Đương nhiên với những điều kiện ấy, Tôn Quyền, Chu Du không chấp nhận được. Nhận như thế khác gì bằng lòng cho quân Lưu Bị sẽ hợp cùng Tây Xuyên mà tiêu diệt quân Ngô chứ không phải hợp với Đông Ngô mà tiêu diệt Tây Xuyên nữa.
Trong tình trạng dằng co giữa Đông Ngô và lực lượng Lưu Bị, nếu Tây Xuyên biết lợi dụng thì chắc hẳn Tây Xuyên vững như bàn thạch.
Chẳng ngờ lại chính Lưu Chương đi mời Lưu Bị vào chiếm cứ Tây Xuyên. Tướng Tây Xuyên là Nghiêm Nhan gọi hành động này là: “ngồi một mình trong núi sâu lại thả hổ ra tự vệ” (Độc toạ cùng sơn, phóng hổ tự vệ”). Nguyên lai, từ khi Lưu Yên chiếm cứ Ích Châu, trước sau người bản địa vẫn không quy phục bởi vì Lưu Yên đã tiêu diệt một số lãnh tụ kính mến của họ, thêm nữa Lưu Yên còn mang một số dân nơi khác đến lập nền thống trị ở đây, khinh bỉ lăng nhục người bản địa.
Lưu Yên chết, Lưu Chương kế vị, Triệu Vĩ nổi loạn. Tuy Chương đàn áp nổi nhưng nội bộ chia bè, chia phái. Ngoài mặt tuy có vẻ an bình, nhưng nếu bất cứ lúc nào xẩy chuyện thì sự biến loạn cũng rất dễ dàng.
Năm Kiến An thứ 16, Tào Tháo cất quân đánh Trương Lỗ, tin này truyền đến Ích Châu, thủ hạ của Lưu Chương là Trương Tùng nói với Lưu Chương rằng: “Hán Trung là cửa ngõ của Ba Thục, nếu Tào Tháo mà chiếm cứ được Hán Trung thì Ba Thục nguy mất. Vả lại các tướng Ba Thục như bọn Lý Dị, Bàng Hi không chống nổi Tào Tháo đâu. Nay có Lưu Bị là họ hàng với chúa công, Bị giỏi dùng binh, chẳng bằng ta vời Lưu Bị đến đánh Trương Lỗ giữ Hán Trung thì không còn lo chi Tào Tháo.”
Lưu Chương cho là phải, sai Pháp Chính dẫn bốn ngàn quân đi đón Lưu Bị. Pháp Chính đưa cho Lưu Bị một bức thư của Lưu Chương viết rằng:
“Em là Lưu Chương xin có mấy lời kính gởi lên tôn huynh Huyền Đức tướng quân, lâu nay Em vẫn khâm phục uy trời, nhưng vì đường sá gập ghềnh, chưa kịp cống hiến, rất là áy náy không yên. Em thường nghe nói xấu tốt hoạn nạn cùng cứu giúp nhau, bè bạn còn thế huống chi chỗ bà con họ hàng.
Nay Trương Lỗ ở phía Bắc, thường muốn cất quân xâm phạm bờ cõi. Em chẳng được an tâm nên cho người dâng thư này xin ý kiến tôn huynh. Nếu tôn huynh nghĩ đến tình nghĩa Anh Em họ hàng thì mang quân mã, tiêu diệt giặc cướp, giúp đỡ nhau mãi mãi, sẽ xin báo đáp xứng đáng. Thư chẳng hết lời, mong tôn huynh chiếu cố.”
Trên hình thức, việc Lưu Chương mời Lưu Bị vào Tây Xuyên tiêu diệt Trương Lỗ, chiếm Hán Trung, Lưu Bị thế mạnh làm bình phong che đỡ mặt Tào Tháo cho Tây Xuyên quả là có kế hoạch tính toán hẳn hoi.
