Trang trong tổng số 100 trang (999 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [87] [88] [89] [90] [91] [92] [93] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

Mượn là gì?
Mượn là lấy ở người dùng cho mình. Mượn lực người làm lực ta, mượn công người bồi đắp việc ta. Ông Quản Trọng nói: Thánh nhân thiên dụng phi kỳ hữu sử phi kỳ nhân. (Bậc thánh dùng được cả những gì mình không có, sai khiến cả những người không phải của mình). Tỉ dụ: Tử Cống mượn Ngô đánh Tề để cứu nước Lỗ, mượn nước Tấn để ngăn chặn tham vọng của nước Ngô.

Hết thảy mọi thành công đều nhờ biết lợi dụng hết mức và đúng mức các lực lượng cần thiết. Hán Bái Công chỉ là một người đình trưởng nhưng nhờ tài dụng nhân nên thành công. Lý Tư có tài, tuy nhiên nếu không nhờ Lã Bất Vi làm sao Lý Tư có thể đắc chí ở Tần? Lã Bất Vi cực giàu có nhưng cũng phải nhờ Tử Sở (còn Tử Sở?) cũng phải dựa vào Lã Bất Vi để gìn giữ cái thế của chính anh ta.

Muốn lấy ở người dùng cho ta, lấy lực người làm lực mình, mượn công sức người bồi đắp việc ta thì trước hết phải nghiên cứu để phát hiện ý muốn của sự vật (la découverte de la volonté des choses). Vị kỹ sư xây đập nước, điều kiện đầu tiên là phải biết dòng thác đổ theo chiều hướng nào đã. Nói rõ hơn, mượn và dựa chất chứa ý nghĩa: Tìm được sự cộng tác chặt chẽ (La lutte est une perpétuelle collaboration)

Trong bức thơ gửi cho anh em đảng, một lãnh tụ chính trị danh tiếng Tây Phương viết: “Tất cả nghệ thuật đấu tranh chống bạo quyền của ta là phải nghiên cứu để có thể sử dụng được mọi việc, mọi vật. Đồng thời sức tạo khả năng lãnh đạo toàn bộ phong trào”.
Tào Tháo từ Đông Quân đánh vào Duyện Châu, lúc đi Tháo mang theo sứ mạng triều đình để dẹp phong trào đó mà gây binh quyền cho mình.
Khổng Minh cùng Lưu Bị lếch thếch đến Đông Ngô sau khi bỏ trốn khỏi Kinh Châu, nhờ Khổng Minh biết nắm vững tâm lý nóng nẩy kiêu hùng của hai vị lãnh tụ trẻ tuổi Đông Ngô nên lập kế vừa khích vừa thuyết phục để rồi mượn tay Đông Ngô mà xoay chuyển lại thời thế.

Cổ nhân nói:
“Bằng tạ giả, sự bán nhi công bội, thứ trí giả chi sở lạc vi chi dã. Mượn nổi, dựa được thì việc làm có nhiều hiệu quả, cho nên người trí giả thích nghĩ ngợi về điều ấy”.
Những lời trên, đáng để cho độc giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa suy nghĩ khơi đào thêm.
Bàn về những thất bại của Gia Cát Lượng
Thi gia Vương Việt làm mười bài thơ nhan đề là Long Trung thập vịnh. Lời thơ trong Long Trung thập vịnh đều phảng phất xót thương thân thế sự nghiệp của vị anh hùng dân tộc.

Bài chiêm bái giếng Đại Giốc, Vương Việt viết:
Nhất mạch tâm tình khởi ngoạ long
Độc lân vị toại tế thời công
Cổ kim đa thiểu anh hùng lệ
Tận tại tiên sinh thứ tỉnh trung
(những giọt lệ anh hùng kim cổ đều ở trong nước giếng nơi quê nhà tiên sinh. Thất bại của Gia Cát Lượng trở thành thất bại điển hình, các nhà chính trị đời sau truyền nhiễm nho giáo, mỗi lần thất bại đều cảm thấy hay miễn cưỡng cảm thấy anh linh Gia Cát hiện về với họ.)

Sinh thời Khổng Minh, ông thường hoài bão:
Sử phi thường chi thế, kiến phi thường chi nghiệp (ở đời khác thường, làm sự nghiệp khác thường)
Cùng tác độc thiện kỳ thân, đạt tắc kiêm thiện thiên hạ (cùng thì tự tốt lấy ta, đạt thì đem hạnh phúc cho thiên hạ)
Thế mà rút cục sự nghiệp phi thường hỏng, độc thiện kỳ thân không được, kiêm thiên hạ cũng hão huyền. Mặc dù ông đã gắng hết lực mình cúc cung tận tuỵ, tử nhi hậu dĩ (chăm chỉ tận tuỵ, chết mới thôi). Tam quốc chí diễn nghĩa diễn tả tâm trạng Gia Cát lúc chết thật bi ai:
Khổng Minh gượng bệnh sai tả hữu vực lên chiếc xe nhỏ, ra trại đi xem các dinh. Gió thu thổi mạnh, lạnh buốt đến xương, mới thở dài than rằng: Từ đây ta không còn được ra trận đánh giặc nữa. Trời xanh thăm thẳm, giận này biết bao giờ nguôi.

Muôn việc chẳng qua do số phận
Người sao cưỡng được lòng trời.

Trước khi đi vào những thất bại thực tiễn của Khổng Minh tưởng cũng nên bàn qua vấn đề lòng trời, mệnh vận đối với người Trung Quốc. Có hai quan niệm về vấn đề này. Một tiêu cực mê tín dị đoan coi mệnh vận là bất di bất dịch do bàn tay tạo hoá định sẵn, quan niệm mê tín dị đoan được đại đa số quần chúng và ít nhiều trí thức giả tin theo. Còn rất ít phần trí thức biết trách nhiệm của mình thì coi mệnh vận và lòng trời là sự biến đổi tranh đấu không những con người có thể thay trời mà hành đạo. Như Trương Tải nói: Vì trời đất lập tâm, vì sinh dân lập mệnh, kế túc cái học gián đoạn của bậc thánh, vì vạn đời mở thái bình. Bởi vậy người chân trí thức không tin không sợ mệnh nghĩa là luôn luôn phải có thái độ thấy cơ hội thì làm (quân tử kiến cơ nhi tác). Ta khởi đầu cho người sau tiếp tục, thành bại không do một đại biến động.

Như thế sự thất bại của Gia Cát chỉ là thất bại của một chánh trị gia trước chính quyền toàn nước Trung Quốc. Nhưng nếu về công cuộc thống nhất lớn lao của dân tộc thì phần đóng góp của Khỏng Minh không phải nhỏ. Đứng trên lập trường trách nhiệm trí thức thì Khổng Minh không thất bại chút nào. Tinh thần “Tri bất khả nhi vi” trong nho giáo là tinh thần không vụ lợi, đã được Khổng Minh tu dưỡng đến cao độ. Trên thực tiễn chính trị, Gia Cát Lượng chịu đựng hai thất bại nặng nề có tính chất quyết định quân sự cũng như nhân sự là hai sở trường của Khổng Minh, tại sao ông lại để đến nông nỗi trời thăm thẳm, giận này biết bao giờ nguôi.

Lấy được căn cứ địa Tây Xuyên rồi, Gia Cát Lượng lập hai sách lược: Bình man và phạt Nguỵ.
Sách lược Bình man dẫn đến việc Nam Chinh vượt sông Lư Thuỷ, bẩy lần bắt bẩy lần tha Man Vương Mạnh Hoạch. Sách lược phạt Nguỵ dẫn đến việc sáu lần ra Kỳ Sơn.
Sách lược thứ nhất áp dụng lề lối công tâm chiến của Mã Tắc. Khổng Minh hoàn toàn thành công, các dân tộc biên cương không còn là mối lo sau lưng cho Thục nữa. Sách lược thứ hai hoàn toàn thất bại.

Thất bại trên sách lược phạt Nguỵ liên hệ đến vấn đề nhân sự. Sự thất bại không phải do Gia Cát mà ra, chủ yếu do lỗi Quan Vũ phá hoại chính sách Liên Ngô mà nên.
Gia Cát Lượng ngay từ lúc ở Long Trung đã nói đến đánh Nguỵ, ông dự định đem chủ lực ra vùng Hồ Bắc chứ không lấy Tứ Xuyên làm khởi điểm. Kế hoach của ông là lấy binh Kinh Châu đánh mạnh vào Uyển Lạc tức khu vực lòng ruột của thành Hứa Xương nhà Nguỵ. Ngoài ra binh Ích Châu Tân Xuyên đánh tới chỉ có nhiệm vụ bổ trợ.

Kinh Châu mất, chủ lực do Lưu Bị cầm đem tới cứu bị thua. Sách lược phạt Nguỵ đến lúc này chẳng qua chỉ còn là mớ giấy lộn. Chuyển binh quay vòng về Kỳ Sơn để đánh Trung Nguyên là một chuyện ảo tưởng. Đến việc sáu lần ra Kỳ Sơn, độc giả Tam Quốc chí diễn nghĩa sơ ý, không biết rằng sự việc xuất binh phạt bắc trước sau vỏn vẹn có năm lần. Tổng quát cả năm lần xuất binh, nói về chiến lược cơ bản đều thất bại, nói về chiến thuật quá nửa thành công. Tuy nhiên những thành công chiến thuật không cứu vãn nỗi thất bại chiến lược. Đấy là nguyên nhân khiến cho con người quân sự kỳ tài trở thành một nhân vật của vở bi kịch Tam Quốc, mà kẻ làm cho Gia Cát Lượng táng mạng không ai xa lạ, chính là Hán Thọ Đình Hầu Quan Vân Trường. Khổng Minh năm lần Bắc phạt, trên chiến thuật trừ lần thứ nhất Mã Tắc vi phạm tiết độ và lần thứ năm ông bị bệnh chết không gây được những thành tích lớn. Còn các lần khác, như lần thứ hai chém được tướng Nguỵ là Vương Song, lần thứ ba thu phục hai quận Vũ Đô và Âm Bình, lần thứ tư bắn chết Trương Cáp.

Cả năm lần xuất binh Gia Cát Lượng đều phải kiệt lực chống với kẻ thù ghê gớm của tất cả nhà quân sự là: vấn đề binh lương do đường giao thông khó khăn. Mặc dù ông đã phát minh ra trâu gỗ ngựa máy, nhưng cũng không lại. Rút hết kinh nghiệm của bốn lần trước, lần thứ năm Gia Cát Lượng giải quyết bằng phương pháp đồn điền, cho quân nhân tập cư với dân chúng vừa cày cấy giúp dân vừa tiến đánh Nguỵ quân. Tuy nhiên phương pháp đồn điền cũng chỉ tạm giải quyết được một phần rất nhỏ vì ruộng đất, cày cấy ở đây thiếu. Hơn nữa bên phía Nguỵ, Tư Mã Ý áp dụng chiến lược trường kỳ nhất định không chịu giáp chiến. Tam Quốc chí diễn nghĩa kể:

Khổng Minh dẫn một toán quân đóng ở gò Ngũ Trượng đã nhiều lần sai người ra khiêu chiến, Nguỵ quân nhất định không ra. Khổng Minh bèn lấy một cái khăn, cái yếm và đồ trắng của đàn bà đựng vào một cái hòm rồi viết thư sai người đưa đến trại Nguỵ.
Các tướng không dám giấu giếm, dẫn người đưa thư vào ra mắt Tư Mã Ý. Ý sai mở hòm ra xem thấy có yếm áo đàn bà và một phong thư. Trong thư nói rằng:

Trọng Đạt đã làm Đại Tướng, thống lĩnh quân Trung Nguyên, không dám mặc giáp cầm gươm để quyết sống mái mà chịu ngồi núp ở trong ổ trong hang để lánh lưỡi dao mũi tên, thế thì khác gì đàn bà? Nay sai người đưa khăn yếm, quần áo trắng của đàn bà đến, nếu không dám ra thì phải lạy hai lạy mà nhận lấy, nếu còn biết xấu hổ có chí khí người con trai thì phải phê vào giấy này, y hẹn ra giao chiến.

Tư Mã Ý xem xong trong bụng căm giận, nhưng cũng gượng cười nói rằng: Khổng Minh coi ta như đàn bà ư. Liền chịu nhận đồ ấy, trọng đãi người đưa thư.
Đánh Nguỵ chỉ còn một hy vọng nữa là Đông Ngô đánh úp Nguỵ mà thôi. Nhưng đến lúc Phí Vĩ đến báo cho Gia Cát biết rằng: Tào Tuấn nghe Đông Ngô ba mặt tiến quân, cũng dẫn đại quân đến Hợp Phì, sai Mãn Sủng, Diễn Lự, Lưu Thiệu chia quân làm ba mặt chống cự. Mãn Sủng bày mẹo đốt sạch chiến thuyền và lương thảo khí giới của Đông Ngô. Không làm nên chuyện gì, phải rút quân trở về.

Khổng Minh nghe tin ấy, thở dài một tiếng, không ngờ ngất đi ngã gục xuống đất. Mấy hôm sau Khổng Minh chết. Sách lược Bắc phạt thất bại hẳn.

Nói thất bại trên vấn đề nhân sự hay nói theo hiện đại nghĩa là thất bại trên chính sách cán bộ.

Chính sách cán bộ gồm có ba phần:
biết người
dùng người
Nuôi dưỡng, đào tạo tài năng

Thất bại trên chính sách cán bộ của Gia Cát Lượng gây nên với những nguyên nhân thuộc cả chủ quan lẫn khách quan.
Nguyên nhân khách quan là nước Thục không có nhân tài nhiều. Căn cứ vào sự kiện: Liêu Hoá làm tiên phong thì đủ rõ.

Thục trung vô đại tướng.
Liêu Hoá tác tiên phong.

Nếu ta chịu khó xem xét tỉ mỉ lý lịch các nhân vật trong pho Tam Quốc chí, sẽ thấy nhân tài phân bố ra sao? Đại khái chia làm bốn khu vực: khu Quan Trung, khu Trung Nguyên, khu Hoài Tứ và khu Kinh Tương. Riêng địa phương Tây Xuyên lại không phải là khu vực sản sinh nhân tài. Sở dĩ Tây Xuyên thiếu nhân tài vì lẽ: đây là khu vực mà nền giáo dục hãy còn lạc hậu. Trước kia do loạn ở Trung Nguyên, nhân tài di chuyển tới Tây Xuyên nhưng lúc thế chia ba đã rõ rệt, họ lại trở về Trung Nguyên hết.

