Dưới đây là các bài dịch của (Không rõ). Tuy nhiên, Thi Viện hiện chưa có thông tin tiểu sử về dịch giả này. Nếu bạn có thông tin, xin cung cấp với chúng tôi tại đây.

 

Trang trong tổng số 58 trang (573 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Điếu Phan Đình Phùng (Phan Trọng Mưu): Bản dịch của (Không rõ)

Giật giải thi đình ông bậc nhất,
Dựng cờ khởi nghĩa ông đầu đàn.
Trung trinh chẳng thẹn nhà gia thế,
Chính trực còn truyền tiếng gián quan.
Một tấm can tràng vầng nhật tỏ,
Mười năm tâm sự bụi tro tàn.
Than ôi, chính khí về sông núi,.
Khóc bác Châu Phong chén rượu tràn.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Điếu Phan Đình Phùng (Phan Trọng Mưu): Bản dịch của (Không rõ)

Thi đình ông đỗ trạng nguyên,
Cần vương giết giặc ông trên mọi người.
Trung trinh xứng đang con nòi,
Triều đình nổi tiếng gián đài thẳng ngay.
Can tràng sáng chói mặt trời,
Mười năm tâm sự gửi nơi tro tàn.
Khí thiêng trở lại hà san,
Khóc dâng chén rượu viếng hồn Châu Phong.


[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Khốc Cao Thắng (Phan Đình Phùng): Bản dịch của (Không rõ)

Có chí không thành, anh hùng đã khuất;
Chưa thắng đã chết, ý trời ra sao?

Công muốn lập nên, gõ mái nặng thề trừ giặc nước;
Việc khôn tính trước, lên yên nay thấy vắng người này.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Điếu Lê Ninh (Phan Đình Phùng): Bản dịch của (Không rõ)

Tuy rằng thành bại tự trời, tiếng xướng nghĩa trước tiên, còn truyền Nghệ Tĩnh;
Than nhẽ anh hùng không đất, tiết phò vua cao cả, khá sánh Hồng Lam.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Ký Phan Trọng Mưu (Phan Đình Phùng): Bản dịch của (Không rõ)

Ba đời khanh tướng nhà ta,
Đạo binh năm trước, sơn hà cõi xưa.
Người đồng chí, nỗi tương tư,
Trông thời thế những riêng như hổ mình.
Nhà nho khôn chước thanh bình,
Nhà tài quắc thước đã đành có ai?
Năm canh lòng những bồi hồi,
Xa xa nay cũng thấu ngoài cửa viên.

Ảnh đại diện

Nhâm Thân khoa tiến sĩ đề danh ký (Nhữ Đình Toản): Bản dịch của (Không rõ)

Hoàng triều trung hưng đã được 14 đời, bốn biển yên bình, cơ đồ càng thêm vững chắc.

Kính vâng: Hoàng thượng quẻ Thái lập mệnh, đức Kiền giữ ngôi. Thực nhờ Đại nguyên suý Thống quốc chính Thượng sư Thượng phụ Minh vương sáng công uy vũ, văn trị sáng ngời. Mùa đông năm Nhâm Thân thi hội cho các cống sĩ trong nước. Đô đốc Thiêm sự trí sĩ khởi phục ngũ lão Vinh quận công Đặng Đình Trứ làm Đề điệu, Nhập thị Bồi tụng Phó đô ngự sử Bảo Lĩnh hầu Trần Danh Ninh làm quyền Tri cống cử, Bồi tụng Hàn lâm viện Thừa chỉ Đạo Phái bá Dương Công Chú làm Giám thí. Qua bốn trường, lấy trúng cách bọn Lê Quý Đôn 6 người. Tháng 12 điện thí, ban cho bọn Lê Quý Đôn đỗ cập đệ và xuất thân có thứ bậc khác nhau. Lại sai khắc tên lên đá để truyền tới lâu dài.

Bia dựng tháng hai niên hiệu Lê Cảnh Hưng thứ 14 (1753).

Tiến sĩ khoa Bính Thìn, Nhập thị Bồi tụng Hình bộ Tả thị lang Tri Hàn lâm viện sự Bá Trạch hầu Nhữ Đình Toản vâng sắc soạn.

Tham tụng Thiếu bảo ngũ lão Thượng thư Bộ hộ kiêm Đông các Hiệu thư Kiều quận công Nguyễn Công Thái vâng sắc nhuận.

Ảnh đại diện

Hoạ Hồ chủ tịch tặng thi (Bùi Bằng Đoàn): Bản dịch của (Không rõ)

Sắt đá một lòng vì chủng tộc,
Non sông muôn dặm giữ cơ đồ.
Biết Người việc nước không hề rảnh,
Vung bút thành thơ đuổi giặc thù.

Ảnh đại diện

Hồng Đức thập bát niên Đinh Mùi tiến sĩ đề danh ký (Thân Nhân Trung): Bản dịch của (Không rõ)

Trời mở thái bình thịnh trị muôn năm cho nước nhà, tất sinh hiền tài để giúp nước. Đó là vì sự hưng thịnh của trị đạo, giáo hoá có gốc ở sự thu dùng hiền tài. Có nhiều hiền tài hay không là do ở sự giáo dưỡng. Kinh Thi có câu: “Hiền sĩ tuấn kiệt, sinh ở nước vua”. Lại có câu: “Chu vương tuổi cao, lẽ nào không trồng người”. Như vậy, mở nền trị bình lâu dài, nếu không có nhiều nhân tài thì sao mà làm được?

Kính nghĩ thánh triều: Thái Tổ Cao hoàng đế từ lúc mới thay đổi mệnh trời, sáng lập triều đại đã lấy việc xây học hiệu, giáo dưỡng hiền tài làm việc trước tiên. Liệt thánh nối truyền trước hết lo mở khoa thi chọn kẻ sĩ, xếp đặt quan tước, quy mô thật rộng lớn.

Hoàng thượng trung hưng, mở rộng quy mô, luôn nghĩ cầu trị, sẵn lòng dùng Nho, đến nay đã 28 năm, mở khoa thi lớn cả thảy chín lần. Bèn đến tháng 3 năm Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (1486), Bộ Lễ theo lệ cũ, vâng mệnh thánh minh, thi Hội các sĩ nhân trong nước, lựa chọn hạng ưu tú được 60 người.

Ngày mồng 7 tháng 4, Hoàng thượng ngự ở hiên điện, ra câu hỏi về đạo trị nước. Sau khi xem quyển thi, lại gọi các sĩ nhân hạng ưu vào cửa Nguyệt Quang, đích thân xét định thứ bậc. Lấy Trần Sùng Dĩnh đỗ đầu, Nguyễn Đức Huấn đỗ thứ hai, Thân Cảnh Vân đỗ thứ 3, đều ban cho hạng Tiến sĩ cập đệ; bọn Vũ Cảnh 30 người được ban Tiến sĩ xuất thân; bọn Phạm Trân 27 người được ban đồng Tiến sĩ xuất thân. Đó là sự tuyển chọn rất thận trọng vậy.

Ngày mồng 4 tháng 5, Hoàng thượng ngự điện Kính Thiên, loa truyền gọi tên người thi đỗ, các quan mặc triều phục chúc mừng, rước bảng vàng treo ngoài cửa Đông Hoa. Sĩ tử, dân chúng kéo nhau đến xem, đều bảo: đời thánh văn minh, nhân tài đông đảo, thật là cuộc gặp gỡ tốt đẹp của đời thịnh. Việc ban thưởng phẩm vật nghi thức y như điển cũ. Hoàng thượng cho rằng việc ban ân sủng chỉ vẻ vang nhất thời, còn họ tên phải khắc vào bia đá mới có thể truyền tới lâu dài. Bèn sai Bộ Công mài đá đề danh, lại sai thần là Nhân Trung viết bài ký ghi lại sự việc.

Thần trộm nghĩ: Nhân tài phồn thịnh vẫn quan hệ ở khí chất biến hoá của trời đất, nhưng chủ yếu vẫn do ở nền giáo hoá của bậc thánh nhân. Bởi vì khí chất trời đất biến hoá thì nguyên khí hội hợp rồi lan toả bàng bạc khắp nơi, cho nên mới có số nhiều đông đảo. Phải nhờ có giáo hoá của thánh nhân thì văn đức mới được tôi luyện hun đúc, tạo nên cảnh tốt đẹp đượm đà. Khổng Tử nói: “Khoảng đời Đường Ngu là thời thịnh”, đó là do khí chân nguyên hội hợp mà nên chăng? Kinh Thi nói: “Người xưa không biết chán, kẻ tài tuấn giỏi giang”, đó là sự hun đúc văn đức chăng?

Nay khí hoá thuần nhất rộng toả, trị giáo sáng tỏ đẹp cùng trời đất, sự hưng thịnh sánh ngang đời Ngu, Chu. Nhân tài đông đảo hơn thuở trước, kén được người giỏi nhiều gấp mấy ngày xưa, đủ sáng soi cho những thành tựu của nền giáo hoá, là biểu hiện tốt đẹp của nước nhà. Kẻ sĩ được đề danh vào bia đá này, thật may mắn biết bao! Cho nên phải đem lòng trung nghĩa tự hẹn với mình, làm sao danh và thực hợp nhau, làm những việc hợp sở học để làm nên sự nghiệp to lớn quang minh, khiến thiên hạ đời sau phải nhón chân lên mà nhắc nhở thanh danh, mến mộ khí tiết. Ngõ hầu trên không phụ ơn triều đình dưỡng dục, dưới không phụ hoài bão thường ngày thì tấm đá khắc ra sẽ đời đời không mục vậy. Thảng hoặc có người ngoài có vẻ văn chương mà trong đức hạnh thiếu phần tu dưỡng, khiến cho cái mà người ta đọc được trên bia không giống như dư luận mà họ nghe biết, việc làm trái với sở học, làm huỷ hoại hạnh kiểm, điếm luỵ danh giáo thì là vết nhơ cho tấm đá này. Thế chẳng phải ý nguyện triều đình trông mong ở kẻ sĩ, cũng chẳng phải là cách kẻ sĩ dùng để tự đối đãi mình.

Ôi! Khi nhỏ đi học, khi lớn thực hành, đọc hết kinh sách để đem ra áp dụng hết mức, người ta đều có chí hướng ấy. Vậy thì từ nay về sau, kẻ sĩ sinh ở đời này, đọc bài văn này, nhìn tấm đá này phải nên suy nghĩ thế nào? Kính cẩn chép vào đá, ngõ hầu tỏ ý với tương lai.

Phụng trực đại phu Hàn lâm viện Thừa chỉ Đông các Đại học sĩ Tư chính Thượng khanh Thân Nhân Trung vâng sắc soạn.
Mậu lâm tá Lang trung thư giám Điển thư Nguyễn Cận vâng sắc viết chữ (chân).
Cẩn sự lang Kim quang môn Đãi chiếu Nguyễn Nhân Huệ vâng sắc viết chữ triện.
Bia dựng ngày 15 tháng 8 năm niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (1487).


Bản dịch do Viện Hán Nôm công bố.
Ảnh đại diện

Sư tử và bức tượng (Ngọc Châu): Bản dịch của (Không rõ)

The Lion and the Statue

A Man and a Lion were discussing the relative strength of men and lions in general. The Man contended that he and his fellows were stronger than lions by reason of their intelligence. “Come now with me,” he cried, “and I will soon prove that I am right.” So he took him into the public gardens and showed him a statue of Hercules overcoming the Lion and tearing his mouth in two. “That is all very well,” said the Lion, “but proves nothing, for it was a man who made the statue.”

We can easily represent things as we wish them to be.

Ảnh đại diện

Tên trộm trẻ tuổi và bà mẹ (Ngọc Châu): Bản dịch của (Không rõ)

The Thief and his Mother

A Boy stole a book from a schoolmate, and took it home to his Mother. This was his first theft, but under his mother’s commendation he continued to pilfer till he reached man’s estate, when, at last, he was taken in the act, and led away to public execution.

His Mother followed, tearing her hair in sorrow, whereon the young man said, “I wish to say something to my Mother in her ear.”

She approached him when, seizing her ear in his teeth, he bit it off. Upbraiding him for his unnatural act, he replied, “Ah, if you had corrected me when I first stole the school-book, I should not have come to this disgraceful end.”

Trang trong tổng số 58 trang (573 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] ... ›Trang sau »Trang cuối