Nhưng xét sâu vào kế hoạch thì tính toán ấy chỉ có hình thức, chỉ biết nhìn hiện tượng. Lưu Chương đã bỏ quên quy luật phát triển của chính trị là nội dung và bản chất. Hơn nữa Lưu Chương cũng không nhận thức rõ tình trạng nội bộ Tây Xuyên như thế nào. Ngay khi liên lạc được với Lưu Bị, Trương Tùng và Pháp Chính đã âm mưu với Bàng Thống giết luôn Lưu Chương giữa cuộc hội đàm giữa Chương và Bị ở Bồi Thành, việc làm của Pháp Chính và Trương Tùng đều do tranh chấp bè phái mà ra. Nhưng Lưu Bị vốn không có khả năng bạo động, khả năng âm mưu, nên không nghe. Cơ sở lý luận trên chính sách của Lưu Bị đối phó với Tào Tháo bao giờ cũng là:
- “Ta địch với Tào Tháo khác nào nước địch với lửa. Tháo vội vàng, ta thư thả. Tháo bạc ác, ta nhân từ. Tháo dối trá, ta thực thà. Việc gì ta cũng phải khác Tháo thì mới thành công. Nếu vì một chút lợi nhỏ mà bỏ cả tín nghĩa với thiên hạ, ta không nỡ làm”.
Lưu Bị tới Bồi Thành gặp Lưu Chương, Chương cấp cho Lưu Bị rất nhiều binh mã, lương thực tiền bạc. Cho quyền Lưu Bị điều khiển quân đội ở Bạch thuỷ quan để đánh Trương Lỗ.
Lưu Bị thêm thế lực rồi, chẳng những không đi đánh Trương Lỗ ngay, Bị còn đồn trú quân tại huyện Hà Manh, vận dụng chính trị tranh thủ nhân tâm bằng cách thi ân bố đức.
Điểm này cho thấy rằng Lưu Bị đâu có phải là người thiếu thủ đoạn. Nếu Lưu Bị làm theo kế Trương Tùng, Pháp Chính thì đương nhiên sẽ gặp khó khăn vì quân dân Tây Xuyên phản đối kháng cự, đẩy Lưu Bị vào con đường không có lối thoát.
Trở về sự kiện Tào Tháo mang quân đánh Trương Lỗ, lúc sửa soạn vừa xong thì mặt Tây, Hàn Toại, Mã Siêu cũng rục rịch khiến Tháo phải đích thân Tây chinh. Việc đánh Trương Lỗ vì thế phải đình chỉ.
Năm Kiến An thứ 17, Tào Tháo lại khởi binh đánh Tôn Quyền. Quân Tháo ầm ầm kéo đến Nhu Tu. Hai bên cầm cự nhau chừng hai tháng, đánh mấy trận, khi được khi thua. Qua tháng giêng, mưa tầm tã, ngòi lạch đầy nước, quân sĩ ở trên đám bùn lầy vô cùng khổ sở. Tháo lo lắm, hội các tướng lại thương nghị, người thì khuyên rút quân về, kẻ thì nói rằng nên nhân lúc mùa xuân ấm áp cứ đánh. Tháo trong bụng phân vân, chợt có sứ giả Đông Ngô đưa thư đến, Tháo mở thư ra xem, đại ý viết:
Tôi với Thừa tướng cùng là bầy tôi nhà Hán. Thừa tướng không biết báo ân nước, trị an nhân dân mà cứ động việc binh đao, tàn hại sinh linh, người nhân đức đâu có thế. Hiện nay mưa xuân đang thịnh, ông nên quay về đi. Nếu không lại có vạ Xích Bích nữa đó.
Ông nên nghĩ kỹ.
Sau thư lại phê hai câu rằng:
Ông mà không chết,
Tôi cũng khó ngồi yên.
Tào Tháo xem xong cười mà nói rằng:
Tôn trọng Mưu biết điều lắm.
Lập tức hậu thưởng cho Sứ giả, truyền lệnh rút quân về rồi sai quan Thái thú Lư Giang là Chu Quang trấn giữ Hoàng thành còn mình thu đại quân về Hứa Xương. Tôn Quyền cũng thu quân về Mật Lăng, bàn với các tướng rằng:
Tào Tháo tuy đã về Bắc, nhưng Lưu Bị còn ở Hà Manh. Sao không đem quân chống Tào đến lấy Kinh Châu?
Kết quả cuộc chiến tranh Tôn-Tào ở Nhu Tu đã rõ rệt như thế. Nhưng ở bên Tây Xuyên, để thực hiện chính sách xâm chiếm Tây Xuyên, Lưu Bị cùng Bàng Thống lại nguỵ tạo một tình huống khác hẳn để lừa Lưu Chương.
Bàng Thống khuyên Lưu Bị điều đình với Lưu Chương hãy tạm gác việc chinh phạt Trương Lỗ mà cấp cho mình quân lương để đi cứu viện cho Tôn Quyền. Nhưng lần này kế hoạch không thi hành được trót lọt như các lần trước vì Lưu Chương đã bắt đầu nghi ngờ, nên chỉ cấp binh lương cho Lưu Bị một cách rất hạn chế. Thấy cơ sự này, Lưu Bị bèn vấn kế Bàng Thống, Bàng Thống bầy cho Lưu Bị ba mẹo:
Kén tinh binh, không kỳ ngày đêm đánh úp Thành Đô.
Quay binh về cửa ải Bồi Quan, giả tiếng về Kinh Châu, bắt giết tướng giữ ải, cướp lấy cửa ải rồi sẽ tiến quân vào Thành Đô.
Lui về Bạch Đế thành liền đem rút quân về Kinh Châu, dần dần về sau lại liệu kế khác.
Huyền Đức nói:
Mẹo thứ nhất táo bạo cấp bách quá, mẹo thứ ba trì trễ quá. Chỉ mẹo thứ hai có thể theo được.
Lưu Bị mới viết thư cho Lưu Chương nói thác rằng Tào Tháo sai Nhạc Tiến đem quân đến Thanh Nê, các tướng không cự nổi nên phải về cứu, lưu mấy lời tạm biệt.
Cùng lúc ấy thư của Trương Chiêu bên Giang Đông gửi cho Lưu Chương vạch vòi âm mưu của Lưu Bị vừa tới nơi, lại bị vụ Trương Túc tố cáo Trương Tùng bội phản, Lưu Chương tỉnh ngộ, sai chém Trương Tùng và ra lệnh khắp các cửa ải phải đề phòng nghiêm ngặt, cấm không cho người nào được phép vãng lai với Lưu Bị.
Nhưng mọi biện pháp chống giữ của Lưu Chương vô hiệu quả, vì thời thế đã chín rồi.
Lưu Bị bắt đầu chiếm Bồi Thành, đánh sang Lạc huyện. Quân Lưu Chương đến tiếp cứu chỗ nào cũng thua. Năm Kiến An thứ 19, Lưu Bị vây Thành đô, Lưu Chương chống giữ thêm mấy ngày rồi đầu hàng. Toàn bộ Ích Châu rơi vào tay Lưu Bị. Kế hoạch của Gia Cát Lượng đến đây có thể nói đã thực hiện được quá nửa.
Năm Kiến An thứ 17 và 18, tranh chấp Lưu Chương, Lưu Bị chưa thực sự bùng nổ ác liệt, lại thêm Mã Siêu ở Quan Trung khuấy loạn nên kế hoạch chiếm Hán Trung của Tào Tháo không sao thực hiện được. Tháo lưu Hạ hầu Uyên tại Quan Trung, ròng rã tác chiến mãi tới năm Kiến An thứ 19 mới bình định xong lực lượng Mã Siêu, luôn cả vùng Lương Châu nữa, thời gian này Lưu Bị cũng giải quyết hoàn toàn đất Tứ Xuyên.
Năm Kiến An thứ 22, tháng 3, Tào Tháo một lần nữa đề cập đến vấn đề tấn công Trương Lỗ. Bên Lưu Bị, một lần nữa, Tôn Quyền lại sai người sang đòi Kinh Châu. Bị vẫn thoái thác, tạ sự rằng quân lương hãy còn thiếu, đợi lấy nốt Lương Châu, sau sẽ trả Kinh Châu. Tôn Quyền giận lắm, hội các tướng thảo luận tuyên chiến. Lưu Bị cũng sẵn sàng chống cự, sai Quan Vũ chặn giữ vùng Ích Dương còn tự mình thống lĩnh đại quân dàn ra vùng Công An. Nhưng khi nghe tin Tào Tháo đã đánh vào Hán Trung rồi, Lưu Bị đành phải quay về chính sách mềm dẻo, đem đất Kinh Châu chia ra hai mảnh, từ Giang Hạ xuống phía Nam thuộc Tôn Quyền, từ Nam Quận xuống phía Nam thuộc Lưu Bị.
Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể đầu đuôi việc cắt Kinh Châu như sau:
- Tào Tháo lấy xong Hán Trung, quan chủ bộ là Tư Mã Ý hiến kế rằng Lưu Bị dùng mẹo lừa, cố cướp lấy Ích Châu của Lưu Chương, nhân dân Thục chưa quy phục. Nay Chúa công đánh phá được Hán Trung, chấn động cả Ích Châu, nên tiến binh đến đánh cho mau thì đất này vỡ lở. Có câu rằng “Dẫu có trí khôn không bằng thừa thế”. Dịp này chúa công chớ nên để lỡ.
Lưu Hoa nói:
- Tư Mã Trọng Đạt nói phải đấy. Nếu để chậm thì Gia Cát Lượng sáng suốt việc trị nước mà làm tướng văn, bọn Quan Trương trùm ba quân mà làm tướng võ. Dân Thục yên rồi chia ra giữ các nơi cửa ải thì không sao lay chuyển được đâu.
Tháo nói:
- Quân sĩ đi xa mệt mỏi lắm rồi, hãy nên cho nghỉ ngơi đã.
Liền đóng quân ở yên một chỗ.
Nói về nhân dân Tây Xuyên, nghe tin Tào Tháo lấy được Đông Xuyên (tức Hán Trung) rồi, trong một ngày ba lần kinh hãi. Huyền Đức đâm lo, mời Khổng Minh đến thương nghị, Khổng Minh nói:
- Tôi có một kế này, khiến cho Tào Tháo phải rút quân về.
Huyền Đức hỏi mẹo gì thì Khổng Minh đáp:
- Tào Tháo chia quân ra đóng ở Hợp Phì là có ý sợ Tôn Quyền. Nay nếu ta đem ba quận Giang Hạ, Tràng Sa, Quế Dương trả cho Đông Ngô, sai một biện sĩ sang bày tỏ lợi hại, xui Đông Ngô đánh Hợp Phì, Tào Tháo tất phải quay binh về mặt Nam.
Trương Liêu nghe tin Tôn Quyền sắp đem thêm quân đánh, sợ Hợp Phì ít quân không chống nổi, vội vã sai Tiết Đễ gấp rút về Hán Trung xin viện binh. Tháo bàn với các quan rằng:
- Bây giờ có nên đánh Tây Xuyên nữa không?
Lưu Hoa thưa:
- Chi bằng hãy đem quân về cứu Hợp Phì, nhân thể đánh lấy Giang Nam.
Sở dĩ Tháo không nghe lời Lưu Hoa và Tư Mã Ý đánh Tây Xuyên ngay, vì mưu kế của Ý và Hoa tuy đúng nhưng chỉ đúng có một mặt và vì tính chất phiến diện ấy sẽ đẩy việc làm vào cảnh phiêu lưu. Đánh Tây Xuyên có thắng chăng nữa cũng phải mất hàng năm, trong khi chưa khắc phục xong Tây Xuyên mà Tôn Quyền đánh úp mặt sau thì sao? Nhận thức chính trị lão luyện của Tào Tháo vượt xa Tư Mã Ý nhiều.
Xét lợi hại về sự chia đất Kinh Châu: bên Lưu Bị phái Quan Vân Trường đóng ở Giang Lăng; đất này trước vốn thuộc quyền Chu Du cai quản, nay chính thức thuộc Lưu Bị; bên Tôn Quyền, Lỗ Túc đóng ở Lục Khẩu, vậy bên Lưu Bị lợi hơn.
Lã Mông là người thế nào?
Lã Mông thuở nhỏ cùng khổ, phải dùng đến sức lực rất nhiều để kiếm ăn, vì sức lực cường kiện nên chuyên học võ, không hề đọc sách. Có một hôm, Tôn Quyền nói với Lã Mông và Tưởng Khâm rằng: “Hai người nay đều làm chức cao trong triều, cần phải đọc sách để tăng thêm học vấn mới được”.
Lã Mông nói:
- Thưa Chúa công, hiềm vì việc quân bề bộn nên không có thì giờ đọc sách.
Tôn Quyền nói:
- Ta bảo thế không có nghĩa là đòi hỏi ngươi trở thành một người thông kim bác cổ. Ta chỉ muốn ngươi đọc sách để hiểu biết chút ít trí thức kinh lịch tiền nhân, rồi ra sẽ có lúc phải dùng đến. Đức Khổng Tử bảo: “Hì hục quên ăn quên ngủ ích gì, hãy đi tìm sách mà đọc”. Vua Hán Quang Vũ khi còn chinh chiến sách chẳng rời tay, Tào Tháo đã già mà vẫn chăm đọc sách. Sao nhà ngươi không biết cố gắng làm vậy?”.
Nghe lời Tôn Quyền, Lã Mông khổ công đọc sách thấu đáo nghĩa lý. Ngày mà Lỗ Túc đến thay chức Chu Du, Túc cùng Lã Mông thương nghị. Những hiểu biết của Lã Mông làm Túc ngạc nhiên. Túc nói với Lã Mông rằng: “Tôi vẫn nghĩ ông chỉ biết nghề võ, ai ngờ Lã Mông bây giờ không phải Lã Mông ngày trước”. Lã Mông cười đáp: “Con người hễ cứ biệt nhau, cách ba ngày sau thì lại cần phải trông hiểu nhau bằng tầm mắt khác”. Chủ trương của Lã Mông đối với vấn đề Kinh Châu giống hệt như ý Chu Du. Mông muốn đem quân Giang Đông đóng làm ba nơi để tạo thế ỷ giốc phòng thủ. Một là Giang Lăng, hai là Bạch Đế, ba là lập một đạo quân tuần phòng suốt dọc sông. Thực hiện thế phòng thủ này, tự nhiên cần phải chiếm Kinh Châu.
Trước khi đi kế nhiệm Lỗ Túc, Tôn Quyền vời Lã Mông vào thương nghị, hỏi rằng: “Lấy Kinh Châu hơn (hay?) là lấy Từ Châu hơn?” Lã Mông trả lời: “Từ Châu khó lòng đoạt cho xong vì đất này là bình nguyên, lợi cho mã đội, mà phải có tới mười vạn quân mới giữ nổi. Chẳng bằng lấy Kinh Châu, chiếm cứ cả một con sông dài, người Giang Nam lại giỏi về thuỷ chiến, rất lợi cho miền Nam”.
Tôn Quyền chịu là phải.
Đông Ngô ngày đêm nghiên cứu kế hoạch chiếm đoạt Kinh Châu. Trong khi bên Lưu Bị rất sơ hở việc phòng giữ mặt này, hầu như không lưu ý gì đến quyết định cuộc hội đàm Lã Mông - Tôn Quyền về vấn đề Kinh Châu.
Năm Kiến An thứ 23, Lưu Bị theo kế Pháp Chính tấn công Hán Trung, khiến Tào Tháo phải Tây chinh, đem quân đến Tràng An.
Năm Kiến An thứ 24, Lưu Bị chém Hạ Hầu Uyên ở núi Định Quân. Tào Tháo tiến đánh, Lưu Bị phải lui đóng chẹn các nơi hiểm yếu, nhất định không chịu giao phong với quân Nguỵ nữa. Tào Tháo không biết làm thế nào, ít lâu đành thoái binh. Chiếm được Hán Trung, Lưu Bị tỏ ra đắc ý, nhưng sự đắc ý ở đây đã tạo cho Lưu Bị một thất ý đau đớn ở bên Kinh Châu.
Chiếm xong Hán Trung, các tướng của Lưu Bị hội nhau suy tôn Huyền Đức lên ngôi Vua. Tào Tháo ở Nghiệp Quận nghe tin Lưu Bị làm lễ nhận Miện phục và Tỷ thụ tại Miên Dương, định lập tức truyền lệnh khởi hết quân trong nước sang hai Xuyên để quyết sống mái với Hán Trung Vương.
Tư Mã Ý can rằng:
- Tôn Quyền ở Giang Đông, gả em gái cho Lưu Bị, rồi lại thừa cơ bắt em về. Lưu Bị thì chiếm Kinh Châu, không trả Đông Ngô. Bởi thế hai bên vẫn thù oán nhau. Nay ta nên sai người đến dụ Tôn Quyền, sai hắn cất quân sang đánh Kinh Châu. Lưu Bị tất phải mang quân đến cứu. Bấy giờ ta sẽ dẫn quân đến lấy Hán Trung, Lưu Bị đầu đuôi không cứu được nhau tất nhiên phải nguy khốn.
Tháo sai Mãn Sủng đưa thư sang hẹn Tôn Quyền đánh Kinh Châu. Tôn Quyền nhân vừa bị Quan Vũ nhục mạ, ý muốn cất quân đánh ngay. Mưu thần Bộ Trắc nói: “Hiện nay Tào Nhân đóng ở Tương Dương, Phàn Thành không phải cách trở sông to, ngay đường bộ cũng lấy được Kinh Châu, làm sao không đánh chiếm lấy, lại phải xui Đông Ngô ta. Cứ lẽ ấy mà suy thì đủ biết bụng dạ Tào Tháo. Chúa công nên sai sứ sang Hứa Đô, xui Tào Tháo khởi binh mặt bộ trước đến lấy Kinh Châu. Vân Trường tất kéo quân ra đánh Phàn Thành. Nếu Vân Trường đi rồi, chúa công sai một tướng đến ngầm lấy Kinh Châu, như thế chỉ một trận là phá xong”.
Tôn Quyền nghe theo, sai người sang sông dâng thư nói với Tháo việc ấy. Tháo mừng rỡ, lập tức sai Mãn Sủng làm Tham mưu ra Phàn Thành giúp Tào Nhân bàn việc cất quân. Một mặt đưa hịch sang Đông Ngô, sai cất quân đi đường thuỷ tiếp ứng.
Vân Trường ở Kinh Châu phải đương đầu với hai mặt.
Người đời sau bênh vực Vân Trường đều cho rằng cả hai mặt mà Quan Vũ phải đối phó đều rất khó khăn. Thật ra, sự thất bại hoàn toàn do bởi cái tâm chất kiêu căng và kém khả năng chính trị của Vân Trường. Phê bình Vân Trường với việc Kinh Châu, một nhà học giả Trung Hoa viết tám chữ: “Dũng cảm hữu dư, Chính trị bất túc”. Chính vì thừa dũng cảm kết hợp với thiếu chính trị mà thành phiêu lưu vậy.