Thêm vào đấy, chính sách vơ vét nhân tài của Tào Thào giỏi quá, theo Nguỵ Chí bản truyện thì Tào Tháo cần người tài giỏi như người chết khát đòi uống nước, khiến cho những lãng tử đa tài về quy phục Tháo đông như kiến.

Tam Quốc chí diễn nghĩa cho ta biết tình trạng thiếu cán bộ của Thục Quốc qua những sự kiện:
Khổng Minh thu quân thắng trận về trại, sắp sửa cất quân tiến đi. Có người ở Thành Đô lại báo tin Trương Bào mất, Khổng Minh khóc ầm lên, miệng thổ huyết, ngất đi, ngã lăn xuống đất. Chúng vội vã cứu dậy, từ đó mắc bệnh. (hồi thứ chín mươi chín)
Tư Mã Ý gọi người về hỏi han chuyện Khổng Minh ăn ngủ cùng là công việc nhiều ít ra sao.

Sứ giả bẩm rằng:
Thừa tướng tôi thức khuya dậy sớm, hình phạt từ hai chục roi trở lên cũng phải coi xét đến mà mỗi ngày chỉ ăn được vài thưng mà thôi.
Ý quay lại bảo với các tướng rằng:
“Khổng Minh ăn ít làm nhiều, sống lâu làm sao được” (hồi 103)

Nguyên nhân chủ quan là Khổng Minh chỉ biết người, biết dùng, nhưng không biết đào tạo người, thiếu hẳn kế hoạch bồi dưỡng cán bộ. Ông chết đi không có lấy một người đủ khả năng thừa kế sự nghiệp bỏ dở dang. Vì không ai lãnh đạo, nên ngay sau khi ông mất, nội bộ văn quan có tranh chấp giữa Phí Vĩ, Tưởng Uyển. Có một mình Khương Duy thì Duy lại vô quyền, hơn nữa Duy cũng chỉ giỏi việc quân cơ nhưng kém mặt chính trị.
Cổ nhân luận về kiểu mẫu một chính trị gia lý tưởng như sau:
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

“Đức hạnh cao diệu, dụng chỉ khả pháp. Kỳ đức túc dĩ lệ phong tục kiến lập pháp chế; cường quốc phú dân. Kỳ pháp túc dĩ chính thiên hạ, tư thông đạo hoá. Sách mưu kỳ diệu”

Ý nói: chính trị gia lý tưởng phải là người có nhãn quan xa rộng, nhận rõ thời đại, học vấn quảng bác, tư tưởng chu đáo, có kế hoạch an bang tế thế, giỏi ứng phó với hoàn cảnh nhân sự, can đảm gánh vác trách nhiệm biết đùng đạo đức, dám nói và dám làm.
Chỉ có Vũ hầu Gia Cát Lượng Khổng Minh là nhân vật duy nhất trong Tam Quốc có thể mang so sánh với mẫu người chính trị lý tưởng của cổ nhân mà thôi. Tuy nhiên Khổng Minh vẫn kém Tháo trên ý thức thực tiễn khả dĩ ứng phó với xã hội nhiễu nhương xã hội Tam Quốc.

Đọc lại những lời tha thiết trong bài biểu cuối cùng:
“Tôi chết đi không để trong nhà có tấm lụa thừa, hay có chút của riêng để phụ lòng bệ hạ đâu.”
Người đọc đều có chung một cảm giác yêu mến kính phục mẫu người chính trị lý tưởng Gia Cát Lượng.
Thất thủ Nhai Đình
Mã Tắc không tuân lời Gia Cát Khổng Minh để mất Nhai Đình thật là một vết thương chí mạng cho Vương nghiệp nhà Thục, đồng thời cũng là một thất bại lớn trong đời chánh trị của Khổng Minh. Mã Tắc còn gây nên chia rẽ trong nội bộ nước Thục để tạo thành môi trường cho sự đổ vỡ của nước Thục.
Sự thể như dưới đây:
Lưu Bị đến Ba Thục lập vương nghiệp, chính sách quy tụ nhân tài khi đem ra thực hiện, trên hiện tượng ta thấy có người bốn phương kéo tới, nhưng sự thực chủ lực cán bộ đều chỉ trông cậy vào tập đoàn trí thức vùng Kinh Châu.

Khổng Minh là thủ lãnh tập đoàn Kinh Châu.
Sau khi Lưu Bị chết, thì nhân sự Thục liền chia làm hai phái của tiên chủ và phái của Gia Cát.
Phái tiên chủ với các người cốt cán như: Nguỵ Diên, Trương Dực, Vương Bình, Hứa Từ, Tiều Chu, v.v…
Hai phái chống đối nhau.
Phái Khổng Minh giỏi hơn và nắm nhiều quyền hơn, tuy nhiên phái tiên chủ lúc nào cũng hục hặc không chịu và mưu toan giành giật quyền lại.
Các chiến tướng giỏi như Nguỵ Diên và Triệu Vân không ưa tập đoàn Khổng Minh nên dùng đủ mọi cách chống đối, ngược lại Khổng Minh cũng luôn luôn thiết kế chấn áp nhóm Diên. Mã Tắc nguyên quán Tương Dương, là một trí thức có hạng của tập đoàn Kinh Châu. Nhờ Khổng Minh nâng đỡ, nên lên chức rất nhanh. Mã Tắc giỏi biện thuyết về quân kế cho nên Gia Cát dụng làm tham quân. Khổng Minh thường cùng Mã Tắc đàm luận thâu đêm.
Năm Kiến Hưng thứ ba, Gia Cát Lượng đem binh bình định phía Nam. Mã Tắc tiễn ra ngoài mười dặm, bày mưu bẩy lần tha Mạnh Hoạch để thu phục nhân tâm.
Theo các sách khác thì đại khái Mã Tắc giỏi như vậy. Nhưng ở Tam Quốc chí diễn nghĩa thì lại có câu: "Mã Tắc là người ngôn quá kỳ thực, không thể dùng làm việc lớn được" của Lưu Bị nói với Khổng Minh.

Sách nào sai, sách nào đúng, Mã Tắc giỏi hay không giỏi, bây giờ chúng ta không thể đoán được.
Nhưng việc Mã Tắc ghi trong nhiều sách đều mang những điểm giống nhau, để chứng dẫn cho ta biết rằng:
Có mâu thuẫn trong nội bộ Thục giữa hai phái Tiên chủ và phái Gia Cát Lượng
Mã Tắc làm mất Nhai Đình khiến cho mâu thuẫn nổ bùng thành tranh chấp trong nội bộ Thục.
Gia Cát có lầm lỗi về việc dùng người, trong hành động quá thiên tư đối với tập đoàn trí thức Kinh Châu, ở đây Gia Cát đã phản lại phương châm: lòng tôi như chiếc cân, không vì người mà nặng nhẹ của ông đã nêu ra.
Năm Kiến Hưng thứ sáu, Gia Cát Lượng xuất binh Kỳ Sơn đánh Nguỵ. Lần này, ai cũng nghĩ Nguỵ Diên sẽ được lãnh chức tiên phong, nên ai cũng ngạc nhiên khi thấy chức này Khổng Minh lại giao phó cho Mã Tắc.
Để ứng chiến, Nguỵ Đế là Tào Sảng (Tuấn?) sai Trương Cáp cầm quân. Hai bên giáp nhau ở Nhai Đình.
Kể về hình thế và lực lượng thì quân Thục chiếm ưu vị vì quân đã đông lại thêm địa hình hiểm trở. Còn quân Nguỵ thì quân đã ít lại ở chỗ bất lợi.
Thế mà kết quả thật không ngờ, quân Thục tan vỡ chạy tán loạn, quân Nguỵ thừa thắng chiếm Nhai Đình.
Thất bại, đương nhiên lỗi tại Mã Tắc. Theo Tam Quốc chí diễn nghĩa thì nguyên nhân thất bại là tại Mã Tắc không tuân lệnh Thừa Tướng, không nghe can gián của Vương Bình.

Mã Tắc thua rồi Khổng Minh chỉ còn một nước là lui binh. Dư luận ở Thục sôi nổi, phái tiên chủ nhân chuyện Mã Tắc cực lực công kích Gia Cát Lượng. Không thể bênh vực được Mã Tắc nữa, Gia Cát Lượng đành phải đem ra xử. Toàn thể tập đoàn Kinh Châu cũng không chịu và buộc Khổng Minh phải cứu Mã Tắc.
Nhưng tội Mã Tắc đã rành rành. Địa vị Gia Cát Lượng thật hết sức khó khăn.
Công việc chưa ngã ngũ, thì một chuyện động trời xẩy ra. Hướng Lãng, bí thư trưởng của Khổng Minh, nửa đêm giúp cho Mã Tắc vượt ngục. Cuộc vượt ngục không thành công vì bị phái Tiên chủ khám phá. Phái tiên chủ luôn luôn kết tội Mã Tắc có ý đầu hàng Nguỵ.
Gia Cát Lượng đành phải gạt lệ chém Mã Tắc và cất chức Hướng Lãng rồi dâng sớ nhận tội sơ suất.

Cũng từ đây Gia Cát Lượng bị tập đoàn Kinh Châu chê bai là nhẫn tâm, đồng thời cũng bị phái tiên chủ chỉ trích là con người tư tâm, nên ông ưu uất thành bệnh nặng.
Nguỵ Diên tạo phản và tình hình Ba Thục
Khổng Minh chết ở Ngũ Trượng Nguyên, tang chế chưa xong thì nội bộ đã phát sinh xung đột. Dương Nghi và Nguỵ Diên đem binh đánh lẫn nhau. Kết quả Dương Nghi thắng lợi, Nguỵ Diên táng mạng. Đời sau chịu ảnh hưởng Tam Quốc Chí diễn nghĩa, lên án kết tội Nguỵ Diên là phản loạn. Tính chất truyền kỳ Tam Quốc Chí diễn nghĩa với nghệ thuật quá cao phổ vào các sự kiện như sau lưng Nguỵ Diên có xương chồi hình tướng của phản loạn, cẩm nang Khổng Minh trao cho Dương Nghi thách Nguỵ Diên, không sao cởi gỡ được.
Ở đây tôi xin nêu lên ít luận cứ, để tìm hiểu sự thực về vụ Nguỵ Diên tạo phản.

Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể:
Phí Vĩ đến trại Nguỵ Diên, đuổi tả hữu ra ngoài nói:
Canh ba đêm hôm qua Thừa tướng qua đời rồi. Lúc gần mất có căn dặn lại, sai tướng quân dẫn quân đi sau để chống lại quân Tư Mã Ý. Quân ta phải từ từ rút về, không được phát tang. Nay binh phù ở đây, xin tướng quân cất đi cho.
Diên hỏi: Ai coi thay việc cho thừa tướng?
Vĩ nói: Nội là công việc to tát, thừa tướng giao cho Dương Nghi, mật pháp dùng binh thì giao cho Khương Bá Ước, binh phù này là của Dương Nghi đây.
Diên nói: Thừa tướng tuy mất, còn có ta đây. Dương Nghi chẳng qua là một chức Trưởng sử, gánh nổi sao được việc to này. Hắn chỉ nên rước ma về Xuyên an táng để ta cầm quân đánh nhau với Tư Mã Ý, cố cho thành công, có đâu vì một mình thừa tướng mà bỏ mất việc to nhà nước được.
Vĩ nói: Thừa Tướng di chúc lại bảo hãy tạm rút về, không nên trái lời.
Diên nổi giận: Nếu thừa tướng nghe mẹo ta khi xưa thì lấy được Tràng An lâu rồi. Ta nay làm Chinh tây đại tướng quân Nam trịnh hầu, lại thèm đoạn hậu cho Trưởng sử à.
Vĩ nói: Tướng quân nói phải lắm, nhưng cũng không nên khinh động, quân giặc chê cười cho. Vậy để tôi đem lẽ lợi hại bảo Dương Nghi để hắn nhường binh quyền cho Tướng quân. Tướng quân nghĩ sao?

Diên y lời, Phi Vĩ từ về trại lớn, ra mắt Dương Nghi thuật lại chuyện đó.
Nghi nói: Thừa tướng lâm chung có mật bảo ta rằng Nguỵ Diên tất sinh bụng kia khác. Ta cho binh phù ra sai, là muốn dò bụng hắn đấy thôi. Nay quả nhiên như lời Thừa Tướng thật, ta sai Bá Ước đoạn hậu cũng xong.
Bởi thế Dương Nghi đưa ma về trước, Khương Duy đi giữ mặt sau tuân lời Khổng Minh từ từ rút về. Nguỵ Diên ngồi chờ trong trại, lâu không thấy Phi Vĩ trở lại, trong bụng nghi hoặc, liền cho Mã Đại dẫn vài tên kỵ dò xem tin tức thế nào. Mã Đại về bảo rằng: Khương Duy tổng đốc hậu quân, còn tiền quân lui về trong cửa hang cả rồi.
Diên nổi giận nói: Quân hủ nho dám lừa dối ta. Thế nào ta cũng giết được mới nghe
Diên ngoảnh lại bảo Mã Đại rằng: Ông có chịu giúp tôi không?
Đại nói: Tôi vốn cũng ghét Dương Nghi, xin vui lòng giúp Tướng quân.
Diên mừng lắm, lập tức nhổ trại, kéo quân bản bộ về phía nam.

Tam Quốc Chí diễn nghĩa cho rằng mầm loạn bắt đầu từ sau cái chết của Vũ Hầu, thật ra xung đột Nguỵ, Dương âm ỷ tích oán đã từ lâu, cái chết của Vũ Hầu chẳng qua chỉ là một hoàn cảnh, một cơ hội để xung đột Nguỵ, Dương bùng nổ thành tranh chiến.
Nguỵ Diên vốn là một viên tướng lãnh đạo bộ khúc đi theo Lưu Bị, nhân vì lập được nhiều chiến công mà lên chức lớn. Lưu Huyền Đức chiếm xong Hán Trung quay trở về Thành Đô, nên cần tuyển lựa người trấn thủ Hán Trung. Ai ai cũng tiến cử Trương Phi và chính Trương Phi cũng tự nguyện. Nhưng vua Thục lại chọn Nguỵ Diên làm cho mọi người ngạc nhiên, bởi vì sau Trương Phi còn có Triệu Tử Long là những công thần thân cận với vua Thục, đồng thời cũng là tướng tài, chứ đâu đã đến lần Nguỵ Diên. Việc giao trọng trách trấn thủ Hán Trung cho Nguỵ Diên chứng tỏ tài lược của người này vượt cả Trương Phi, Triệu Vân lẫn Vân Trường. Tài lược Nguỵ Diên đã rõ ràng trong kế hoạch mà Diên hiến cho Gia cát Lượng lúc sửa soạn đem quân bắc phạt, xin cho mình đánh úp Tràng An. Nhưng Khổng Minh không nghe, cho rằng quá ư mạo hiểm. Nếu nghe kế Diên chắc Khổng Minh không bị vố bại sâu cay thất thủ Nhai Đình do viên tướng mà Lưu Bị xét đoán là người nói quá sự thật tên Mã Tắc.

Căn cứ vào những ghi chép sử sách khác thì lúc Vũ hầu bị trọng bệnh, bèn giao phó cho Nguỵ Diên xử lý hết các việc của mình. Diên và Dương Nghi vốn vẫn hiềm thù nhau. Nghi sợ Diên nắm quyền Thừa Tướng sẽ hại mình, liền phao tin Nguỵ Diên làm phản, định đầu hàng quân Bắc. Nghi được Phí Vĩ, Tưởng Uyển về hùa nên đốc quân đánh úp Diên. Diên thua chạy bị Nghi giết chết.
Tam Quốc Chí diễn nghĩa và những thuyết thấy trong các sách sử khác đều có những điểm đáng ngờ, không chắc bên nào là thực.
Gia Cát Lượng định thoái quân tất nhiên phải cho cả Nguỵ Diên biết chứ sao lại chỉ báo riêng với Phí Vĩ và Dương Nghi? Nếu bảo là nghi Nguỵ Diên, sao Gia Cát Lượng vẫn cho Diên đi hộ tống đoạn hậu để bảo vệ cuộc rút lui.
Gia Cát Lượng giao phó toàn quyền bính cho Nguỵ Diên thì toàn bộ lực lượng sẽ nằm gọn trong tay Diên, Dương Nghi là một vị quan văn, lấy gì mà đánh giết được Nguỵ Diên?

So sánh những điểm vô lý ta có thể đưa ra một giả thuyết mà tìm đến gần sự thật hơn là cái chết của Khổng Minh đột ngột quá nên ông không kịp đặt kế hoạch lui quân. Bọn Dương Nghi, Phí Vĩ âm mưu với nhau kế hoạch này.
Diên chống lại Nghi và Vĩ. Nghi, Vĩ và Diên đều cố về vận động ở Thành Đô, nhưng Diên cô lập vì Tưởng Uyển ủng hộ Nghi, Vĩ. Quân lính theo Diên thấy Diên kém thế liền bỏ Diên. Ít quân, Diên bị Nghi giết. Đọc Tam Quốc Chí diễn nghĩa người ta nhận thấy những đoạn:
Tưởng Uyển tâu rằng: Cứ ý tôi thì Dương Nghi tuy tính khí hẹp hòi, không dung người, nhưng đến việc trù tính lương thảo, tham tán quân cơ cũng giúp được thừa tướng nhiều lắm. Thừa tướng lâm chung phó thác cho việc lớn, quyết không phải là người làm phản. Nguỵ Diên xưa nay cậy có công, khinh người, Dương Nghi không chịu nên Nguỵ Diên vẫn ghét. Nay thấy Nghi được cầm binh quyền, Diên ganh tị mới đốt đường vu cáo Nghi làm phản. Tôi xin đem già trẻ cả nhà bảo cứ cho Dương Nghi không phải là người làm phản, chớ không dám nhận cho Nguỵ Diên.
Hà Bình được lệnh Dương Nghi kéo quân đến núi Sà Sơn đánh Nguỵ Diên. Gặp Diên, Bình quát to mắng rằng: Phản tặc Nguỵ Diên.
Diên cũng mắng lại: Mày giúp Dương Nghi làm phản lại dám mắng tao à?
Bình cầm roi trỏ sang đám quân Nguỵ Diên nói lớn:
Quân sỹ chúng mày toàn là người Tây Xuyên, có cha mẹ vợ con anh em ở trong ấy cả. Khi thừa tướng còn, không bạc đãi gì chúng mày. Nay chớ nên giúp quân phản tặc, nên về cả quê hương mà chờ đợi ơn trên ban thưởng.
Quân sỹ nghe xong reo rầm lên một tiếng rồi tản đi quá nửa.

°°°
Vậy có thể kết luận vụ Nguỵ Diên là một vụ tư thù, một mâu thuẫn chính trị nội bộ vì tranh quyền sau cái chết quá bất ngờ của Gia Cát Khổng Minh.

Kể từ năm Thái Hoà thứ hai, Khổng Minh không ngừng xuất binh đánh Nguỵ. Năm Thái Hoà thứ hai tức là năm thứ chín của Tam Quốc. Khổng Minh mất vào năm thứ mười của Tam Quốc. Nhà Thục diệt vong vào năm thứ bốn mươi bốn của Tam Quốc. Như vậy thì Thục Hán còn tồn tại thêm 29 năm sau khi Gia Cát chết. Khoảng 29 năm đó, chính quyền Thục Hán ở trong tay Tưởng Uyển 12 năm, Phí Vĩ bảy năm và 10 năm sau cùng do Khương Duy. Tưởng Uyển, Phí Vĩ không xuất binh phạt Nguỵ lần nào, chỉ có Khương Duy mấy lần mưu toan, nhưng bị Phí Vĩ gàn trở. Phí Vĩ chết, Khương Duy mới thực hiện được mộng tưởng, tuy nhiên không những Duy không thành công, trái lại còn gây thêm nhiều nỗi khó khăn trong nước. Người đương thời cũng như hậu thế đều đổ lỗi cho Khương Duy đã gây can qua làm hại Thục Hán. Thật oan cho Khương Bá Ước, bởi vì binh lực Tây Thục so với nước Nguỵ thua kém rất xa.

Ngay lúc sinh thời Gia Cát Lượng, sở dĩ có năm lần phạt Nguỵ chính là vì cần phải áp dụng chiến lược dĩ công vi thủ, muốn bảo vệ ta nên tấn công địch. Đời Tưởng Uyển, Phí Vĩ có thể yên vì nội bộ Nguỵ chưa ổn định. Khi họ Tư Mã cướp quyền họ Tào rồi, điều khiển Đặng Ngải, Chung Hội tấn công Tây Thục thì với chín vạn quân Tây Thục không chống đỡ ba mặt với quân số nước Nguỵ gần gấp ba. Lẽ ra Tưởng Uyển và Phí Vĩ phải theo kế hoạch Khương Duy tấn công Nguỵ giữa lúc tình hình chính trị nội bộ nước Nguỵ đang rối loạn mới đúng. Thục Hán mất chính là tại chính sách cầu an của Tưởng Uyển và Phí Vĩ. Giả sử Nguỵ Diên chưa chết, chính sách phạt Nguỵ được kiên quyết duy trì chắc tình trạng đã khác đi nhiều.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

12
Vũ Tài Lục
Nói Chuyện Tam Quốc
- 11 -
TÀO THỰC



“Tài của trời đất có ước một hộc. Tào Tử Kiến chiếm chừng tám đấu. Ta một đấu. Còn một đấu nữa thiên hạ chia nhau.”
Đó là lời Tạ Linh Vận nói về Tào Thực.

Tào Thực khiến độc giả Tam Quốc Chí chú ý, nhân vụ bị Tào Phi trách tội, bắt làm thơ rồi mới tha. Cũng từ lúc này Tào Thực thực sự bị đẩy tới thế can dự vào chính trị nhà Nguỵ. Nội bộ nhà Tào sở dĩ không rối loạn ngay chính là nhờ vào tính tình đôn hậu nhân ái của Tào Thực.

Tháo trong giờ phút lâm chung cho đòi bọn Tào Hồng, Trần Quần, Giả Hủ, Tư Mã Ý cùng đến cả trước giường nằm, dặn dò việc mai sau:
Cô tung hoành trong thiên hạ hơn ba mươi năm, bao nhiêu kẻ cường bạo trừ sạch cả rồi, chỉ còn Tôn Quyền ở Giang Đông, Lưu Bị ở Tây Thục. Nay bệnh Cô nguy cấp lắm, không bàn được nhiều nữa, chỉ đem việc nhà nhờ cậy các ngươi mà thôi. Con trưởng Cô là Tào Ngang do Lưu thị sinh ra, chẳng may mất sớm ở Uyển Thành. Biện Thị sinh được bốn con Phi, Chương, Thực, Hùng. Cô xưa nay yêu con thứ ba là Thực nhưng nó hay huênh hoang, không được thực thà, lại ngông nghênh rượu chè cho nên không lập làm thế tử. Thằng thứ hai là Chương có khoẻ mà chẳng có khôn, thằng thứ tư là Hùng thì lắm bệnh khó thọ. Chỉ con trưởng là Phi có bụng thành thực, kính cẩn có thể nối nghiệp Cô. Các người nên giúp đỡ nó.

Sở dĩ Tháo bỏ hẳn ý định lập Tào Thực kế vị mình, vì những lý do: Tháo đánh giá người trên khả năng chính trị, không đánh giá trên khả năng văn chương. Tào Thực chỉ có khả năng văn chương mà không có khả năng chính trị. Riêng về phần Tào Thực, ông không hề có ý tranh chấp với Tào Phi giành giật đế vị như các sử gia đời sau vẫn lầm tưởng. Xem như vụ Tào Tháo sai Thực đi cứu Tào Nhân bị Quan Vũ vây hãm, Thực uống rượu say tuý luý quên mất, đã biết Thực chẳng thiết gì đến chính trị. Nếu có những sự rối loạn xảy ra chăng nữa thì nguyên động lực không phải ở dã tâm chính trị của Thực, mà do những người định dùng Thực để chống tập đoàn chính trị Tào Phi. Tỉ dụ: Bọn Đinh Nghi, Đinh Dị xui Thực chống Phi, Phi đem giết hết.

Ở thời đại Tam quốc con người không cầm quân, không âm mưu chính trị như Tào Thực mà vẫn được mọi người chú ý, tại sao?
Đó là vì sức mạnh tư tưởng và văn chương Tào Thực đã ảnh hưởng đến phần tử trí thức đương thời.
Quan trọng nhất là Tào Thực cực lực chống cảnh tương tàn tương sát, xâu xé phân tranh.

Cành đậu đun hạt đậu
Hạt đậu khóc hu hu
Cùng sinh từ một gốc
Thui nhau nỡ thế ru.

Thất vọng với thực tế đầy mưu mẹo quỷ quyệt, xương máu binh lửa, văn chương Tào Thực liền bỏ tính chất phác thực, nhập thế, mong xoay chuyển đổi đời mà đi vào con đường siêu việt, xuất thế.

“Trong sầu thảm, lang thang bên đường hình dung tiều tuỵ, gặp Huyền Linh tiên sinh hỏi: Nhà ngươi ốm đau sao đến nỗi tấm thân tàn tạ thế? Tôi đáp: Thưa tiên sinh bệnh buồn. Huyền Linh nói: “Buồn là cái gì? mà làm cho người đau ốm?” Tôi trả lời: “Sầu là một vật không gọi nó tự đến, đuổi nó không đi. Tìm không biết nó ở đâu. Cầm nó không đầy nắm tay. Đi lại chẳng ra phương hướng nào, làm náo loạn tinh thần con người. Lúc ăn nó làm nghẹn họng, chất nó độc như cường toan. Cười với nó, nó không chịu. Đem đàn ca tới, nó càng làm cho bi thương. Không thứ thuốc nào chữa khỏi. Tiên sinh chẳng hay có kế chi cứu tôi thoát tay nó chăng?”

Huyền Linh tiên sinh đổi nét mặt nói: Nhà ngươi vừa nói với ta về hình dạng cái sầu. Ta tuy không rõ ai sinh ra nó, nhưng ta biết chỗ nó ẩn.

Chẳng qua là tại nhà ngươi chìm đắm trong lưu tục, luyến hoặc với danh vị, thèm khát vinh hoa cho nên ngồi đứng không yên, ăn không ngon, lúc nào cũng vội vội vàng vàng, khiến cho chính khí điêu tàn. Nay ta cho nhà ngươi thang thuốc vô vi, lấy sự đạm bạc làm thang. Rồi ta dùng mũi kim huyền hư, bằng phương pháp thuần phác nhể nó ra. Sau đấy ta cho ngươi yên nghỉ trên chiếc giường tịch mịch. Ta đem cho nhà ngươi những bầu bạn mới, nhà ngươi sẽ cùng với Vương Kiến đi ngao du, cùng Hoành Công ca vịnh, cùng Trang Tử dưỡng thần.

Nghe xong tôi bỗng thấy mồ hôi ướt đầm mình mẩy, phút chốc sầu bi đi đâu hết cả. ”
Viết thế thôi, nhưng Tào Thực không bao giờ hết buồn, hết bất mãn với hiện thực, ông ôm mãi mối hận tới tận ngày chết mới ngoài bốn mươi tuổi. Tào Thực thèm khát cuộc sống tự do và chán ngấy những ràng buộc cấm đoán gây ra bởi tình hình chính trị khốc liệt đời Tam quốc. Ông cũng muốn vượt ra khỏi thân phận vương hầu mà không bị thác sinh vào đó. Tâm sự ấy ông gửi vào những bài thơ dưới đây.
Tạp thi (Bài thứ 2)

Cỏ bồng rời thân cây
Theo gió chuyển như bay. Thình lình trận gió lốc, Đưa cỏ bồng lên mây. Vút vút lên cao mãi, Đường lên trời dài thay. Khác nào du khách nọ, Ra trận quên thân này. Mặc không ấm xác thịt, Ăn không no dạ dày. Đi, ai đi không ngại, Lo hão sợ thân gầy. …
Sầu cao vầng nguyệt giãi, Luồng sáng vẩn vơ trôi. Có một nàng trên đó, Than phiền nức nở hoài. Than phiền ai đó ta?

Vợ đãng tử là “tôi”
Mười mấy năm chàng vắng, Kiếp thân thiếp lẻ loi. Chàng như hạt bụi nhẹ, Thiếp tựa nắm bùn hôi. Chìm, nổi thân, hình khác, Bao giờ lại sánh đôi
Gió tây nam muốn những
Cuốn thốc vào lòng ai. Lòng ai không mở rộng, Thiếp hết chỗ nương rồi. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Thêm những rắc rối chính trị, những nghi ngờ của Tào Phi càng làm cho Tào Thực khó thở khó sống. Tâm trạng của Tào Thực đối với hoàn cảnh chung quanh chẳng khác gì tâm trạng Kafka đối với gia đình.

Moi, qui ai vécu le plus souvent dans la dépendance, j’ai une soif infinie d’indépendance et de liberté dans tous les domaines. Mais enfin, je suis issu de mes parents, je suis lié à eux et à mes sœurs par le sang. Je les poursuive aussi de ma heine...
Mais, à d’autres moments, je me rappelle qu’ils sont mes parents... J’ai tremblé devant eux et tremble maintenant encore. Ils me dupent, mais comme je ne peux pas m’insurger contre la loi naturelle sans devenir fou, je retombe dans la haine, toujours dans la haine.

Tính chất kỳ lệ nhưng không có kênh kiệu như Đông Hán, trong văn chương, Tào Thực đã đặt ra cho phần tử trí thức vấn đề tự do giải phóng văn chương khỏi chính trị. Sau này Lý Bạch, Đỗ Phủ, Lý Thương Ẩn ít nhiều đều chịu ảnh hưởng của Tào Thực cả. Nho đạo nẩy nòi vô vi, Tào Thực báo hiệu hệ thống Nho băng hoại trên chính trị, sang đời Tấn đạo Lão quật khởi đem tư tưởng Phật giáo du nhập Trung Quốc, gây nên tình trạng Nam Bắc phân tranh và loạn Ngũ Hồ.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

13
Vũ Tài Lục
Nói Chuyện Tam Quốc
- 12 -
TƯ MÃ Ý CHIẾM NGÔI NGUỴ




“Tam Quốc tận quy ư Tư Mã Ý (Tam Quốc cuối cùng thu vào tay Tư Mã Ý). Một sự kiện lịch sử biến thành một ngạn ngữ dân gian ý nói trai cò tranh nhau ngư ông đắc lợi. Khổng Minh, Khương Bá Ước xuất binh năm sáu lần hao người tốn của, hai chục năm mà không lật đổ được nhà Nguỵ. Tư Mã Ý phí chẳng bao hơi sức, chỉ một buổi cũng đã cướp toàn bộ cơ nghiệp họ Tào trong tay. Đó là một quy luật lịch sử, đó là nguyên nhân tại sao lịch sử phải tiếp diễn như thế (Pourquoi les choses se sont passées ainsi et non autrement).

Tào Tháo chết chừng một năm, con là Nguỵ Văn Đế liền cướp ngôi nhà Hán. Năm sau Lưu Bị tại Tây Xuyên tự xưng Hoàng Đế. Tôn Quyền trước sau vẫn xưng là Ngô Vương. Thiên hạ phân thành thế Tam Quốc. Nước Đông Ngô rộng không kém gì nước Nguỵ nhưng so sánh về mặt văn hoá, kinh tế Ngô kém Nguỵ xa, Tây Thục lại càng thua sút Ngô, Nguỵ xa nữa.

So sánh sinh lực lượng chênh lệch như vậy, thế mà Tam quốc kéo dài tới hơn mười năm vì mỗi nước đều có những vấn đề to tát riêng tại khu vực của mình phải giải quyết trước. Ngoài ra nước Ngô nhờ sông rộng bảo vệ, Thục nhờ đầy (đồi?) núi biển cả che đỡ trong khi Nguỵ không giỏi thuỷ chiến để đánh Ngô mà đánh Thục không thể thắng ngay được, lại sợ đằng sau Ngô đánh úp.

Nguỵ Đế ở ngôi cao 7 năm thì mất. Con là Tào Tuấn lên kế vị đặt hiệu là Nguỵ Minh Đế. Nguỵ Minh Đế hoang dâm xa xỉ, chính trị trong nước huỷ hoại. Tại Liêu Đông, Công Tôn Ngôn nổi dậy làm phản. Minh Đế nhờ Tư Mã Ý đi đánh dẹp. Nhờ trận giặc Liêu Đông, toàn bộ quân đội quy phụ Tư Mã Ý. Minh Đế làm vua 13 năm bệnh nặng qua đời, ngôi tôn để lại cho Tào Phương hãy còn nhỏ tuổi.

Đến đây, chính cục nhà Nguỵ chịu một biến cố rất lớn, khiến Nguỵ mất quyền vị. Nội chính Nguỵ quốc lúc này đã phân chia hẳn thế lực với 2 khuynh hướng chính trị đối lập nhau, phe Tào Sảng chủ trương văn trị ngồi yên hưởng thái bình, có Lý Thắng, Dĩnh Bật, Đặng Dương, Tất Phạm và Hoàn Phạm (người đời khen Hoàn Phạm là túi khôn).
Phe chủ trương võ trị có Tư Mã Ý và các tướng lãnh quân đội, đòi tiếp tục cuộc thống nhất đất nước bằng võ lực. Tào Sảng dòng họ Tôn Thất được vua và phe trung lập ủng hộ nên keo đầu, Sảng thắng thế, đẩy Tư Mã Ý lên chức Thái Phó rồi chiếm lấy binh quyền trao cho người thân của mình là Tào Hy. Tư Mã Ý phải cáo ốm về nhà. Khuynh hướng văn trị của nhóm Tào Sảng đề ra không đúng thời vì Thục, Ngô vẫn luôn luôn đe doạ chiến tranh, cho nên chẳng bao lâu khuynh hướng đó bị mọi người ngờ vực thờ ơ. Tào Hy, Tào Sảng điều khiển quân đội, quân đội bất phục thành thử phe Tư Mã Ý chống lại tập đoàn Tào Sảng. Tư Mã Ý dựa luôn vào thế lực sẵn có trong tay lật đổ luôn cả ngôi vua Nguỵ.

Vụ Tư Mã Ý cướp ngôi nhà Nguỵ, lật đổ chính quyền Tào Sảng là một hiện tượng chuyển đổi chính quyền bằng bạo lực (violent transfer of power). Nó khác với việc Tào Tháo ở điểm:

Việc Tào Tháo làm là một cuộc cách mạng chống quân phiệt Đổng Trác, Lý Thôi, Quách Dĩ được thực hiện bằng lực lượng quần chúng.
Việc Tư Mã Ý làm là một cuộc cách mạng cung đình (palace révolution) thực hiện bằng lực lượng quân đội do các tướng lãnh chủ mưu (Junta).
Vụ Tư Mã Ý cướp ngôi nhà Nguỵ có điểm rất đáng chú ý là phần kỹ thuật rất tinh vi, và những lỗi lầm của Tào Sảng là những lỗi lầm muôn đời của các chính trị gia, thuộc bất cứ thế hệ nào, dù Đông hay Tây. Ở đây chúng ta thảo luận về kỹ thuật đoạt thủ chính quyền của họ Tư Mã.

Trước hết hãy đọc kỹ những đoạn cần thiết trong hai hồi 103 và 107, Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể:
Tư Mã Ý, Tào Sảng phò Thái Tử Tào Phương lên ngôi Hoàng Đế. Sảng rất trọng vọng Tư Mã Ý, phàm việc to đều hỏi Ý trước. Sảng tên tự là Bá Chiêu, từ thuở nhỏ ra vào trong cung, Minh Đế (tức cha Tào Phương) thấy người cẩn thận đem lòng yêu mến lắm. Sảng có năm trăm khách, môn hạ đáng kể có Hoàn Phạm tự Nguyên Trực nhiều mưu trí, người đời khen là trí nang (túi khôn), Hà Yến, Đặng Dương, Lý Thắng, Đinh Bật, Tất Phạm.
Hà Yến nói với Tào Sảng rằng: Đại quyền của chủ công, chớ cho người khác can thiệp đến mà để lo về sau.
Sảng nói: Tư Mã Công cùng với ta chịu lời tiên đế thác cô, nỡ nào ta bỏ người ấy.
Yến nói: Khi xưa tiên công (Tào Chân) cùng Trọng Đạt đánh Thục vì bị hắn lấn át, nhân thế mà chết (hồi thứ 100, Tam Quốc Chí diễn nghĩa nói Tào Chân chết uất vì lá thư của Khổng Minh gửi đến nhục mạ). Chủ công sao không xét việc đó?
Sảng nghĩ ra, cùng với các quan thương nghị, rồi tâu với Nguỵ chủ rằng: Tư Mã Ý công cao đức nặng, nên gia chức làm thái phó.
Phương nghe lời. Từ đó binh quyền về cả tay Tào Sảng. Sảng sai em là Tào Hy làm Trung lĩnh quân, Tào Huấn làm võ vệ tướng quân, Tào Sảng làm tản kỵ thường thị. Mỗi người dẫn ba ngàn quân ngự lâm tuỳ tiện ra vào chốn cung cấm. Lại dùng Hà Yến, Đặng Dương, Dĩnh Bật làm thượng thư, Tất Phạm làm tư lệnh hiệu uý. Lý Thành làm Hà Nam Doãn. Năm người ấy ngày đêm bàn việc với Tào Sảng. Tân khách nhà Tào Sảng mỗi ngày mỗi nhiều.

Tư Mã Ý thấy vậy, thác có bệnh không ra đến ngoài. Hai con cũng từ chức về nhà.
Tào Sảng mỗi ngày cùng với bọn Hà Yến uống rượu làm vui. Phàm các đồ dùng, áo sống, không khác gì của triều đình. Những đồ quý báu nhất lấy làm của riêng, còn thừa mới nộp vào cung. Trong phủ chứa rất nhiều con gái đẹp. Quan hoàng môn là Trương Dương xiểm nịnh Tào Sảng, kén lấy mười tám nàng hầu của tiên đế đưa vào trong phủ. Sảng lại kén ba bốn chục con gái nhà tử tế, biết hát múa lập ra một đội nữ nhạc trong phủ. Lại dựng lên lầu cao gác chạm; đúc các đồ vàng bạc; dùng hơn một trăm thợ khéo, ngày đêm chế tạo đồ dùng.
Hà Yến nghe tin Quản Lộ ở Bình Nguyên tinh nghề thuật số, cho mời đến bàn nghĩa kinh dịch. Bấy giờ Đặng Dương cũng cùng ngồi chơi đó, hỏi Lộ rằng:
Ông tự cho là giỏi Dịch, mà nói không động đến chữ nghĩa kinh Dịch là làm sao.
Lộ nói: Đã gọi là giỏi Dịch, thì không phải nói động đến Dịch.

Yến cười tán thêm vào rằng: Thế mới gọi là lời trọng yếu không cần phải nhiều!
Nhân hỏi Lộ rằng: Ông bói cho tôi một quẻ, xem có làm đến tam công được không? Tôi lại mộng thấy vài mươi con ruồi xanh đậu trên mũi, đó là điềm gì?
Lộ nói: Ngày xưa Nguyên Khải giúp vua Thuấn, Chu công giúp nhà Chu, cùng có đức tốt mà được hưởng phúc. Nay quân hầu ngôi cao quyền trọng nhưng người mến đức thì ít, mà kẻ sợ oai thì nhiều, đó không phải là lối cầu phúc. Vả lại, mũi là cái núi, núi cao mà không đổ, thì mới giữ được phú quý. Nay ruồi nhặng là giống hôi bẩn, lại đậu lên trên, thế là ngôi cao phải đổ, khá sợ lắm thay! Xin quân hầu bớt chỗ nhiều thêm chỗ ít, điều gì phi lễ chớ làm. Như thế ngôi tam công mới đến tay mà đàn nhặng xanh mới xua đi được.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Đặng Dương giận, gắt rằng:
Đó là lời lão sinh thường đàm, ra quái gì.
Lộ nói: Lão sinh đã thấy thì không sinh, thường đàm đã thấy thì không đàm!
Nói đoạn, rũ tay áo đứng dậy ra đi. Hai người rằng: Thực là đồ cuồng sĩ.
Lộ về nhà, thuật lại cho cậu nghe. Cậu giật mình nói: Hà, Đặng hai người đang quyền thế hống hách, sao mày dám trêu chọc đến họ?
Lộ nói: Tôi cùng với người chết nói chuyện có ngại gì nữa.
Cậu hỏi tại sao, thì Lộ nói: Đặng Dương, gân không bó được xương, mạch không giữ được thịt, ngồi đứng ngả nghiêng hình như không có chân tay, đó gọi là tướng quỷ tảo. Hà Yến không tươi được sắc mặt, tinh thần bất định, dáng tựa cây khô, đó là tướng quỷ u. Hai người này nay mai tất có vạ diệt, mình can gì mà sợ?
Người cậu mắng Quản Lộ nói càn, rồi đi.
Tào Sảng thường hay cùng với bọn Hà Yến, Đặng Dương ra ngoài săn bắn. Em là Tào Hy can rằng:
Uy quyền của anh to lắm, mà cứ hay đi chơi săn bắn, nếu có người mưu hại thì làm thế nào?

Tào Sảng mắng rằng:
Binh quyền trong tay ta, còn sợ gì ai nữa.
Tư Nông là Hoàn Phạm cũng can nhưng Sảng cũng không nghe.
Bấy giờ Nguỵ chủ Tào Phương đổi năm Chính Thuỷ thứ mười là năm Gia Bình thứ nhất. Tào Sảng một mực chuyên quyền, không biết bệnh Trọng Đạt hư thực ra làm sao. Bữa ấy nhân Nguỵ chủ cất Lý Thắng lên làm Thứ sử ở Kinh Châu. Sảng cho Lý Thắng đến từ biệt Trọng Đạt, nhân để dò xem ý tứ thế nào. Lý Thắng đến phủ Thái Phó, có lính canh cửa vào báo với Tư Mã Ý. Ý bảo với hai con rằng:
Đây là Tào Sảng sai đến dò xem bệnh ta thực hay giả đây.
Lập tức bỏ mũ, để tóc rũ rượi, trèo lên giường ngồi dựa vào cái chăn và sai hai nàng hầu nâng đỡ, rồi mới sai mời Lý vào phủ.
Lý Thắng đến trước giường nói rằng:
Lâu nay không được hầu Thái Phó, không ngờ ngài yếu đau thế này. Nay thiên tử sai tôi làm thứ sử Kinh Châu, xin đến lạy từ Thái Phó.
Ý giả điếc nói:
Tinh Châu gần phương Bắc, ra đó giữ gìn cho khéo.
Tôi được cử làm thứ sử ở Kinh Châu, không phải Tinh Châu.
Ý cười nói: Người ở Tinh Châu lại à?
Thắng nói: Kinh Châu ở Hán Thượng.
Ý lại cười ha hả mà rằng: Người ở Kinh Châu lại đây à?
Thắng nói: Thái Phó sao ngài yếu thế?
Tả hữu nói: Thái phó điếc đấy.
Thắng mượn bút viết mấy chữ đệ lên.

Ý xem xong cười rằng: Ta lâu nay mệt lắm, điếc tai nghe không rõ. Chuyến này có đi phải giữ gìn.
Nói đoạn lấy tay trỏ vào miệng, ra hiệu muốn uống nước. Thị tỳ dâng chén nước nóng. Ý hớp miệng vào chén nước, nước đổ ướt cả ra vạt áo. Ý hậm hực trong cổ, làm ra tiếng nghẹn rồi nói rằng:
Ta suy nhược lắm, sớm tối chưa biết chết lúc nào. Ta có hai con chẳng ra gì, nhờ cậy người dậy bảo đỡ ta. Người có về ra mắt đại tướng quân, nhờ nói với tướng quân trông nom đỡ hai con ta thì may lắm.
Nói đoạn, nằm lăn ra trên giường, thở hồng hộc một lúc.
Lý Thắng cáo từ Trọng Đạt, về ra mắt Tào Sảng, thuật lại hết cả tình hình như thế.
Sảng mừng nói: Lão này chết thì ta không còn lo gì nữa.
Tư Mã Ý thấy Lý Thắng đi rồi, đứng dậy bảo với hai con rằng:
Lý Thắng chuyến này về báo tin, Tào Sảng tất không nghi gì ta nữa, đợi khi nào y ra thành săn bắn thì mới đồ được.

Không mấy bữa, Tào Sảng mời Nguỵ chủ Tào Phương ra yết lăng Cao Bình tế tự tiên đế. Quan viên lớn nhỏ theo ra cả.
Sảng dẫn ba anh em và bọn tâm phúc Hà Yến, cùng quân Ngự lâm hạ giá ra thành.
Tư Nông Hoàn Phạm can rằng:
Chủ công coi giữ cầm (cấm?) binh, không nên anh em cùng đi cả, phòng trong thành có biến thì làm thế nào?
Sảng mắng rằng: Ai dám làm loạn, chớ nói càn!
Tư Mã Ý thấy Tào Sảng ra thành rồi, mừng lắm lập tức gọi các thủ hạ cũ và mấy người gia tướng, dẫn hai con lên ngựa, đến thẳng triều đình, mưu giết Tào Sảng.
Ý vào nơi công đường, sai tư đồ là Cao Nhu lĩnh chức Đại tướng quân trước hết đến giữ dinh Tào Sảng. Lại sai thái bộc là Vương Quán quyền chức Trung lĩnh quân giữ dinh Tào Hy. Ý dẫn các quan vào hậu cung tâu với Quách Thái Hậu việc Tào Sảng bỏ lời tiên đế thác cô, gian tà loạn nước, xin trị tội.
Quách Thái Hậu thất kinh nói:
Thiên tử ra ngoài chưa về thì làm thế nào?
Ý tâu rằng: Tôi đã dâng biểu tâu với Thiên tử, có mẹo giết được gian thần, thái hậu chớ ngại.

Thái hậu sợ hãi, phải theo lời. Ý sai thái uý là Tưởng Tế, thượng thư lệnh là Tư Mã Phu cùng với mình viết biểu, phái hoàng môn quan mang ra ngoài thành tâu với Nguỵ chủ.
Ý tự dẫn đại quân giữ kho khí giới.
Ý gọi Hứa Doãn, Trần Thái đến bảo rằng:
Hai người ra gặp Tào Sảng, nói Thái phó không có bụng nào hại đâu, chỉ muốn tước bớt binh quyền của anh em họ đấy thôi.
Lại đòi thêm quan Điện trung hiệu uý là Doãn Đại Mục đến, sai Tưởng Tế viết thư, cho Đại Mục cầm ra đưa cho Tào Sảng. Ý dặn rằng:
Người thân thiết với Tào Sảng, nên giúp việc này. Người có ra mắt Tào Sảng thì nói rằng ta với Tưởng Tế trỏ sông Lạc Thuỷ ăn thề, chỉ vì việc binh quyền, chớ không có bụng nào cả.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Nói về Tào Sảng, đang mải săn bắn, huýt gió thả chim. Sực có tin báo trong thành nổi loạn, thái phó có biểu văn đưa đến. Sảng giật nảy mình, suýt nữa ngã ngựa.
Nguỵ chủ Tào Phương nghe xong, bảo với Tào Sảng rằng:
Thái phó nói vậy, ngươi khu xử làm sao?
Tào Sảng cuống cả người lại, bảo với hai em rằng:
Làm thế nào bây giờ?
Hy nói: Em đã can anh mãi, anh chẳng nghe cho, mới đến nỗi này. Tư Mã Ý quỷ quyệt vô cùng. Khổng Minh còn không đánh nổi, huống chi anh em chúng ta. Chi bằng tự trói mình về chịu tội, cầu khỏi cái chết là hơn.
Một lát, tham quân Tân Tệ, tư mã Lô Chi đến. Sảng hỏi chuyện.

Hai người nói: Trong thành vây kín như rào sắt, thái phó dẫn quân đóng ở trên cầu sông Lạc, không tài nào mà về được đâu. Nên định kế lớn đi!
Đang nói thì Tư Nông Hoàn Phạm tế ngựa chạy đến, Phạm nói: Thái phó đã khởi biến rồi, Tướng quân sao không rước thiên tử ra Hứa Đô, khởi binh ngoài mà đánh Tư Mã Ý?
Sảng nghe nói phân vân chưa quyết, chỉ ứa nước mắt mà khóc.
Phạm nói: Từ đây ra Hứa Đô, chẳng qua nửa đêm thì đến nơi. Lương thảo trong thành đủ chi được vài năm. Vả lại, quân mã của chủ công ở ngay Quan Nam gần đấy, gọi một tiếng là đến. Ấn Đại tư mã tôi đã mang ra đây, chủ công nên làm cho kịp, nếu chậm thì hỏng mất.
Sảng nói: Các người chớ thôi thúc lắm, để ta nghĩ kỹ xem đã.
Được một lát, thì Hứa Doãn, thượng thư lệnh Trần Thái đến. Hai người nói:
Thái phó chỉ vì việc tướng quân quyền to quá, muốn tước bớt binh quyền đi chớ không có bụng gì đâu. Tướng quân nên về ngay trong thành cho sớm.
Sảng nín lặng, chẳng nói gì. Một lát lại có Doãn Đại Mục đến nói: Thái phó trỏ sông Lạc phát lời thề, tịnh không có bụng nào. Có thư của Tưởng Thái uý ở đây. Tướng quân nên bỏ binh quyền về ngay tướng phủ cho.
Sảng tin là thực.
Hoàn Phạm lại nói: Việc đã cấp rồi, chớ nghe người nói mà đâm vào đất chết!
Đêm hôm ấy Tào Sảng vẫn không quyết bề nào, tay cầm thanh gươm thở ngắn thở dài cho đến sáng, lúc nào cũng nước mắt chạy vòng quanh mà vẫn hồ nghi không biết nghĩ ra sao.

Hoàn Phạm vào trướng giục rằng: Chủ công nghĩ suốt cả đêm mà vẫn chưa quyết ư?
Sảng vất thanh gươm xuống đất, than rằng:
- Ý ta không muốn khởi binh, ta tình nguyện bỏ quân, chỉ làm một tên phú ông là đủ.
Phạm ra khỏi trướng nói:
- Tào Tử Đan khoe mình trí mưu, nay được ba con đụt như chó lợn cả.
Kết cuộc Tào Sảng đem ấn thụ nộp cho Tư Mã Ý. Quân sĩ thấy vậy bỏ rơi Sảng. Tư Mã Ý trước hết bắt hết bọn Hà Yến, Đặng Dương, Hoàn Phạm, Lý Thắng v.v. Sau đó đem ba anh em Tào Sảng ra ngoài chợ chém sạch.
Ngón đòn trí mạng mà Tư Mã Ý đánh Tào Sảng không phải là lúc chiếm dinh thự trong kinh thành, uy hiếp Quách Thái hậu mà là ngón giả ốm khiến Tào Sảng nhầm lẫn. Ông Yết Tử nói:
“Đánh kẻ địch không cần lấy sức chế ngự, hãy dùng thuật làm cho địch nhầm, hoặc bằng mưu mẹo ta để lừa, hoặc bằng ngay điều địch vẫn nhầm lẫn làm cho u mê thêm, cho địch nhầm về thế, về lợi, về trí, về biến. Ta khơi ở chốn hư, nhưng lấy ở chỗ thực”.
Tào Sảng kể như thua ngay từ lúc Sảng nói: “Lão này chết thì ta không lo gì nữa.” Nhưng Sảng đã lầm to, vì ngay sau khi Lý Thắng về thì Tư Mã Ý “đóng cửa, bỗng nhiên vùng đứng dậy cầm quân” từ đó mới ra tay.

Ý dựng ngay một kế hoạch lật Tào Sảng rất táo bạo và khôn khéo. Kế hoạch đó, căn cứ vào tài liệu của Tam Quốc Chí diễn nghĩa, gồm mấy phần chủ yếu:
a) Nhanh chóng chiếm giữ toàn bộ cơ cấu chính quyền trong kinh đô.
b) Phân hoá Nguỵ Chủ với Tào Sảng.
c) Làm tê liệt phản ứng chống đối của Tào Sảng.
Phần thứ nhất được thực hiện với kỹ thuật hết sức tinh vi. Mặc dầu Tư Mã Ý là một quân sự gia, nhưng ông có nhận thức chính trị sắc bén, không biến cuộc tranh đoạt chính quyền thành chiến tranh.
Cho nên ông sử dụng một lực lượng rất ít nhưng về phẩm thì hoàn toàn vững chãi, để chiếm đoạt chớp nhoáng những điểm chiến lược lật đổ uy thế Tào Sảng.
“Tout le peuple, c’est trop pour l’insurrection. Il faut une petite troupe froide et violente, dressée à la tactique insurrectionnelle. Avant tout il faut s’emparer des points stratégiques, reverser le gouvernement. Il est nécessaire pour celà, d’organiser l’insurrection, de former et de dresser une troupe d’assaut” (TROTZKY)
(Toàn thể dân tộc thì quá nhiều cho cuộc nổi dậy. Chỉ cần một nhóm nhỏ, bình tĩnh và táo bạo, được huấn luyện cặn kẽ về chiến thuật dấy loạn là đủ. Trước hết phải chiếm các điểm chiến lược, lật đổ chính quyền. Để đạt được mục tiêu trên, cần tổ chức cuộc dấy loạn, cần thành lập và huấn luyện một đoàn quân xung kích.)
Kỹ thuật tờ-rốt-kít đã được Tư Mã Ý áp dụng trước hàng ngàn năm. Công việc chiếm giữ các cơ cấu trọng yếu của chính quyền tiến hành im lặng, không gây ra vụ đổ máu nào, và tin tức cũng được giữ kín như bưng. Chỉ riêng có Hoàn Phạm chạy thoát ra báo với Tào Sảng.

Sợ Nguỵ Vương nghe Tào Sảng, Tư Mã Ý bèn viết biểu dâng Nguỵ Vương nhằm an lòng Nguỵ Vương. Nội dung bài biểu là đổ riệt cho Tào Sảng rắp tâm cướp ngôi Nguỵ, còn ý ông sở dĩ hành động ở kinh đô chỉ là để bảo vệ ngôi Nguỵ mà thôi.
Do đó lúc Hoàn Phạm thoát khỏi tay Tư Mã Ý, khuyên Sảng rước Thiên Tử ra đón Hứa Đô khởi binh ngoài đánh Tư Mã Ý, đã không được Nguỵ Chủ tán thành, nên Tào Sảng bị dồn vào thế dở dang mọi mặt.
Gây được tình trạng dở dang cho anh em Tào Sảng rồi, nhưng Tư Mã Ý vẫn sợ anh em Tào Sảng nghe kế Hoàn Phạm, đem biến cố chính trị này khơi rộng thành nội chiến, và nội chiến tất sẽ không tránh khỏi sự dòm ngó của hai kẻ thù Ngô, Thục. Bởi vậy Ý mới phái Hứa Doãn, Trần Thái, rồi lại phái thêm cả Doãn Đại Mục đến phá kế Hoàn Phạm. Lịch sử Tây Phương hàng ngàn năm sau Tam Quốc cũng xảy ra biến cố chính trị tương tự tại nước Đức. Đó là cuộc cách mạng hụt do Kapp và Luttwitz lãnh đạo chống chính phủ Bauer. Bị mất thủ đô, Bauer thoát ra ngoài quật lại khiến Kapp và Luttwitz thất bại.
Trotzky cho rằng những vụ tương tự chỉ có thể thành công khi kẻ chủ mưu tạo ra được tình trạng: “Trái đấm cực mạnh đánh trúng bụng một người tê liệt”. (Un coup de poing à un paralytique).

Nếu Tào Sảng biết nghe lời Hoàn Phạm, rời xa giá ngay về căn cứ Hứa Đô, nghĩa là Tào Sảng không chịu bị đẩy vào tình trạng tê liệt, thì Tư Mã Ý không thể thành công.
Cổ nhân đối đãi với chính trị có đặt vấn đề: “nắm cơ hội”. Cơ là gì? Yết Tuyên Tử dạy rằng: “Chỗ giao lưu của tình thế, chỗ chuyển biến của sự việc, chỗ khẩn tấu của thời gian gọi là Cơ.”
Cuộc đấu tranh giữa Tư Mã Ý và Tào Sảng nói tóm lại chỉ quyết định bởi khả năng nắm cơ hội của hai người. Tư Mã Ý lật Tào Sảng cướp ngôi Nguỵ chỉ khả dĩ thành công với điều kiện nếu kế hoạch: vi đa ư thiếu, vi đại ư tế, đồ nan ưu dị (làm ít thắng nhiều, làm nhỏ thắng lớn, làm dễ để khắc phục được việc cực nhọc, khó) hoàn thành. Lẽ ra Tào Sảng phải khoét rộng, tạo nhiều khó khăn cho Tư Mã Ý, trái lại Tào Sảng đầu hàng họ Tư Mã khiến cho Tư Mã Ý đã thắng lợi dễ dàng càng thêm dễ dàng. Cho đến lúc Hạ Hầu Bá liên lạc được với Khương Duy thì nội bộ Nguỵ đã yên ổn hẳn rồi. Sở dĩ tập đoàn Tào Sảng thất bại là vì tập đoàn này thiếu nghị lực cai trị (volonté de gouverner) do sự vô tổ chức mà ra. Quản Lộ phê bình: Đặng Dương là người gân không bó được xương, mạch không giữ được thịt, ngồi đứng ngả nghiêng, hình như không có chân tay, và Hà Yến là người không tươi được sắc mặt, tinh thần bất định, dáng tựa cây khô. Cả hai nay mai tất có vạ diệt mình.

Lời phê bình ấy chính là ám chỉ vào cảnh vô tổ chức, thiếu đường lối chính sách của tập đoàn chính trị Tào Sảng.
Tào Tháo dùng bao công lao để khắc phục những khó khăn chính trị, quân sự mới lập nên triều Nguỵ. Tư Mã Ý chưa đầy một tuần đã đem cơ nghiệp Nguỵ chuyển sang tay mình. Đó âu cũng là cái luật anh hùng tạo thời thế và thời thế tạo anh hùng. Tào Tháo tạo ra thời thế. Thời thế tạo ra Tư Mã Ý.
Thời thế tạo nên Tư Mã Ý, do chính tại Nguỵ chủ Tào Tuấn cấp cho Tư Mã Ý cơ hội cướp ngôi Nguỵ. Lẽ ra Tuấn dùng Yên Vương làm Đại Tướng quân thì làm gì có chuyện. Vì Tuấn dùng dằng không quyết cuối cùng lại nghe lời bọn Tôn Tư, Lưu Phóng dùng Tào Sảng, và Tư Mã Ý.

Tài năng quân sự của Tư Mã Ý so ra thì kém xa Tào Tháo và Khổng Minh, nhưng Tư Mã Ý lại là người vô địch về quân sự và chính trị khi cả Tào Tháo lẫn Khổng Minh chết rồi.
Tư Mã Ý có một đức tính chính trị rất tốt: lòng nhẫn nại và cơ mật. Sở dĩ Ý dựa được vào thế, phần lớn cũng là nhờ tính nhẫn nại biết nhờ thời cơ. Tư Mã Ý rất sợ tài lược cùng tính nghi ngờ của Tào Tháo, nên suốt thời gian Tháo còn sống, Ý không tỏ lộ tham vọng của mình bao giờ. Tháo thường bảo mọi người thân cận, Ý có tướng “lang cố” nghĩa là quày cổ nhìn đằng sau mà thân thể không động, giống như con lang. Về sau Tháo nói rõ hẳn ý nghĩ về Ý cho Tào Phi nghe: “Ý chẳng phải là nhân thần, tất nhòm ngó nhà ta đấy.”

Bị nghi ngại như thế nhưng nhờ biết ẩn nhẫn nên Tư Mã Ý vượt được hết cả, khiến cho Tào Phi từ chỗ không đề phòng đến chỗ trọng dụng Ý. Tóm lại, sự thành công của Tư mã Ý có hai yếu tố: thời thế và nhẫn nại lực. Nhờ ở nhẫn nại lực, Tư Mã Ý đã tàng trữ được nguyên khí, trí lực, không bị kiệt quệ như Gia Cát Lượng. Ý kém Lượng về đủ mọi mặt nhưng hơn Lượng ở hai chữ ẩn nhẫn.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

14
Vũ Tài Lục
Nói Chuyện Tam Quốc
- 13 -
KHƯƠNG DUY, ĐẶNG NGẢI VÀ CHUNG HỘI


Hạ hầu Bá thấy họ Tư Mã giết Tào Sảng bèn nổi loạn. Tư Mã Ý sai Trần Thái đem quân đến đánh, Bá thua phải chạy về Hán Trung đầu hàng Thục. Khương Duy mở tiệc thiết đãi Hạ Hầu Bá. Duy hỏi Bá rằng:
Cha con Tư Mã Ý coi giữ quyền chính, có bụng nào dòm ngó đến nước ta không?
Bá nói: Lão tặc còn toan việc mưu nghịch, chưa kịp nghĩ đến việc ngoài. Nhưng nước Nguỵ mới có hai người đang trạc tuổi trẻ, nếu hai người ấy lĩnh quân mã thì là một sự lo lớn cho Ngô, Thục đó.
Duy hỏi hai người nào?
Bá nói: một người hiện làm bí thư lang, quê ở Tràng Sa Châu Dĩnh họ Chung tên Hội, tự là Sĩ Quí, con quan Thái phó Chung Do. Người ấy can đảm khôn ngoan từ nhỏ. Khi Hội lên bẩy tuổi, cùng với anh là Chung Dục đang học, có vua Văn Đế đến chơi. Dục bấy giờ mười tám tuổi, thấy vua đến run lập cập, mồ hôi toát ra mặt. Vua hỏi: “Mày sao đổ mồ hôi”, Dục thưa: Sợ hãi lắm lắm, mồ hôi ra như tắm. Hội thì điềm nhiên như không. Vua hỏi: Mày sao không có mồ hôi? Hội thưa: Kinh sợ quá nên mồ hôi không dám chảy. Vua lấy lời nói làm kỳ. Khi Hội gần lớn ham xem binh thư, tường hiểu thao lược. Tư Mã Ý và Tưởng Tế cùng khen tài của hắn. Còn một người ở Nghĩa Dương, hiện đang làm lại, họ Đặng tên Ngải tự là Sĩ Tái, cha mất sớm, từ nhỏ đã có chí lớn. Phàm trông thấy ở đâu có núi cao, đầm lớn tức thì ngắm nghía đo vẽ chỗ nào đóng binh, chỗ nào nên chứa lương, chỗ nào nên mai phục, ghi chép vào một bức địa đồ. Ai cũng chê cười, chỉ có Tư Mã Ý khen là người có chí, mới cho tham tán việc quân cơ. Đặng Ngải nói lắp, mỗi khi nói đến tên mình thường hay nói: “Ngải, Ngải”. Tư Mã Ý bỡn rằng: Ngươi nói Ngải Ngải…. thì ra bao nhiêu Ngải kia? Ngải ứng khẩu đáp: “Phượng hề, Phượng hề thì cũng một phượng chớ mấy phượng”.
Hai người này thật đáng ngại.
Đặng Ngải và Chung Hội là đại biểu cho sự vươn lên của thế hệ trẻ đầy hăng hái với mưu chước táo bạo, sẽ giúp nhà Tấn phá bỏ thế Tam phân. Cũng như trước đây thế hệ trẻ Khổng Minh, Chu Du, Tôn Quyền, Lỗ Túc đã đứng lên ngăn chặn sức tiến phi thường của Tào Tháo bằng trận Xích Bích để tạo thế Tam phân.
Tư Mã Chiêu dẹp xong Gia Cát Đản bèn quyết kế đánh Thục. Tình hình nước Thục lúc này ra sao? Binh quyền thì ở tay Khương Duy nhưng chính quyền thì thật rối bét. Phí Vĩ chết, Hậu chủ Lưu Thiện tin dùng hoạn quan Hoàng Hạo, Hoàng Hạo luôn luôn tìm cách hãm hại Duy. Khương Duy tuy là người vũ lược nhưng chính trị non kém nên không dám về Thành Đô, đem binh đồn trú ở bên ngoài.
Bởi vậy chính sách văn võ nước Thục mất liên hệ.
Tư Mã Chiêu chia quân làm ba đường tấn công Thục quốc.
a- Đặng Ngải đem ba vạn quân khiên chế chính diện Khương Duy.
b- Gia Cát Tự đem ba vạn quân chặt đứt lộ hầu của Khương Duy.
c- Chung Hội lĩnh đại quân hơn mười vạn quân chia làm hai mặt Tà Cốc và Lạc Cốc tiến vào.
Trước kia Nguỵ Diên còn sống, gìn giữ Hán Trung bằng cách phân ra nhiều cứ điểm phái binh đến đóng rải rác, kẻ địch đến tấn công tất ráng sức bật ra không cho nhập nội.
Về sau, Khương Duy bãi bỏ chiến lược Nguỵ Diên, không dùng các cứ điểm rải rác vì cho như thế tốn phí nhiều, tập trung tất cả vào hai thành Hán Lạc, dử địch vào nội địa, giữ chặt thành trì, đợi khi địch hết lương sẽ xổ ra đánh chắc được lớn.
Chiến lược Khương Duy so với chiến lược Nguỵ Diên, tuy không sai nhưng có phần táo bạo đi đến mạo hiểm, thứ nhất là nó không phù hợp với tình thế chính trị Thục với Hậu chủ Lưu Thiện và hoạn quan Hoàng Hạo nắm quyền. Bởi tính chất mạo hiểm ấy, Chung Hội vào đất Thục dễ dàng. Một mình Khương Duy không đủ chống đỡ quá nhiều mặt trận. Đến lúc Đặng Ngải vượt được dãy núi hiểm trở vùng Âm Bình, thì triều chính Thục quốc cơ hồ mất tinh thần chiến đấu. Hậu chủ nghe theo bọn Tiêu Chu Hoàng Hạo ra lệnh cho Khương Duy bãi chiến xin hàng. Duy dò xét biết tình hình mâu thuẫn giữa Chung và Đặng Ngải, liền ra hàng Chung Hội để khỏi xung đột.
Giả thử, hậu chủ vững tâm tin hẳn kế Khương Duy quyết chống giữ Kiếm Các (trước?) đại quân Chung Hội, để quân Đặng Ngải sau khi vượt Âm Bình không có đường rút nữa bị cô lập thì đâu đến nỗi. Nhưng khổ thay toàn thể triều đình Thục đều không ý thức nổi, chịu đựng nổi chiến lược quá mạo hiểm và gian khổ của Khương Duy.
Hậu chủ đầu hàng, Thục quốc bị chiếm đóng. Trọng tâm chính trị chuyển vào nội bộ nhà Tấn. Tư Mã Chiêu lo sợ Đặng Ngải, Chung Hội làm phản. Nên gấp rút tính kế giải quyết Ngải, Hội.
Sự việc đó như thế nào?
Hãy đọc mấy đoạn cần thiết trong Tam Quốc chí diễn nghĩa:
Thiệu Đễ nói nhỏ với Tư Mã Chiêu rằng: Chúa Công sai Chung Hội lĩnh mười vạn quân sang đánh Thục. Tôi thiết tưởng Hội chí lớn bụng cao không nên cho cầm quyền to một mình.
Chiêu cười nói: ta há chẳng biết sao?
Tư Mã Chiêu bảo với Thiệu Đễ rằng: Trong triều lắm người nói không nên đánh Thục, thế là nhút nhát. Nếu cho họ ra đánh gượng thì tất thua. Chỉ có Chung Hội bầy kế đánh Thục, thế là không nhát, không nhát thì chắc phá được Thục. Thục vỡ rồi, người Thục ruột gan tan nát, dù cho Chung Hội có bụng nào, người Thục giúp làm sao được. Đến như người Nguỵ đánh thắng rồi, tất mong về, không chịu theo. Chung Hội làm phản thì cũng không phải lo đến nữa. Ta chỉ nói cho mình ngươi biết thôi, chớ có để lộ ra ngoài.
Nói về Chung Hội khi cất quân, các quan tiễn ra ngoài thành, tinh kỳ rợp trời, gươm giáo sáng quắc, quân mã hùng tráng oai phong lẫm liệt lắm, ai cũng nức nở khen ngợi, chỉ có tham quân là Lưu Thực tủm tỉm cười nhạt không nói gì.
Thái Uý là Vương Tường thấy Lưu Thực cười mát, đến gần ngựa cầm tay Thực hỏi rằng:
- Chung Đặng, hai người đi chuyến này thế nào?
Thực nói: Chắc phá xong Thục, nhưng ngại không ai trở về được nhà.
Hội truyền lệnh dựng một lá cờ trắng ở trong quân, đề bốn chữ Báo Quốc An Dân. Quân đi đến đâu, cấm không được giết càn một người nào, hễ giết người phải đền mạng. Bởi thế nhân dân trong Hán Trung ra cả thành đón rước lạy hàng. Hội đều lấy lời an ủi không tơ hào phạm đến của dân.
.................................................. ....
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Gia Cát Tự thua to, rút lui ngoài mười dặm hạ trại. Quân Nguỵ chết biết bao nhiêu mà kể. Quân Thục cướp được ngựa xe và khí giới rất nhiều.
Chung Hội hạ trại, cách cửa Kiếm Các hai mươi dặm. Gia Cát Tự vào lạy chịu tội. Hội nổi giận sai lôi Tự ra chém.
Vệ Quán can rằng: Tự tuy có tội, nhưng là người của Đặng Ngải tướng quân, không nên giết e thương tổn hoà khí hai bên.
Hội nói: ta phụng minh chiếu của thiên tử và tuân lệnh của Tấn Công sang đây đánh Thục, cho đến Đặng Ngải có tội ta cũng chém.
Chúng cố sức can ngăn, Hội mới bắt Gia Cát Tự bỏ vào xe cũi đưa về Lạc Dương cho Tấn Công phát lạc. Còn quân của Tự thì thu cả lấy làm bộ hạ sai khiến.
(Có người báo với Đặng Ngải. Ngải nổi giận, nói rằng
Ta với nó phẩm tước ngang nhau, ta trấn thủ ngoài biên thuỳ đã lâu, lập bao nhiêu công với nước, sao nó lại dám khinh ta quá thế.
.................................................. .........................
Bấy giờ trong triều nhiều người nói Đặng Ngải có ý muốn làm phản. Tư Mã Chiêu trong bụng nghi ngờ lắm. Sực có người sứ đưa thư Đặng Ngải đến, Chiêu mở ra xem. Xem xong bảo Giả Sung rằng: Đặng Ngải cậy có công sinh ra kiêu ngạo, tự ý xử việc. Tình hình làm phản đã rõ rồi, làm thế nào bây giờ?
Giả Sung nói: Chúa công sao không phong ngay cho Chung Hội để đè nén Đặng Ngải đi.
Chiêu nghe lời, sai sứ mang chiếu vua phong cho Chung Hội làm Tư Đồ, sai Vệ Quán giám đốc hai đạo quân mã, trao một phong thư cho Quán để đưa cho Hội, sai Hội dò xét Đặng Ngải, phòng có việc bất trắc gì chăng?
Chung Hội chịu phong chức đâu đấy, bàn với Khương Duy rằng:
Đặng Ngải công ở trên ta, lại được phong chức Thái uý. Nay Tư Mã Chiêu nghi Ngải có ý làm phản nên cho Vệ Quán làm giám quân, lại xuống chiếu sai ta kiềm chế bớt đi. Bá Ước có cao kiến gì chăng?
Duy nói: tôi nghe Đặng Ngải xuất thân hèn hạ, thuở nhỏ đi chăn bò. Nay cầu may từ đường tắt Âm Bình, vin cây vượt núi, lập được công to. Đó không phải là giỏi giang gì đâu, chẳng qua nhờ hồng phúc nhà nước đấy thôi. Nếu không có tướng quân giữ nhau với nhau với tôi ở cửa Kiếm Các, thì Ngải thành công sao được. Nay Ngải định phong Thục chúa làm Phù Phong Vương, là có ý muốn kết nhân tâm nước Thục, tình hình làm phản chẳng nói ai cũng rõ ràng. Tấn Công sinh nghi thật là phải.
Hội nghe lọt tai mừng lắm.
Duy lại nói: xin cho tả hữu lui hết. Duy thò tay vào trong áo lấy ra một bức địa đồ đưa cho Hội và nói rằng: Khi xưa Võ Hầu ra khỏi lều tranh đem bản đồ này dâng cho Tiên đế và thưa rằng: đất Ích Châu, đồng lầy ngàn dặm, dân nhiều nước giầu có thể làm bá nghiệp. Tiên đế nhân đó mới mở ra Thành Đô, Đặng Ngải thấy vậy, trách nào mà chẳng cuồng người lên.
Hội trỏ hình thế sông núi: Duy nói rành rọt từng tý.
Hội lại hỏi rằng: nay nên dùng chước gì mà trừ Đặng Ngải cho đặng?
Duy nói: nên nhân lúc Tấn Công đang nghi ngờ, kíp dâng biểu về mà kể cái hình tích làm phản của Đặng Ngải ra. Tấn Công tất sai tướng quân đánh hắn thì chỉ một trận là bắt được.
Hội nghe lời lập tức sai người mang biểu về Lạc Dương, nói Đặng Ngải chuyên quyền rông rỡ, kết hiếu với người Thục, nay mai tất làm phản. Bởi thế văn võ trong triều ai cũng kinh hãi. Hội lại sai người đón đường bắt lấy biểu văn của Đặng Ngải, rồi theo lối chữ của hắn mà viết lại thành các lời kiêu ngạo, để chứng thực lời mình.
Tư Mã Chiêu thấy văn biểu của Đặng Ngải bèn nổi giận sai người ra truyền cho Chung Hội phải bắt Đặng Ngải. Lại sai Giả Sung dẫn ba vạn quân vào Tà Cốc, rồi Chiêu cùng với Nguỵ chủ Tào Hoán ngự giá thân chinh. Tây Tào duyên Thiệu Đễ nói:
Quân Chung Hội nhiều gấp sáu của Đặng. Sai Hội bắt Ngải cũng nổi, minh công can gì phải đi?
Chiêu cười rằng: thế ra ngươi quên mất lời ngày trước rồi à. Trước ngươi nói Chung Hội về sau làm phản. Ta đi chuyến này không phải vì Đặng Ngải đâu, thực là vì Chung Hội đó.
Đọc kỹ những đoạn văn trên ta sẽ thấy rằng: chỉ Chung Hội có ý chống lại Tư Mã Chiêu, còn Đặng Ngải thì tuyệt đối không. Sở dĩ Đặng Ngải bị nghi ngờ là Ngải nông nổi, tự đắc, nhược điểm của Ngải là cái sở đoản của tất cả những người quân nhân trong khắp lịch sử. Quả nếu Ngải định tâm làm phản Chiêu, Vệ Quán làm sao bắt trói Ngải một cách quá ư dễ dàng như vậy? (Đặng Ngải còn chưa ngủ dậy, Quán dẫn vài mươi người xông thẳng vào tận giường gọi to lên rằng: ta phụng chiếu đến bắt cha con Đặng Ngải đây. Ngải choàng dậy nhẩy xuống đất. Quán quát võ sĩ trói lại và bỏ vào xe cũi).
Nhiều người nói sở dĩ Quán bắt Ngải dễ dàng là vì trước khi thi hành sứ mạng, Quán đã khôn khéo viết hịch phủ dụ tướng sĩ. Điều này mâu thuẫn với sự việc xẩy ra về sau, lúc Chung Hội bị các tướng nổi lên giết, thì bộ hạ Đặng Ngải bàn nhau cướp lại Đặng Ngải cho nên Vệ Quán mới sai người giết phăng đi trừ hậu hoạ.
Phần Chung Hội thì tình thế đã đẩy Hội vào thế bước phản họ Tư Mã, bởi tại Tư Mã Chiêu mang sẵn ý định giết Chung Hội trước rồi, nghĩa là từ lúc Chung Hội sửa soạn chinh phục đất Thục (Xem lại lời Lưu Thực). Lý do Tư Mã Chiêu muốn giết Hội vì Hội con Chung Do mà Chung Do lại là trung thần của nhà Nguỵ. Bỏ Chung Hội từ trước thì ai có khả năng đánh Thục bằng Hội, giải quyết xong được Thục rồi, đương nhiên sự cần thiết Chung Hội hết rồi, chỉ còn lại sự sợ hãi thế Chung Hội lớn sẽ lấn át quyền của mình. Chung Hội biết bụng Tư Mã Chiêu lắm chứ.
Tại sao Chung Hội thất bại?
Tam Quốc chí diễn nghĩa đổ tại Khương Duy đau bụng, Khương Duy đổ tại mệnh trời (mẹo ta không thành, thực là số trời vậy). Thực ra thất bại của Chung Hội là do lòng người không muốn. Cơ thống nhất đã sẵn sàng, mọi người đều không chịu cảnh phân chia tranh chiến thêm nữa, cho nên tướng sĩ của Hội nổi lên giết Hội, đúng như lời Tư Mã Chiêu đã nói với Thiệu Đễ: người Nguỵ đánh thắng rồi, tất mong về, quyết không theo Chung Hội làm phản. Tư Mã Chiêu quả xứng đáng với lời phê bình của Khương Duy: “Tư Mã Chiêu gian hùng chẳng khác chi Tào Tháo”.
Đến như Khương Duy thì lại mang một tâm sự riêng. Duy đi với Hội nhưng lại chỉ muốn dùng Hội để khôi phục lại Thục quốc. Trong khi toàn bộ máy chính trị nước Thục từ vua quan đến dân chúng đã đi ngược lại hoài bão của Duy rồi. Vua quan triều đình thì ra hàng Đặng Ngải, dân chúng thì mang cơm rượu và hoa ra mừng đón quân Đặng Ngải, Khương Duy có là ông trời chăng nữa cũng chẳng sao cứu nổi một tình thế tương tự, huống hồ Khương Duy còn khờ dại bộc bạch cả mưu kế lớn lao của mình cho Lưu Thiện biết. Suốt đời Duy không thành công trên chính trị bao giờ.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

15
Vũ Tài Lục
Nói Chuyện Tam Quốc
- 14 -
TIỀU CHU VÀ PHẦN TỬ TRÍ THỨC CUỐI TAM QUỐC


Nhà học giả lớn của Trung Quốc, ông Tiền Mục viết: chính trị Tây phương vẫn chịu ảnh hưởng của giáo đường. Chúa Ki tô phán: “Sự việc của César trả lại cho César quản nhiệm, sự việc của Thượng đế do Ta trông coi”. Lời nói ấy mang ý nghĩa: chính trị thuộc hoàng đế, đạo lý thuộc thượng đế. Khi đế quốc La Mã sụp đổ thì hoàng đế lại phải chịu sự phong chức, gia miện của Giáo hoàng.
Bởi vậy Tây phương đã trải qua một thời gian khá dài Thượng đế cai quản cả công việc của César. Do đó về sau mới phát sinh ra cách mạng tôn giáo gây thành tình trạng chính quyền và giáo quyền phân lập. Cho đến nay sinh hoạt chính trị Tây phương vẫn chưa ra khỏi vòng luẩn quẩn trên, mặc dầu hiện tượng và danh từ tuy có khác, nhưng bản chất thì không khác chút nào.
Chính trị Trung Quốc không có César cũng như không có thượng đế mà chỉ có những người đọc sách (phần tử trí thức). Bởi vậy mọi biến cố chính trị thống nhất đều do phần tử trí thức. Cho nên ở lịch sử Trung quốc người ta thường thấy những hiện tượng:

1- Khi nào chính quyền và phần tử trí thức hợp tác chặt chẽ, xã hội quốc gia sẽ hưng thịnh, yên ổn.
2- Khi nào chính quyền và phần tử trí thức xung đột, xã hội quốc gia sẽ tao loạn.
3- Khi nào phần tử trí thức tuyệt vọng với hiện thực, hoặc chuộng hư văn, xã hội quốc gia sẽ suy yếu.
4- Khi nào phần tử trí thức phấn khởi phát huy tư tưởng, say sưa trở về đồng ruộng giáo huấn đại đa số quần chúng nông dân, xã hội quốc gia sẽ phục hưng.

Thời đại Tam Quốc muốn hiểu cho xác thực thì phải lấy Gia Cát Lượng và Tào Tháo là trung tâm. Vì hai người này là đại biểu cho sự diên trường của cuộc đấu tranh giữa phần tử trí thức với bọn hoạn quan. Để chỉnh đốn hàng ngũ, Tào Tháo chủ trương tuyệt đối chống lại phong khí sĩ đại phu cuối nhà Hán. Gia Cát Lượng chủ trương “đạm bạc ninh tỉnh” để sửa lại phong khí sĩ đại phu. Nhờ chủ trương phản đối triệt để ấy mà Tào Tháo đã được những phần tử trí thức tiến bộ quy phục nhiều hơn Gia Cát Lượng.
Tiều Chu là một phần tử trí thức nhiều tiếng tăm ở Thục, đồng thời Tiều Chu cũng là điển hình của phần tử trí thức bạc nhược, hư vọng và tuyệt vọng với hiện thực của những năm cuối Tam Quốc.
Tiều Chu là người như thế nào?
Sách sử chép: “từ lý uyên thâm, vi thế thạc nho”.
Tiều Chu đã hành động ra sao?
Các nhà phê bình sử hậu thế, coi việc Tiều Chu xui Hậu chủ đầu hàng Đặng Ngải là một hành động tối vô liêm sỉ của người đọc sách.
Tam Quốc chí diễn nghĩa kể: Hậu chủ ở Thành Đô nghe tin Đặng Ngải đã lấy được Miên Trúc, mà cha con Gia Cát Chiêm đều chết trận cả rồi, sợ hãi không biết ngần nào, kíp vời văn võ vào thương nghị.
Cận thần tâu rằng: Nhân dân ở ngoại thành, già trẻ giắt díu nhau chạy loạn, tiếng khóc vang động xa gần.
Hậu chủ kinh hoảng.
Sực lại có tiểu mã chạy đến báo rằng: quân Nguỵ sắp đến dưới thành rồi.
Các quan bàn rằng: Ở đây quân đơn tướng ít, địch sao nổi quân Nguỵ, không bằng bỏ Thành Đô chạy sang bẩy quận xứ Nam Trung, đất đó hiểm trở có thể giữ được, nhân thể mượn quân Nam về khôi phục cũng chưa muộn.
Quang Lộc đại phu Tiều Chu nói: Không nên. Quân Man vốn là quân phản trắc, xưa nay không có ân huệ gì với ta, nếu ra nhờ đấy tất sinh vạ to.
Các quan lại tâu rằng: Thục Ngô đã đồng minh với nhau, nay việc kíp lắm, nên sang ở nhờ Đông Ngô cũng được.
Chu lại can rằng: Từ xưa đến nay, không có thiên tử nào đi nhờ nước khác bao giờ. Tôi chắc rằng Nguỵ lấn được Ngô chớ Ngô không lấn được Nguỵ, nay xưng thần với Ngô là nhục một lần. Ngô bị Nguỵ lấn nốt lại đi xưng thần với Nguỵ là nhục hai lần. Chi bằng hàng ngay Nguỵ đi, Nguỵ tất cắt đất phong cho bệ hạ. Như thế trên giữ được tôn miếu, dưới yên được lê dân. Xin bệ hạ nghĩ cho kỹ mà xem.
Hậu chủ phân vân chưa quyết, lui vào trong cung.
Hôm sau các quan lại hội nghị. Tiều Chu thấy việc đã cấp đến nơi lại dâng sớ cố khuyên hàng. Hậu chủ nghe dịu tai, sửa soạn ra hàng.
Sực ở sau cánh bình phong, có một người quát to lên mắng Tiều Chu rằng: Quân hủ nho sợ chết kia. Sao dám nói càn đến việc lớn của xã tắc. Từ xưa có thiên tử hàng bao giờ mà mày nói càn như vậy?
Bức thư hàng của Hậu chủ mang những câu rất văn vẻ nhưng lại cũng rất hèn hạ. Hậu thế cho là chính tại danh sĩ Tiều Chu với khả năng văn chương và với một tâm lý tham sinh uý tử mới viết được ra như thế.
Người mắng Tiều Chu là Lưu Thầm con thứ năm của Hậu chủ. Thầm mắng Chu vì tiếc cơ nghiệp của ông cha.
Tiều Chu xui Hậu chủ đầu hàng để bảo vệ mạng sống cá nhân, địa vị cá nhân. Tuy nhiên qua Tiều Chu, một con người trí thức bậc nhất nước Thục, người ta còn thấy sự sa đoạ của toàn bộ trí thức nho cuối đời Tam quốc.
Lực lượng quốc gia gốc ở đâu? Ở văn hoá. Lực lượng văn hoá gốc ở đâu? ở khí chất dân tộc. Khí chất dân tộc gốc là gì? Là đạo đức, là sinh mệnh lực và tâm trí lực (morale vitality, mentality)
Thời đại Tam Quốc là thời đại mà phần tử trí thức nho nắm giữ vai trò cực quan hệ đối với công cuộc thống nhất nền chính trị, văn hoá, kinh tế, địa dư trong lịch sử Trung Quốc. Gần một trăm năm đấu tranh, phần tử trí thức nho đã tạo nên nhiều công trạng lớn lao mà sau này nhà Đường thừa hưởng.
Như chúng ta biết, lịch sử không chuyển đến theo một vạch thẳng, mà tiến hoá vận động theo một đường xoáy trôn ốc, cho nên cuối Tam Quốc phần tử trí thức nho đi từ hư nhược đến tỳ ố. Tại sao lại có tình trạng sa đoạ như vậy?
Nó là kết quả của ba nguyên do:

1- Tam Quốc thời đại chịu quá nhiều cuộc chém giết, chiến tranh khiến cho nhân tâm kinh hoàng.
2- Tam Quốc thời đại loạn lạc, lưu ly khiến sinh hoạt khó khăn, dân chúng hoài nghi cả sự sống.
3- Huyền học phái hưng thịnh. Lão học quật khởi bằng chủ nghĩa thần bí, chống Nho học đã gây nên thực tiễn điêu tàn trước mắt.
4- Cuối Tam quốc là giai đoạn quá độ của tranh chấp Nho Đạo và Phật giáo tại Trung quốc. Phật giáo do đạo Lão bắc cầu đem vào Trung quốc.

Tóm lại ở cuối đời Tam Quốc các chủ nghĩa : Phá hoại, hoài nghi yếm thế phát triển mạnh, nghĩa của nho phái bị bóp méo, ẩn nguỵ. Do đó từ đạo đức đến sinh mệnh lực, tâm trí lực của Nho học tại Trung Quốc mỗi ngày mỗi suy yếu. Tình trạng ấy không chỉ thai nghén ra Tiều Chu mà thôi, nó còn tạo ra loạn Ngũ Hồ phân cách Nam Bắc triều, hỗn loạn lục triều sau này.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

16
Vũ Tài Lục
Nói Chuyện Tam Quốc
TỔNG LUẬN


Toàn bộ lịch sử Trung quốc có bảy thời đại phân liệt:
1- Xuân Thu chiến quốc.
2- Hán Sở tranh hùng.
3- Tam Quốc.
4- Nam Bắc triều.
5- Tuỳ Đường phân tranh.
6- Ngũ đại thập quốc.
7- Tống Kim phân lập.

Thời đại Nam Bắc triều và Nam Tống, sự tranh chấp do dân tộc phân lập, quan niệm Trung Hoa và dị tộc nặng nên không đáng kể.
Còn lại Xuân Thu chiến quốc, Hán Sở tranh hùng, Tuỳ Đường phân tranh, Ngũ đại thập quốc và Tam quốc, sự tranh chấp hoàn toàn nội bộ và riêng Tam quốc tính chất chính trị cao hơn hết. Vì vậy tuy Hán Sở, Tuỳ Đường, Ngũ Đại, Xuân Thu, đều được thành lịch sử diễn nghĩa, nhưng Tam Quốc chí diễn nghĩa vẫn được lưu truyền và yêu thích hơn hết. Các bản cổ kịch Trung hoa phần lớn rút ra từ Tam quốc nhiều hơn những sử khác. Các nhà soạn kịch danh tiếng đều rất ưa thích chuyện của Tam quốc. Tỉ dụ như Vương Hoa soạn vở Ngoạ Long Cương.

Vương Thực Phủ soạn vở: Lục Tích hoài quất, Tào Thực.
Quan Hàn Khanh soạn vở : Đơn đao hội.
Thượng Trọng Hiền soạn vở: Gia Cát Luận công.
Cao Văn Tú soạn vở: Lưu tiên Chủ Tương dương hội v.v. và các vở nổi tiếng do các soạn giả vô danh như: Liên Hoàn kế, Bác Vọng thiêu đồn, Cách giang đấu trí v.v…
Đến nhà Thanh, Tam quốc coi như sách gối đầu giường của các chính trị gia. Đầu nhà Thanh còn có Tổ Vũ trước tác cuốn “Độc sử phương yếu” bàn đến những chiến trận Tam quốc căn cứ vào địa lý học rất nhiều.
Tại sao Tam quốc lại được chuộng như vậy?

Có hai lẽ:
Một là: Những sách diễn nghĩa về thời đại Xuân Thu chiến quốc quá ít tài liệu lại quá ít căn cứ, thêm nữa tình tự Xuân Thu chiến quốc rất phiền tạp, khó lòng làm cho người đọc mãn ý, thoả thuê. Sở Hán, Tuỳ Đường thì ngắn quá, vả lại tranh chấp không có gì gay go. Còn Ngũ đại thập quốc thì lôi thôi, nhân tài của thời đại cũng tầm thường.

Hai là: Tam quốc chính trị tuyệt cao. Tranh chấp cực gay go kỳ diệu. Các giá trị đều va chạm nhau ở thời đại này. Cái đạo đức của Quan Vũ va chạm với cái trí mưu, lão luyện của Tào Tháo. Cái trí mưu lão luyện của Tào Tháo va chạm với cái thiên tài của Gia Cát Khổng Minh. Tam quốc là thời đại mà sự vận động của phần tử trí thức rõ rệt nhất và cũng ly kỳ nhất, và khuyết điểm của phần tử trí thức Tam quốc thật là muôn mầu muôn vẻ. Quyết đoán quân cơ như Từ Thứ, Bàng Thống; hành quân dùng binh như Chu Du, Lục Tốn, Tư Mã Ý. Liệu người liệu việc như Triệu Vân, Quan Vũ, Trương Phi, Hoàng Trung, Nghiêm Nhan. Xung phong hãm trận kiêu dũng như Mã Siêu, Hứa Chử, Điển Vi, Lã Bố, Thái Sử Từ. Hai tài tương đương đấu trí như Đặng Ngải (với Chung Hội, hay Khương Duy?). Gàn dở như Nễ Hành. Huênh hoang như Khổng Dung v.v.v.

Ngoài ra tất cả ai ai cũng yêu Tam quốc chí diễn nghĩa ở chỗ phóng khoáng của nhà văn La Quán Trung, đã phá được sự gò bó của sự thật lịch sử để mà tạo nên hứng thú nhiệt náo tình tiết ly kỳ. Mặc dầu ở đây mục đích của chúng ta là đi tìm một phương pháp khác với “Độc Tam Quốc chí Pháp” ghi trên đầu sách Tam quốc, nghĩa là chúng ta bàn luận, khơi đào kê khảo để hiểu nguyên nhân lịch sử chính trị, xã hội, tư tưởng cho mỗi sự kiện, mọi biến từng (tướng?) cục diện Tam quốc chứ không bị lôi cuốn bởi văn chương Tam quốc đến nỗi nghĩ rằng Thục Nguỵ chỉ chiến không hoà hay Ngô Thục chỉ hoà nhiều hơn chiến và Ngô Nguỵ chiến nhiều hơn hoà, là để chứng dẫn bút pháp tài tình của nhà văn.

Tuy nhiên sau khi đã phân tích bản chất và hiện tượng, nguyên nhân và kết quả, căn cứ và điều kiện, khả năng và hiện thực cùng liên hoàn tính của chính cục Tam quốc rồi, chúng ta lại vẫn có thể trở về cái phóng dật của bản tính của người Đông phương đối với chính trị để mà ngâm ngợi mấy câu cổ phong:

Phân phân thế sự vô cùng tận
Thiên số mang mang bất khả đào
Tam phân đỉnh túc dĩ thành mộng
Hậu nhân bằng điếu không lao tao.
(Ngẫm thế sự bời bời ngán nổi
Cuộc tang thương biến đổi khôn lường
Tam phân một giấc mơ màng
Viếng đời gọi có mấy hàng nôm na).

__________________________________________________ __________________

MỤC LỤC.
LỜI NÓI ĐẦU
NHỮNG VIỆC ĐI TRƯỚC TAM QUỐC
Giai cấp mới – Bình dân tham chính – Ai diệt lục quốc – Hạng Võ đi ngược chiều lịch sử - Lưu Bang biết được thế lớn – Lưu Bang bỏ thế lớn – Văn hoá xung kích và Tam quốc.
NHỮNG GIAI ĐOẠN CHỦ YẾU CỦA TAM QUỐC.
Giai đoạn tiền Tam quốc từ 184 đến 220 – Giai đoạn xây dựng chính thức thế chân vạc – Giai đoạn ba nước tiêu diệt lẫn nhau và nhà Tấn thông nhất – Địa lý thời hậu Hán.
MẦM LOẠN.
Hoạn quan – Ngoại thích – Xung đột giữa phần tử trí thức và hoạn quan - Ẩn dật và ra mặt chống đối – Loạn Khăn vàng – từ Hoàng cân, hoạn quan đến quân phiệt - quân phiệt Đổng Trác – Những nguyên nhân thất bại – Luận về chính quyền và cái chết của Đổng trác – Điêu Thuyền và cái chết của Đổng Trác.
PHẦN TỬ TRÍ THỨC.
Lý luận Vilfredo Pareto – Phần tử trí thức đời Xuân thu đời Chiến quốc – Phần tử trí thức giao thời Tần Hán – Phần tử trí thức đời Tây Hán – Phần tử trí thức tại triều bị hoạn quan quật ngã – Vương Doãn một điển hình Nguỵ trí thức cùng loại Vương Doãn – Văn hoá xung kích – Loạn Khương Hồ và kiêu binh.
QUÁ TRÌNH TIÊU TRƯỞNG CỦA CÁC LỰC LƯỢNG
Tình thế Châu U – Hậu quả của hành động mua giây thắt cổ - Lực lượng Tào Tháo trưởng thành – Khái quát thực trạng đấu tranh và liên hợp giữa các lực lượng – Chiến cục Tào Tháo và Đào Khiêm – Lưu Huyền Đức gặp cơ hội đầu tiên – Lã Bố thua – Một điều tuyến nứt rạn – Khổng Dung, chế độ danh sĩ đã hết – Tập đoàn Thái học sinh – Chính sách Tào Tháo sử đãi bọn danh sĩ – Tào Mạnh Đức cần vương – Nội tình việc đem vua về Hứa đô – Vụ chiếu chỉ đai áo Lưu huyền Đức – Hai người đàn bà có ảnh hưởng đến đời chính trị của Lưu Bị.
CHIẾN TRANH VIÊN TÀO.
Viên Thiệu dưới mắt La Quán Trung xét lại chiến dịch Quan Độ - Xét lại trường hợp Viên Thiệu – Lực lượng Viên Thiệu tiêu diệt ra sao – Điền Trù – Chính sách đồn điền là gì?
TRẬN XÍCH BÍCH.
Châu Du – Lỗ Túc - Cố Ung – Luận về Tôn Ngô – Mưu sĩ Tuân Úc – Luận về cái chết của Tuân văn Nhược – Tuân Úc, Nễ Hành, Trần Cung.
CỤC DIỆN CHÍNH TRỊ ÍCH CHÂU VÀ KINH CHÂU
Lã Mông là người thế nào – Quan vân Trường – Bàn luận về cái đức của Quan vân Trường.
LUẬN VỀ TÀO THÁO.
Chính thống và đạo thống – Tào Tháo là con người như thế nào – Gian thần thoán đoạt – Thời đại và xã hội mà Tào Tháo sinh trưởng – Trước hết Tào Tháo có nhân nghĩa để mà vận dụng không – Nhưng đáng kể nhất vẫn là con người chính trị của Tào Tháo – Tâm lý chính trị của Tào Tháo – Bàn về công việc tranh đoạt chính quyền của Tào Tháo – Bàn về cách sử dụng quyền uy của Tào Tháo – Nghi án Lã Bá Xa và Lưu Phúc.
LUẬN VỀ GIA CÁT LƯỢNG.
Tập đoàn trí thức Phương Nam – Tam cố thảo lư – Thiên tài chính trị - thất bại Kinh châu lần thứ nhất – Ngoại giao trên hết – Tư tưởng và tài cán quân sự - Cái tài mượn của Khổng Minh – Bàn về những thất bại của Khổng Minh – Thất thủ Nhai đình – Nguỵ Diên tạo phản và tình hình Ba Thục.
TƯ MÃ Ý CHIẾM NGÔI NGUỴ
Ngón đòn trí mạng của Tư Mã Ý – Kỹ thuật đảo chính của Trotzky đã được Tư Mã Ý thực hiện cả ngàn năm trước.
KHƯƠNG DUY, ĐẶNG NGẢI VÀ CHUNG HỘI
Thất bại của thoả hiệp Chung Hội–Khương Duy – Nhu cầu thống nhất đã huỷ diệt mưu đồ của Đặng Ngải.
TIỀU CHU VÀ PHẦN TỬ TRÍ THỨC CUỐI TAM QUỐC
Phần tử trí thức rời bỏ nhiệm vụ khiến cho chính trị thất bại – Tranh chấp Nho đạo và Phật giáo – Huyền học phái hưng thịnh do tâm lý chán ghét chiến tranh.
TỔNG LUẬN
So sánh Tam quốc với các bộ sử khác.
SÁCH THAM KHẢO
La Quán Trung (bản dịch của Bùi Kỷ)
Chu Cốc Thành
Tiền Mục
Trịnh Chấn Đạt
Mã Bân
Khổng Minh
Trình Triệu Hùng
Trình Triệu Hùng
Tào Tháo – Tào Thực
Sái Cảnh Dương
Từ Lượng Chí
Nam cung Bắc
Trường Kỳ Quân
Hồ Thu Nguyên
Từ Lương Chi
Nhiệm Tất Minh
Lã thái Công
René Porak
Malaparte
J.W.Lapierre
James Burnam
J.Jacques Chevalier
Machiavel
Vilfredo Pareto

HẾT
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 100 trang (999 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [87] [88] [89] [90] [91] [92] [93] ... ›Trang sau »Trang cuối