ thêu trên gấm (để gởi cho chàng),
Tiếng kinh phạn mới học mà cứ lầm lẫn với tiếng ca lảnh lót dễ nghe.
Từ nay nhan sắc kiều diễm đã trở về cửa không rồi,
Thì nơi bến sông Tương không có người cởi ngọc bội.


花钿 huā tián 用金翠珠寶製成的花形首飾。(trang sức trên đầu hình bông hoa được làm bằng vàng ngọc)
云鬟 yún huán 1.高聳的環形髮髻。 2.泛指烏黑秀美的頭髮。3.借指年輕貌美的女子 (1. Búi tóc hình tròn vót cao. 2. Chỉ cho đầu tóc đen và đẹp. 3. Chỉ người phụ nữ trẻ đẹp)
锦字 jǐn zì 1.指錦字書。2.喻華美的文辭 (1. Chỉ cho lá thư thiêu chữ trên gấm gởi cho chồng của Tô Huệ đời Tiền Tần; 2. Ví cho văn từ đẹp đẽ)
梁尘 liáng chén 比喻嘹亮動聽的歌聲。(chỉ giọng hát lảnh lót dễ nghe)
解佩人 giải bội nhân: Chỉ người phụ nữ xinh đẹp. Trong “Lạc Thần Phú” của Tào thực kể ông đã từng gặp Nữ thần Lạc Thuỷ và “cởi ngọc bội” để bày tỏ tình yêu của mình. Về sau trở thành điển cố chỉ cho sự bày tỏ tình yêu với phụ nữ.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời