Trang trong tổng số 100 trang (999 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [86] [87] [88] [89] [90] [91] [92] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

Không mập mờ
Một chính trị gia hay một tập đoàn chính trị phải kiến tạo lập trường rõ rệt. Nhà văn Chekow đã miêu tả sự thất bại qua nhân vật Gusev “lúc nào cũng bị dầy vò bởi ý tưởng mờ ảo mà hắn ta không định rõ là hắn muốn gì?”

Ở Tào Tháo, ngay từ khi bắt đầu hoạt động, Tào Tháo đã đặt mình vào một vị trí nhất định không chân nọ chân kia, chờ đợi như nhiều kẻ khác.

Việc mưu sát Đổng Trác hỏng, mặc dầu đã biện hộ cho khỏi bị nghi ngờ, nhưng chẳng dùng dằng, Tháo ra cửa mượn ngựa trốn thẳng một mạch. Trên sự việc là trốn để tránh hoạ cho thân, nhưng trên tâm lý Tháo quyết đối lập với Trác. Thoát rồi, Tháo liền thảo hịch đánh Trác, tờ hịch của Tháo được các trấn hưởng ứng, chư hầu hội tụ. Trác thua chạy về phía Tây. Viên Thiệu không đuổi, có ý muốn thoả hiệp với Trác. Tháo nhất định phá việc đó nên mang một vạn quân cùng các bộ tướng suốt ngày đuổi theo đánh Đổng Trác.

Bình xong giặc Khăn Vàng vùng Từ, Duyện, Tháo được các triều thần gọi về dẹp loạn Lý Thôi-Quách Dĩ. Chủ kiến đã định, tới thành đô, lập tức Tháo quét sạch luôn cả bọn danh sĩ lỗi thời cùng toàn bộ tập đoàn thống trị cũ.

Với Tháo, trên phương diện thủ đoạn cơ mưu chính trị có thể mang những nét quanh co uẩn khúc, nhưng trên phương diện lập trường thì chỉ có một vạch thẳng. Bởi lẽ đó mà những người theo Tào Tháo tin ông ta hoàn toàn. Bởi đường lối chính trị minh bạch mà Tào Tháo tạo được một uy thế chính trị vững chắc.

Cứng rắn
Tào Tháo thường nói: “Thật là khôi hài nếu con người ta cũng giống như cây đàn, hễ hơi đụng tới thì nó kêu rên lên”. Chính trị với Tháo đòi hỏi sự tiêu diệt mọi tình cảm lòng thòng vô ích. Thương vay khóc mướn sẽ làm sét rỉ tâm não nhà chính trị.
Đúng thế, kẻ nhạy cảm thường vẫn là kẻ tự phản bội chính mình, cho nên nhà văn Andreev trong tập truyện ‘Bẩy kẻ bị chết treo” đã ca tụng thái độ kiên quyết của một nhà cách mạng qua nhân vật “Kẻ tử tù”:

Ôi! Nếu mặt con người mà khoá được như cánh cửa lao thất, thì mặt người tù ấy tôi thấy bưng kín, lạnh lùng và bên ngoài còn cả chiếc khoá to lớn.
Bàn về công cuộc tranh đoạt chính quyền của Tào Tháo
Như ta đã biết, xã hội Trung Quốc đương thời Tào Tháo mang nhiều mối xung đột quyết liệt:

Xung đột nội bộ chính quyền trung ương.
Xung đột giữa các chính quyền địa phương với chính quyền Trung ương,
Xung đột giữa các lực lượng địa phương với nhau.
Xung đột giữa hai cấp lãnh đạo cũ và giai cấp lãnh đạo đang lên, hay xung đột giữa phần tử trí thức bình dân và phần tử trí thức danh gia thế tộc.
Xung đột giữa quần chúng rộng lớn với chế độ lại trị đang đi xuống của chính quyền triều Hán.
Xung đột giữa khuynh hướng thống nhất và khuynh hướng chia cắt phong kiến.

Tóm lại, Trung Quốc lúc đó đang đi vào cơn khủng hoảng lớn trên chính trị, văn hoá và sinh hoạt, nói chung là khủng hoảng của Trật tự và Tiến bộ (l’ ordre et le progrès). Một đằng trật tự cũ đang ra sức phá hoại tiến bộ. Đằng khác, tiến bộ đang ra sức kiến tạo lực lượng mới để nhoi lên.

Trật tự và Tiến bộ là hai vấn đề cơ bản cho sự sinh tồn của một chế độ. Muốn giải quyết những xung đột trên thì vấn đề chủ yếu là vấn đề chính quyền, bởi vì quyền lực chính trị là chiếc chìa khoá cần thiết để khai thông các lối ngõ bị lấp bít. Quan niệm và học thuyết về chính quyền cũng là quan niệm và học thuyết của cuộc diễn tiến lịch sử. Học thuyết chính trị Đông Phương coi trọng quyền bính như thế nào?
Khổng Tử nói: “Không búa rìu làm sao đốn cây?”

Tuân Tử nói: “Tạo Phụ là người tài cưỡi xe, nay không có xe có ngựa thì lấy gì để tỏ cái tài năng của mình. Hậu Nghệ giỏi bắn, nay không có cung có tên thì lấy gì để tỏ cái giỏi của mình”.
Quỷ Cốc Tử nói: “Công việc muốn tốt là phải chế ngự được người chứ không để người chế ngự ta. Muốn chế ngự người, tất phải nắm được quyền, cho nên mới có câu đại trượng phu lấy quyền để mà sai khiến chúng nhân vậy”.

Quyền bính đối với chính trị cần thiết như chiếc búa với người tiều phu, hay nói khác đi, chính trị và quyền bính chẳng khác chi con Lang con Bối sống dựa vào nhau, con này rời ra con kia chết, con kia rời ra con này chết, chính trị và quyền bính mang tính chất cộng sinh (Symbiose).

Quyền bính là gì?
Theo cổ nhân: “Quyền thị chúng lực chi yếu, cương chi cương, y chi lãnh”, nghĩa là quyền ví như đầu giềng của chiếc lưới, cổ của chiếc áo, chủ chốt của mọi lực lượng. Khi ta cầm vào cổ áo, ta sẽ mang chiếc áo dễ dàng, ta cầm được đầu giềng của lưới, ta sẽ điều khiển được chiếc lưới dễ dàng, nhẹ nhàng.

Làm thế nào để có quyền?
Đương nhiên phải tranh thủ để có chính quyền.
Tào Tháo đã tranh đoạt chính quyền ra sao? Tư tưởng hậu thế sau khi bị chính thống hoá cũng như bị ảnh hưởng Tam Quốc chí diễn nghĩa đã khinh ghét Tào Tháo đều chú trọng và căn cứ vào cuộc tranh đoạt chính quyền của Tào Tháo. Đó là tất cả vấn đề mà chúng ta sẽ bàn tới những dòng dưới đây.

Tranh thủ chính quyền tự cổ xưa đến nay, từ Đông sang Tây đều có hai cách thức: “cách thức bạo động và cách thức không bạo động”. Xét trong lịch sử thì cách thức bạo động hay cách thức không bạo động đều mang nhiều hiện tượng khác nhau. Tỉ dụ: Nhượng quyền như Nghiêu Thuấn, thoán đoạt như Hồ Quý Ly, mưu sát như vụ Brutus, thông qua nghị hội như các cuộc giải tán nội các ở các nước Tây phương ngày nay, dùng chiến tranh xâm lược, chiến tranh giải phóng v.v… Những hiện tượng khác nhau ấy phải tuỳ theo những điều kiện, tình hình và tính chất của đấu tranh cao hay thấp của lịch sử mà phát hiện.

Cổ học Trung Quốc quan niệm về cả hai cách thức bạo động và không bạo động như sau:
Dùng đức.
Dùng Công.
Dùng Mưu.
Dùng Vũ.

Nhưng cổ nhân thường trọng lối khéo léo hoà bình dành chính quyền hơn là dùng lối bạo tàn để cưỡng đoạt.

Dùng Đức là thế nào?
Như vụ ông vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn vì thấy Thuấn được dân yêu chuộng.
Dùng Công là thế nào?
- Như vua Vũ trị thuỷ để quy tụ lòng ngưỡng mộ của muôn dân.
- Dùng Mưu là thế nào?
- Như vua Thang đánh bại quân Kiệt, dùng Nữ Hoa và Khúc Nghịch làm tay sai để mê hoặc vua Kiệt mà che đậy mưu của mình.
- Dùng Vũ thì thế nào?
- Như Hán cao Tổ và Hạng Võ phát động chiến tranh chống Tần.

Chữ Vũ ở đây nên hiểu theo cái nghĩa bạo động ngược lại với bất bạo động. Còn nếu hiểu rộng lớn hơn thì trong Vũ cũng phải có đủ cả Đức, Công, Mưu thì mới quyết thắng được. Hơn nữa xét cho cùng, mọi nút chuyển trọng đại của lịch sử chưa hề có lần nào được giải quyết mà không xảy ra bạo động, như Lénine đã viết:
La violence est’ accoucheuse de toute vieille societe grosse d’ une societe nouvelle, l’ instrument à l’ aide duquel le mouvement social se fait place et brise les formes politiques mortes et figées.
(Bạo lực là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới, là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan những hình thức chính trị cứng đờ và chết.)

Bạo động hay không bạo động đều tuỳ thuộc những điều kiện, tình hình, tính chất lịch sử, vì vậy ta không thể kết tội bạo động cũng như nhất định không bạo động. Không bạo động từ bao giờ đến giờ vẫn chỉ là một ước mơ chứ chưa thành một quy luật. Chẳng phải bất cứ thời thế nào cũng cho phép nhà chính trị dùng Đức, dùng Công.
Phê phán Tào Tháo, có người viết:
- “Sinh hoạt chính trị của Tào Tháo gồm trước sau hơn bốn mươi năm thì đã quá 30 năm Tào Tháo ngụp lặn trong chiến tranh”.
Lời phê phán trên đây cho chúng ta thấy cuộc tranh đoạt chính quyền của Tào Tháo là cuộc tranh đoạt bằng vũ lực, lấy chiến tranh giải quyết vấn đề.

Trở ngược lại từ loạn Khăn Vàng, Hoạn quan, Ngoại thích đến Đổng Trác, Lý Thôi, Quách Dĩ ta thấy gì?
Hết thẩy chỉ là những âm mưu tranh ngôi, đoạt vị của những thế lực chống đối nhau của cùng một “gia thuộc” của trật tự cũ. Do đó ta không thể gọi đấy là những cuộc đấu tranh giành chính quyền được, vì bản chất các tranh giành ấy không đặt trên nền tảng chính quyền. Bởi thế cho nên ta mới thấy những hiện tượng rất khôi hài mà Tam Quốc Chí diễn nghĩa thuật lại như:

Hà Hậu nói:
- “Chúng mày đừng lo, ta sẽ bảo hộ cho”. Bèn giáng chỉ triệu Hà Tiến vào cung khẽ bảo rằng: “Anh em ta hàn vi từ thuở nhỏ, nếu không có bọn Trương Nhượng sao có phú quý ngày nay? Nay thằng Kiển Thạc bất nhân đã bị giết rồi, sao anh còn tin lời người ta nói mà toan giết cả bọn hoạn quan?”
Bọn Trương Nhượng, Đoàn Khuê thấy phe Đổng thái Hậu thất bại, bèn đem vàng ngọc đút lót em trai Hà Tiến là Hà Miên và mẹ Tiến là Vũ dương Quân nhờ vào nói khéo với Hà thái Hậu che chở cho. Bởi vậy mười tên Thường thị lại được tin dùng.
.................................................. ....
Trác hỏi Ngu Phu rằng:
Ai xui mày làm phản?
Phu trợn mắt thét mắng:
- Mày không phải là vua tao, tao không phải là tôi mày, sao gọi là phản được. Tội mày đầy trời, ai ai là chẳng muốn giết mày. Tao tiếc rằng không xé nhỏ được xác mày ra để tạ thiên hạ.
Trác tức lắm, sai đem Ngu Phu ra mổ. Phu cứ mắng chửi Đổng Trác đến lúc chết.
Hiến Đế khóc nói:
- Trẫm bị hai thằng giặc ấy khinh nhờn đã lâu. Nếu giết được thì may lắm.
Bưu tâu rằng: “Tôi có một mẹo, trước làm cho hai đứa tự tàn hại lẫn nhau rồi sau mới vời Tào Tháo đem binh vào giết, quét sạch lũ giặc để yên triều đình”.
Hiến Đế hỏi: “Kế ấy là kế gì?”
Bưu tâu: “Tôi nghe vợ Quách Dĩ rất hay ghen, sai người đi lại với vợ nó, dùng kế phản gián, hai thằng giặc tất giết lẫn nhau”.
Vua liền hạ chiếu phong Lý Thôi làm Đại tư Mã. Thôi mừng nói rằng: “Phúc này thật là thần thánh giáng cho ta. Lạy thánh vạn lạy, có cầu cúng Ngài cũng có hơn”.
Lý Nhạc và Hàn Tiêm lại có hơn hai trăm đầy tớ bộ hạ, nào thầy cúng nào thầy thuốc. Hai đứa tâu cho làm Hiệu uý Ngự sử cả. Khắc ấn không kịp, lấy dùi vạch gỗ ra làm ấn chẳng ra thể thống gì cả nữa.

Nền tảng chính quyền là gì?
Nhiều người vẫn quan niệm chính quyền qua những yếu tố “nổi” mà sơ sót những yếu tố “chìm”, chẳng hạn như nhìn thấy ở chính quyền những yếu tố: vũ lực, tổ chức cai trị, căn cứ địa, tổ chức kỹ thuật, tiền bạc mà không nhìn thấy sự tiến bộ của xã hội, uy thế chính trị, uy thế xã hội và tư tưởng nhân sinh. Nhà triết học Aristote viết: “Người là một động vật chính trị”. Sở dĩ người là một động vật chính trị là vì người biết quây quần kết tụ thành từng tập đoàn, các tập đoàn lại kết tụ lại thành xã hội và cứ phát triển rộng lớn không ngừng.

Xã hội càng rộng lớn thì tính cách kết tụ càng phức tạp, trong đó những tập đoàn kết tụ qua kinh tế, qua học thuật, qua tôn giáo v.v...

Các tập đoàn ấy do sự cần thiết của tiến bộ, phát triển và sinh tồn nên có hai bộ mặt sinh hoạt trái ngược hẳn: Một mặt liên hợp sống chung và một mặt đấu tranh lẫn nhau. Hai bộ mặt sống chung và đấu tranh cần phải có một sự điều chỉnh, nếu không xã hội sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn, cướp bóc, hà hiếp. Nhu yếu điều chỉnh chế tạo ra chính quyền. Như vậy, nhiệm vụ hàng đầu của chính quyền là phải kiến lập được trật tự vững chắc. Muốn kiến lập được trật tự vững chắc, chính quyền cần nắm đủ yếu tố: vũ lực, tổ chức cai trị, căn cứ địa, tổ chức kỹ thuật, tiền bạc v.v... Những yếu tố này kể làm những phương tiện để thực hiện trật tự. Nhưng ta không được quên rằng xã hội luôn luôn chuyển hình, tiến bộ, lẽ đương nhiên chính quyền cũng phải mang nhiệm vụ thoả mãn nhu yếu tiến bộ của xã hội, nếu chính quyền và trật tự đi thụt lùi so với nhu yếu tiến bộ, chẳng chóng thì chày chính quyền và trật tự sẽ bị tiến bộ quật ngã để rồi chế tạo một trật tự mới hơn, tiến bộ hơn. Cho nên muốn thoả mãn nhu yếu tiến bộ của xã hội, chính quyền tự nó có sẵn sàng uy thế chính trị, uy thế xã hội, uy thế tư tưởng, nghĩa là lãnh đạo được sự chuyển hình tiến bộ của xã hội trên các mặt. Vậy ta có thể nói gọn lại rằng:

Chính quyền mang hai nhiệm vụ:
1) Giữ gìn trật tự
2) Thúc đẩy tiến bộ
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Ngày nào mà trật tự và tiến bộ không đi đôi được với nhau nữa, phát sinh khủng hoảng, ngày đó xã hội rơi vào tình trạng loạn, tranh chấp.
Trung Quốc đến cuối Đông Hán thì xã hội bắt đầu một thời kỳ phân loạn dài; Trật tự, tiến bộ, kinh tế, tư tưởng v.v... hoàn toàn bị xáo trộn.
Vương quyền tập trung nay trở thành một hệ thống thế lực cho ít người. Chính quyền bị lũng đoạn, tiền bạc nhân lực bị coi là phương tiện xa xỉ, dâm dật. Liêm sỉ theo đó mà tiêu tán. Trong bức thư Lý Lăng gửi Tô Vũ, sách thế truyền có chép: Bọn quan lại phá hoại được phong làm Vạn hộ Hầu, bọn thân thích tham nịnh được phong làm Lang tể miếu.

Lúc thế lực bọn hoạn quan, ngoại thích phát triển, đạo đức càng đi xuống.
Những câu đồng dao như:

Trực như huyền, tử đạo biên
Khúc như câu, phản phong hầu
(Thẳng thắn chết đường, luồn cúi tước vị)
Cử tú tài, bất tri thư
Cử hiếu liêm, phụ biệt cư
Hàn tố thanh bạch, trọc như nê.
Cao đệ lương tướng, khiếp như kê
(Tú tài không biết chữ, hiếu liêm đánh đuổi bố, nghèo nàn thanh bạch bị khinh miệt, quan cao tướng giỏi nhát như gà).

Đạo đức sa đoạ không chỉ ở trên lĩnh vực kinh tế. Nguy hại hơn, nó còn hoành hành cả trên lãnh vực giáo dục, giảng học, khiến cho mọi giá trị càng điên đảo. Đó mới kể về phương diện đạo đức, còn phương diện sinh sống thế nào?
Đi đánh giặc, Tào Tháo có hai câu thơ ngũ ngôn:

Thiên lý vô kê minh
Sinh dân bách di nhất.
(Hàng vạn dặm không thấy tiếng gà gáy, dân cư lèo tèo thưa thớt)
Vương Sán cũng có hai câu:
Xuất môn vô sở kiến.
Bạch cốt tễ bình nguyên.
(Ra cửa chẳng trông thấy gì ngoài xương trắng ngổn ngang ngoài đồng) để tả thảm cảnh bấy giờ.

Bởi tại đâu mà nên nông nỗi?
Kể từ lúc Hán triều suy nhược, kinh qua ngoại thích chuyên chính, xã hội chịu nhiều tai hoạ, nào: nước lụt, hạn hán, đến loạn Tây Khương, đến hoạn quan loạn triều chính. Bọn hào môn ngoại thích, hoạn quan và bọn địa chủ liên kết, trong khi giai tầng trung sản bị phá sản. Giầu nghèo mỗi ngày mỗi xa cách, hận thù, số nô tỳ mỗi ngày mỗi gia tăng. Phản loạn bắt đầu. Hán triều mấy lần ban chiếu, có những đoạn nhận tội như: "Bây giờ quý thích cận thần xa xỉ phóng túng vô độ" hay "người sống mất hết tư nghiệp, người chết phơi thây giữa đường". Mấy chiếu thư xuống làm sao biến đổi được cục diện thối nát, cho nên xã hội càng ngày càng ác hoạ. Sử gia Trọng Trường Thống ghi nhận:
- Nhà bọn hào có hàng trăm nóc, ruộng tốt khắp nơi, nô tỳ thì ngàn người, xe ngựa chạy bốn phương, hàng hoá châu báu vô số, thê thiếp tính cả trăm. Dưới bàn tay tham ô của bọn hào môn, nguòi dân cày đói khổ, phần tử trí thức cơ cực. Trọng Trường Thống kết luận với câu: "Tám phương đê vỡ, trên dưới rữa nát như cá thối" để nói cái kết quả chính trị chuyên chính của bọn hoạn quan, ngoại thích. Xã hội hỗn loạn ấy, tất nhiên khắp thiên hạ mong mỏi một chính quyền với khả năng tái lập trật tự mà không ngăn chặn tiến bộ. Xã hội Đông Hán chẳng khác nào chuồng ngựa Augias, kẻ nào dọn nó cần có sức mạnh của Hercule. Người xung phong cáng đáng công việc là Tào Tháo cùng tập đoàn của ông, rồi đến Tôn Sách, Tôn Quyền bên Đông Ngô và sau nữa đến Khổng Minh, Tưởng Uyển, Khương Duy bên Tây Thục.

Vấn đề chiếm đoạt chính quyền có hai điều chủ yếu: Chiếm và giữ.
Hai điều chủ yếu ấy, đòi hỏi lực lượng chính trị hai khả năng:
a) Khả năng tác chiến chiếm đoạt
b) Khả năng điều khiển trật tự trên một hoàn cảnh mới, hay nói khác đi là củng cố chính quyền sau cơn đại biến động.

Ta hãy nói đến khả năng "Chiếm và phát triển chính quyền" của Tào Tháo. Trước khi đem quân về Kinh đô, sinh hoạt chính trị của Tào Tháo thiên về khuynh hướng âm mưu đầy tính chất phiêu lưu. Tam Quốc Chí diễn nghĩa cho chúng ta biết các việc:
1) Đứng về phe Hà Tiến chống thế lực hoạn quan. Hai lần bầy mưu can gián Hà Tiến đều bị Tiến mắng đuổi.
2) Liên kết với đám triều thần định hành thích Đổng Trác.
3) Dựa vào thế lực Viên Thiệu, thành lập liên quân miền Đông đánh lực lượng Tây Lương.

Tất cả các hoạt động phiêu lưu trên chỉ đem lại cho Tào Tháo sự thất bại ê chề, sự nhục nhã. Tháo tỉnh ngộ và quyết tâm đi vào con đường lớn, không chạy theo những âm mưu vặt nữa. Tháo đã hiểu rằng: Lịch sử không phải là kết quả của may rủi, làm lịch sử, làm chính trị nếu không nghiên cứu để nhận thức đúng bản chất xã hội, bản chất xung đột thì suốt đời sống bám, suốt đời không nhảy vào địa vị lãnh đạo được. Chính quyền không phải là ngôi thứ cá nhân. Chính quyền là mục tiêu cao nhất cho tất cả mọi hoạt động chuyển vận lịch sử. Muốn có chính quyền thì phải có kế hoạch, phương pháp tranh thủ đúng, bởi vì chính quyền là kết quả đường lối chính trị đúng đắn, chính xác. Quyền lực chính trị không phải là một vật mà trong một lúc, đêm này qua sáng hôm sau là có đầy đủ cả. Nó tiến từ sơ khởi đến kết cục, từ không đến có, từ vai phụ tiến lên vai chính, từ cục bộ tiến đến toàn bộ. Nghĩa là nó phải trải qua một thời kỳ sửa soạn, xây dựng bảo vệ, nuôi dưỡng, trưởng thành.

Cơ hội đầu tiên đến với Tào Tháo trên con đường lớn là việc Chu Tuấn tiến cử Tào Tháo (lúc ấy đang làm Thái thú Đông Quận) với Lý Thôi, Quách Dĩ cho đi dẹp giặc Khăn Vàng ở vùng Thanh Châu, Tháo đã biết biến cơ hội đó thành một lợi thế, tạo thành cái vốn chính to tát cho mình. Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể như sau:

"Lý Thôi mừng lắm, ngay đêm hôm ấy thảo tờ chiếu cho người mang ra Đông Quận, sai Tào Tháo cùng với tướng Tế Bắc là Pháo Tín đi đánh giặc. Tháo vâng chiếu chỉ họp với Pháo Tín, cùng tiến quân đánh giặc ở Thọ Dương. Pháo Tín đi vào đất giặc, bị giặc giết chết. Còn Tào Tháo đuổi giặc đến tận Tế Bắc, giặc quy hàng tới vài vạn người. Tháo lại dùng ngay giặc làm tiền khu, quân đi đến đâu, giặc hàng đến đấy. Mới được hơn một trăm ngày, chiêu an được hơn bốn mươi vạn quân hàng. Vừa đàn ông, đàn bà kéo lại theo Tháo hơn một triệu người. Tháo tuyển lấy những quân tinh nhuệ, đặt riêng một cánh quân gọi là binh Thanh Châu, còn bao nhiêu đuổi về cho làm ruộng. Từ đó uy danh Tào Tháo mỗi ngày mỗi lừng lẫy. Tiếng đồn về đến tận kinh, triều đình phong cho Tháo làm Chấn Đông tướng quân."

Nhưng con đường lớn mà Tào Tháo theo đuổi đâu phải là cái chức Chấn Đông tướng quân. Chẳng qua chức đó chỉ là cái bàn đạp cho Tào Tháo tiến quân về kinh đô Lạc Dương. Chủ ý Tào Tháo đã định, tuy nhiên muốn thực hiện việc nắm trọn chính quyền thì việc cần thiết là làm sao kiến tạo nhanh chóng một tổ chức lãnh đạo thay thế cho toàn bộ tổ chức lãnh đạo cũ. Kinh nghiệm Đổng Trác, Vương Doãn, Lý Thôi, Quách Dĩ còn sờ sờ ra đấy. Cho nên sau khi nhận chức Chấn Đông tướng quân, Tháo liền tiến hành gấp việc chiêu mộ các người tài năng trong thiên hạ, quy tụ đại bộ phận phần tử trí thức với phương châm: "Hiền tại vị, năng tại chức", tuy nhiên chiếu theo nhu cầu thực tiễn nên điều kiện mà Tháo chú trọng là tài năng.

- "Tào Tháo ở Duyệt Châu chiêu mộ thu dùng những người hiền sĩ. Ở làng Dĩnh Ầm châu Dĩnh, có một nhà hai chú cháu cùng đi theo Tháo. Người chú họ Tuân tên Úc, tên chữ là Văn Nhược, nguyên là con Tuân Côn. Úc trước đã theo Viên Thiệu, nay bỏ Thiệu theo Tháo. Tháo cùng Úc nói chuyện xong rồi nói rằng:" Người nầy là Tử Phòng của ta đây", rồi cho làm Hành quân Tư Mã.
Người cháu tên là Tuân Du, tên chữ là Công Đạt, trước đã làm Hoàng môn Thị Lang. Sau bỏ quan về làng, nay theo chú sang với Tào Tháo, (được?) cho làm Hành Quân Giáo thụ.
Tuân Du lại nói với Tào Tháo rằng:
- "Tôi nghe ở Duyệt châu có một người hiền sĩ vốn ở Đông An, họ Trình tên Dục, tên chữ Trọng Đức, nhưng không biết bây giờ ở đâu. Người ấy Chúa công nên dùng.
Tháo nói: "Tôi biết tiếng Trình Dục đã lâu"
Nói rồi sai ngay người về tận Đông An để hỏi cho được, thấy họ bảo rằng: "Trình Dục đang ở trong núi đọc sách, Tháo cho mời ra. Trình Dục đến bái kiến, Tháo mừng lắm.
Dục lại bảo với Tuân Úc rằng:
- "Tôi là người quê kệch học hành chưa được mấy, không xứng đáng với sự tiến cử của ông. Nay tôi biết có một người cùng làng với ông tên là Quách Gia, tên chữ là Phụng Hiếu, thực là hiền sĩ đời nay, sao ông không triệu ra".
Úc sực nhớ đến nói rằng: "Suýt nữa tôi quên người ấy".

Úc nói chuyện ngay với Tào Tháo. Tháo cho mời Quách Gia. Gia đến Duyệt châu bàn việc thiên hạ với Tào Tháo, rồi lại tiến Tháo một người nữa dòng dõi vua Quang Vũ, người ở Thành Đức họ Lưu tên Hoa chữ là Tử Dương. Tháo cho mời Hoa đến, Hoa lại tiến cử hai người nữa, một người ở Sương ấp họ Mãn tên Sủng, tên chữ là Bá Ninh, người nữa ở Vũ Thành họ Lã tên Kiền, tên chữ là Tử Khác. Tháo cũng biết tiếng hai người ấy, cho nên đặt ngay cho làm Trung Tùng Quân Sư.
Được ít bữa lại có một tướng nữa đem vài trăm quân mã lại xin theo với Tào Tháo, người ở Cự bình tên là Vu Cấm, tên chữ là Văn Tắc. Tháo thấy người ấy cung mã giỏi, võ nghệ hơn người, cho làm Điểm quân Tư Mã.

Một hôm Hạ Hầu Đôn lại dắt một người cực lớn lại ra mắt Tào Tháo. Tháo hỏi ai, Đôn thưa rằng:
- "Người này ở Trần Lưu, họ Điển tên Vi. Sức khoẻ không ai địch nổi. Trước Vi đã theo Trương Mạc, sau nhân có việc bất hoà với đầy tớ Mạc, giết vài người rồi trốn vào núi ở. Tôi đi săn gặp Điển Vi đang đuổi hổ nhảy qua suối, nay tôi đem về đây dâng chúa công.
Tháo nói: Ta xem người này tướng mạo khôi ngô, tất người thực khoẻ.
Đôn lại nói: "Điển Vi từng báo thù cho bạn, giết người xách đầu ra chợ, hàng mấy trăm người không dám đến gần. Y sử dụng hai ngọn kích sắt, nặng tám mươi cân cắp ngồi trên ngựa, vung múa nhẹ như bay.
Tào Tháo lập tức sai Điển Vi ra thử kích.
Vi cắp đôi kích lên ngựa đi lại nhẹ nhàng như bay.

Bỗng bấy giờ có cơn gió to, lá cờ lớn trồng dưới trướng lung lay sắp đổ. Quân sĩ xúm xít lại ôm giữ không nổi.
Điển Vi thấy vậy, từ trên ngựa nhẩy xuống quát to một tiếng đuổi quân sĩ lui ra, rồi một tay nắm chắc lấy, cột cờ đứng im phăng phắc giữa luồng gió.
Tháo thấy thế mừng lắm nói rằng:
Người này thực là Ác Lai ngày xưa đây.
Liền cho làm trướng tiền đô uý, cởi ngay áo đang mặc, thêm một con ngựa cực tốt và một bộ yên chạm đem cho Điển Vi.
Từ bấy giờ bộ hạ Tào Tháo, văn có người tài, vũ có tướng giỏi, uy danh lừng lẫy cả Sơn Đông.

Hàng mấy ngàn năm trước, Quản Trọng nói: Anh hùng giả, quốc chi cán, thứ dân giả, quốc chi bản. Đắc kỳ cán, thâu kỳ bản, tắc chính hành nhi vô oán hĩ (những anh hùng là cốt cán của một nước, dân chúng là gốc rễ của một nước. Dùng được cốt cán của một nước, thu phục được gốc rễ thì việc thi hành chính sự không bị oán hận).

Ngày nay chính trị gia Tây Phương cũng nói: Ce qu'un véritable chef doit faire ce sont non des actes, mais des hommes, des hommes qui le prolongent dans l' espace et dans le temps (lãnh tụ tài giỏi không phải chỉ biết hành động thôi mà còn phải biết dùng người, thu phục người bởi vì chỉ có người mới khiến cho vị lãnh tụ có mặt ở bất cứ nơi nào và bất cứ lúc nào).

Hai danh ngôn kim cổ chứng minh tài năng chính trị của Tào Tháo hành động tại Duyên Châu.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Bây giờ ta bàn đến khả năng giữ và củng cố chính quyền của Tào Tháo.
Làm chính trị có hai điều tối kỵ là ngắn hơi và dềnh dàng. Trong sự nghiệp chính trị: "Đáng kể nhất không phải là sự bắt đầu mà là sự làm đến cùng". Dẹp loạn bắt đầu xây dựng lực lượng, rồi tạo uy thế, rồi nắm quyền chính chưa đủ, còn cần củng cố vững vàng, phát triển trật tự mới, thúc đẩy tiến bộ. Triều Chính Đông Hán đổ nát, tập đoàn Khăn Vàng dấy lên, rồi Đổng Trác, Vương Doãn, Viên Thiệu, đến Lý Thôi, Quách Dĩ thay nhau nắm quyền chính, nhưng tất cả không giữ nổi chính quyền củng cố và phát triển. Tất cả đều quan niệm chính quyền như một thế lực, một phương tiện để hưởng thụ, do đó hành động của cả bọn rất ngắn hơi, nghĩa là không biết hướng nào để làm đến cùng. Riêng Viên Thiệu thường mắc phải cái bệnh dềnh dàng, kéo dài sự việc lê thê chẳng dứt khoát bề nào bao giờ. Tào Tháo trái lại, ông cưa mạch nào đứt mạch ấy, liên hợp hay đấu tranh đối với Tháo chỉ là những thủ đoạn, để thực hiện đến cùng cho một đường lối chính trị mà Tháo cùng tập đoàn của ông quyết định theo đuổi. Kéo quân về Lạc Dương dẹp loạn, Tháo không phí bao hơi sức mà đã loại ra dễ dàng lực lượng chính trị quan trọng bấy giờ là phe cánh Đổng Trác. Nhưng trước mắt Tháo đã hiểu ngay ra kẻ địch đáng sợ trên quân sự là lực lượng Viên Thiệu, và trên chính trị là các vấn đề thuộc nội bộ. Tào Thào cũng nhìn thấy ngay nhược điểm của chính mình. Tháo bèn thực hiện ngay phương châm của Tôn Tử: "Trước hãy tìm cái thế không thể bại được". Nên Tháo nghe ngay lời Đổng Chiêu, thiên Triều đình về Hứa Đô để phòng mọi bất trắc. Ở Hứa Đô, Tháo đưa công tác chỉnh đốn nội bộ lên hàng đầu về mặt kiến thiết. Xây dựng sửa sang nhà cửa, cung miếu, lập kho tàng. Về mặt văn học: lập nền tảng giáo dục mới. Về mặt hành chính: định lại các quan tước phẩm vị, tạm thời dùng đám triều thần cũ và cài răng lược những người mới để chuẩn bị thay thế dần dần. Về mặt xã hội: Tháo đề ra ba phương châm: Trừ gian- Cấm dâm- Trừng tham. Về mặt kinh tế: kiểm soát và định lại thể thức tô thuế đất ruộng.

Làm cho người sợ gọi là uy, làm cho người chịu gọi là thế. Hợp cả uy lẫn thế lại tức là lực lượng vậy. Có quyền mà không có lực thì quyền rỗng, có lực mà không có quyền thì lực hẫng. Uy với thế cũng vậy. Uy là thể mà thế là dụng. Có uy không có thế cũng vậy. Giống như hổ về bình nguyên làm kẻ thất thế, đã thất thế thì lấy gì để bồi đắp uy cho lớn rộng. Cho nên Tào Tháo lúc nào cũng lo kiến lập uy thế. Hễ cứ mỗi hành động ra uy, ông lại dựa ngay vào đấy để phát triển thế.

Đánh giặc Khăn Vàng ở Duyên Châu là lập uy. Chiêu mộ hiền sĩ là tạo thế. Rút gươm chém Trương Liêu là lập uy, nghe lời Lưu Bị, Quan Vũ tha Trương Liêu, khiến Liêu cảm phục là tạo thế.
Machiavel viết trong quyển Le Prince rằng: "Les Etats subitement formés manquent de racines profondes et le premier orage risque de les renverser" (chính quyền mới xây dựng thiếu rễ sâu sẽ rất bị lật nhào ngay khi gặp cơn giông bão đầu tiên).
Chính quyền mới lập của Tháo, nhờ phương pháp uy và thế tiến hành song đôi, đã vững như bàn thạch.

Vụ chiếu chỉ Đai áo vỡ ra, Tào Tháo thẳng tay đàn áp, bọn chính thống thường coi việc đó như một bằng chứng hiển nhiên về tính gian hùng tàn ác của Tào Tháo. Các bạn độc giả, chắc cũng có bạn muốn phán xét phân minh việc làm của Tào Tháo. Vậy xin bạn hãy đọc lại lời Machiavel: "Cruauté bénie, si elle tue dans l' oeuf les désordres, gros de meurtres et de rapines, que trop de pitié eût laissé s' élever? Ces désordres blessent la société tout entière, tandis que les rigueurs ordonnées par le prince ne tombent que sur des particuliers. (Hành động tàn ác đáng ban phước lành khi nào nó tiêu diệt được từ trong trứng sự hỗn loạn chứa đầy chém giết và cướp bóc. Hành động tàn ác ấy vượt xa hẳn tình thương nếu tình thương để cho hỗn loạn dấy lên. Hỗn loạn sẽ tàn phá cả xã hội, còn những biện pháp cứng rắn chỉ giết vẻn vẹn mấy cá nhân). Machiavel kết luận: protéger d' abord la société, voilà où git la vraie clémence d' Etat. (Bảo vệ xã hội trước hết, đây mới chính là lòng nhân từ của nhà nước).

Bọn chính thống đời sau cũng thường mang đối chiếu vụ giết Đổng Phi, Đổng Thừa, Vương Tử Phục, Cát Bình với vụ tàn sát của Đổng Trác giết Trương Ôn, vụ chém giết ở Duyện Châu, Thanh Châu với vụ tàn sát ở Lạc Dương. Sự thật các vụ kể trên chẳng mang một điểm tương tự nào cả, dù ta xét chung trên quan điểm chính trị hay trên quan điểm đạo đức.

Đứng trên quan điểm chính trị, Đổng Trác thua xa Tào Tháo một trời một vực. Việc làm của Tào Tháo nhằm mục đích lập uy, còn việc làm của Trác hoàn toàn mang tính cách khủng bố. Cho nên Tào Tháo chấm dứt rất chóng bất cứ sự kiện nào có máu chảy người chết, còn Trác kéo dài ra để làm trò vui, để thoả mãn tính khát máu thích doạ nạt. Tháo phân định dứt khoát người có tội kẻ không. Còn Trác thì miên man chẳng biết chỗ nào là bờ bến, khiến cho hết thảy mọi người ngồi đứng không yên. Machiavel gọi lối hành động loại Đổng Trác là tàn ác thú tính và tàn ác vụng về (cruautés mal pratiquees).
Đứng trên quan điểm đạo đức, vụ chém giết ở Duyên Châu, Thanh Châu là kết quả của chiến tranh. Còn vụ tàn sát ở Tràng An là kết quả của cuộc đàn áp bắt di dân.

Tam Quốc chí diễn nghĩa đã viết rõ ràng tự sự như sau:
Lý Nho xui Đổng Trác:
- Nay tiền lương thiếu thốn nhiều, ở Lạc Dương nhiều nhà giầu, nên tịch thu cả lấy của phát cho quân.
Trác lập tức sai năm ngàn quân thiết kỵ đi bắt những người nhà giàu ở Lạc Dương, cả thảy mấy ngàn họ, mỗi người cầm một lá cờ lên đầu để bốn chữ: "Phản thần nghịch đảng" rồi đem ra ngoài thành chém tuốt, bao nhiêu của cải lấy sạch. Lý Thôi, Quách Dĩ bắt hết cả dân Lạc Dương, ước mấy trăm vạn, đưa sang Tràng An, cứ mỗi đoàn dân lại cho một đội quân đi áp, người chết ở dọc đường không biết bao nhiêu mà kể. Đàn bà con gái đã vừa nhọc vừa đói khát đau đớn trăm chiều, lại còn bị quân lính hãm hiếp, tiếng kêu khóc động trời chuyển đất. Người nào đi chậm, đằng sau có quân lính đốc thúc, quân lính còn chém giết người ngay giữa đường.
Lúc Trác đi, sai phóng hoả đốt cả cửa nhà dân ở. Trác lại sai Lã Bố khai quật các mồ mả để lấy vàng bạc châu báu.

Bàn về cách sử dụng quyền uy của Tào Tháo
Quyền uy là tất cả những gì quý báu đối với chính trị. Do quyền uy mà ta có thể sinh hay sát, cho hay đoạt, phải hay trái, phúc hay hoạ, thao túng hay khống chế cả người lẫn vật. Tuy nhiên cũng do quyền uy mà chính trị gia hay chế độ bị oán ghét hận thù hoặc được kính nể yêu mến, không biết sử dụng thì bị oán ghét hận thù. Cổ nhân đối với việc sử dụng quyền uy đặt ra ba điều:

a) Pháp
b) Lệnh
c) Thưởng phạt

Pháp là cách thức tổ chức của chế độ, pháp cũng là kỷ cương của chế độ đặt ra để điều chỉnh sinh hoạt toàn bộ xã hội. Chữ Pháp ở đây nếu đem so với danh từ pháp luật, thì hàm nghĩa nó rộng lớn hơn, vì pháp luật chỉ là những điều lệ được ghi rõ ràng để quy định quyền hạn, vị trí, phạm vi cho mỗi hành động. Danh từ Pháp theo nghĩa triết học chánh trị phương Đông ngoài những điều lệnh rõ ràng ấy, nó còn bao gồm cả một số nguyên tắc sống mà đại đa số người trong xã hội nhìn nhận trên tâm lý. Sách cổ viết: "Pháp là công cụ để trị thiên hạ. Không có pháp tất sẽ mất nhịp độ, mất nhịp tức là hỗn loạn vậy".

Tào Tháo tiến quân về Lạc Dương, tình hình hỗn loạn tơi bời. Ông đã chế định được pháp nghiêm minh để ngăn chặn sự loạn. Lúc đánh Duyện Châu cũng như lúc đến Lạc Dương, nguyện vọng của nông dân cũng như lòng mong mỏi của phần tử trí thức đang lên đều được toại ý. Ta có thể căn cứ vào việc cải biến nhanh chóng các đám quân nổi loạn ở Thanh Châu, Duyện Châu cùng việc Đổng Chiêu ra sức giúp Tào Tháo bình định Lạc Dương để chức minh.

Lệnh là hình thức biểu thị của pháp. Lệnh ví như sấm sét, gió bão để cổ võ vạn vật cho nên lệnh phải nghiêm, không mờ ám, không bất nhất sáng thay chiều đổi.
Đức tôn trọng lệnh luật của Tháo, trong đời Tam Quốc chẳng mấy ai sánh kịp. Rất nhỏ nhặt như việc con ngựa của Tháo hoảng hốt dẫm lên ruộng lúa, Tháo cũng đã tự cắt tóc để thị chúng, ta có cho đấy là một thủ đoạn đi chăng nữa, nhưng thủ đoạn không ngoài mục đích hướng vào sự tôn trọng luật lệnh.

Trong khi Trương Phi say rượu đánh Tào Báo để Lã Bố cướp mất Từ Châu, và Quan Công nóng nảy phá tan cả một chính sách Liên Ngô, Tam Quốc chí không cho ta thấy mảy may biện pháp trừng phạt của Lưu Bị đối với hai người này dù rất ít.

Về vấn đề thưởng phạt, Hoàng Thạch Công nói:
- "Công nhỏ không thưởng, tất công lớn không có. Oán nhỏ không tha tất oán lớn nảy sinh. Thưởng không làm cho người phục, phạt không khiến cho người vui chịu, tất bị phản. Thưởng kẻ vô công, phạt kẻ vô tội, cái nguy đến sau lưng.
Sách Quân Cấm viết:
Hương nhĩ chi hạ tất hữu tử ngư
Trọng thưởng chi hạ tất hữu tử phu.
(Dưới mồi thơm chắc có cá chết. Biết trọng thưởng, người sẽ vì ta mà hy sinh). Hàn phi Tử nói: "Ái đa giả tắc pháp bất lập, uy quả giả tất hạ xâm thượng". (Nuông chiều tất Pháp khó thi hành. Uy ít tất dưới nhờn).

Độc giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa chắc đã có nhiều dịp so sánh Tào Tháo với Lưu Bị về đức tính này. Sự dung túng của Lưu Bị đối với Quan, Trương gieo mầm cho việc thất thủ Kinh Châu sau này.
Nghi án Lã Bá Sa và Lưu Phúc
Đời Tào Tháo có hai lần giết người bị đời sau coi là những hành động tội phạm:
Vụ thứ nhất: giết cả nhà Lã Bá Sa.
Vụ thứ hai: cầm giáo đâm chết Lưu Phúc.
Ngay đêm hôm ấy, Trần Cung thu xếp hành trang và lộ phí, cả hai người thay quần áo, mỗi người đeo một thanh gươm, cưỡi một con ngựa đi về quê Tào Tháo. Đi được ba hôm đến Thành Cao, trời đã xâm xẩm tối. Tháo cầm roi ngựa, trỏ vào một đám cây cối um tùm bảo Cung rằng:
- Ở trong này có Lã Bá Sa là bạn kết nghĩa với cha tôi. Tôi muốn vào chơi thăm nhà, rồi ngủ đấy một đêm, nên không?
Cung nói: Thế thì hay lắm.
Hai người đến cửa, xuống ngựa vào chào Lã Bá Sa. Sa hỏi Tháo rằng: Ta nghe triều đình tầm nã anh cấp lắm. Cha anh phải lánh sang ở Trần Lưu rồi. Sao anh đến được đây?
Tháo bèn đem chuyện đầu đuôi kể với Lã Bá Sa, rồi trỏ vào Trần Cung nói: Nếu không gặp được quan huyện đây, thì bây giờ đã thịt nát xương tan rồi.
Lã Bá Sa vái Trần Cung rồi nói:
- Cháu nó không gặp được ngài thì họ Tào còn gì? Đêm nay xin ngài hãy thong thả nghỉ lại đây. Nói xong đứng dậy vào trong nhà, một chốc trở ra bảo Trần Cung: Nhà tôi không có rượu ngon. Để tôi sang xóm Tây mua một bình rượu ngon về uống.
Nói rồi lật đật cưỡi lừa ra đi.Tháo với Cung ngồi ở nhà, chợt nghe thấy sau nhà có tiếng mài dao.
Tháo bảo Trần Cung rằng:
- Lã Bá Sa đối với tôi không thân thiết gì lắm. Chuyện này đáng nghi lắm.
Hai người sẽ rón rén bước vào sau nhà tranh, chỉ nghe thấy có tiếng người nói:
- Trói lại mà giết.
Tháo bảo cùng Trần Cung:
- Phải rồi, nếu ta không hạ thủ trước thì sẽ bị bắt.
Tháo và Cung hai người cùng rút gươm đi thẳng vào, gặp người nào trong nhà giết người ấy, giết một lúc tám mạng. Tìm đến trong bếp thì chỉ thấy một con lợn trói bốn vó sắp chọc tiết.
Cung giật mình nói:
- Mạnh Đức ơi! Đa nghi giết nhầm phải người tử tế rồi.
Hai người vội vàng trở ra lên ngựa đi. Đi được độ hai dặm gặp Lã Bá Sa cưỡi lừa về, trước yên treo hai vò rượu, tay xách một nắm rau quả. Sa hỏi hai người rằng:
- Hiền điệt với sứ quân sao lại đi?
Tháo nói:
- Tôi là người có tội không dám ở lâu.
Lã Bá sa nói:
- Ta đã dặn người nhà làm thịt con lợn rồi. Sứ quân với hiền điệt ngại gì một đêm. Xin quay ngay ngựa về cho.
Tháo cứ tế ngựa đi. Đi được vài bước, rút gươm ra quay trở lại, gọi Lã Bá Sa hỏi:
- Ai đi đằng sau ông đấy?
Sa quay đầu lại xem, Tháo chém ngay, Sa ngã xuống chết.
Cung cả sợ hỏi Tháo:
- Lúc nãy nhầm đã đành. Bây giờ sao lại đang tay như thế?
Tháo nói: Bá Sa về nhà, thấy nhiều người chết, tất nhiên không để im, nếu đem người đi đuổi thì ta bị vạ ngay.
Cung nói: Biết rằng mình nhầm rồi, lại còn cố ý giết người nữa, thực là đại bất nghĩa.
Tháo nói:
- Thà rằng ta phụ người còn hơn để người phụ ta.
Tám chữ:
Ninh ngã phụ nhân, vô nhân phụ ngã
của Tam Quốc Chí diễn nghĩa đã gây phản cảm ghét bỏ của người đời sau đối với Tháo rất mạnh.
Tào Tháo có tội hay không? La Quán Trung đã khép tội Tào chắc nịch trên tiểu thuyết. Nhưng trên chính sử ra sao?
Tôi xin kê khảo ra đây để độc giả phân xử.
Sách Tam Quốc Chí của Trần Thọ ghi:
"Tào Tháo không chịu nhận chức uý của Đổng Trác nên cải đổi tên họ trốn về miền Đông".

Sách Nguỵ Thư chép:
Thái Tổ rõ biết rằng Trác thế nào cũng đổ, không lời cáo biệt trốn về quê, tuỳ tùng có mấy người tìm gặp cố nhân Lã Bá Sa tại Thành Cao. Bá Sa đi vắng. Con cháu Lã Bá Sa hợp với ít gia nhân đánh Thái Tổ cướp của. Thái Tổ giết mấy người. Sách Nguỵ Thư Xuân Thu do Tôn Thịnh đời Tấn chép: "Thái Tổ nghe tiếng dao liếc loẹt xoẹt, nghĩ rằng họ đánh bắt mình, nhờ bóng đêm Thái Tổ vào giết hết. Sau biết mình nhầm rồi, nói: Ninh ngã phụ nhân vô nhân phụ ngã. Rồi đi"
Cũng sách trên, Tôn Thị (Thịnh?) chép:
Tư Mã Ý giả bắt Trịnh Tiểu Đồng uống thuốc độc, nói: "Ninh ngã phụ khanh, vô khanh phụ ngã".
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Như vậy tác giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa đã lấy tám chữ: “Thà ta phụ người, hơn người phụ ta” ở sách Nguỵ Thư Xuân Thu của Tôn Thị. Nhưng ai mới là người thật nói câu đó? Tư Mã Ý hay Tào Tháo. Nếu Tư Mã Ý nói thì câu chuyện Lã Bá Sa sự thực thế nào?
Đến vụ Lưu Phúc, Tam Quốc Chí diễn nghĩa hồi thứ mười tám kể:

Bấy giờ Tháo đã quá say, cầm một ngọn giáo, đứng trên mũi thuyền, đổ một chén rượu xuống sông rồi lại uống luôn ba chén đầy nữa, cắp ngang ngọn giáo nói với các tướng:
- Từ khi ta cầm ngọn giáo này, phá Khăn Vàng, bắt Lã Bố, diệt Viên Thuật thu Viên Thiệu, thọc sâu vào Hà Bắc, duỗi thẳng đến Liêu Đông, tung hoành bốn bể, thật không phụ ý chí của kẻ đại trượng phu. Nay đứng trước cảnh này lòng ta xiết bao sảng khoái. Ta làm một bài hát, các ông đều hoạ chơi cho vui. Bài hát rằng:

Cuộc vui có được là mấy chốc.
Nào khác chi hạt móc sáng ngày.
Nguồn sầu lai láng vơi đầy.
Giải phiền hoạ có rượu này làm vui.
Chàng áo xanh ngậm ngùi lòng tỏ.
Hươu ngoài đồng hớn hở gọi nhau.
Khách ta, ta đã gặp nhau.
Gảy đàn, thổi sáo ngõ hầu thêm vui
Trăng sáng tỏ, bùi ngùi trong dạ.
Nỗi lo này biết ngỏ cùng ai.
Chuyện trò kể lể xa xôi.
Nhớ người nghĩa cũ cười vui đề huề.
Quạ đem trăng bay về nam hậu.
Quanh ba vòng biết đậu cành nao.
Nước càng sâu núi càng cao.
Châu công trọng khách xôn xao kéo về.

Tháo hát, đoạn mọi người hoạ theo, cười đùa vui vẻ. Bỗng một bóng người bước ra nói:
- Giữa lúc hai bên đối địch, tướng sĩ so sức, làm sao thừa tướng nói gở ra câu ấy?
Tháo nhìn xem thì là Lưu Phúc, thứ sử Dương Châu. Phúc trước làm quan ở Hợp Phì, xây đắp nhiều thành quách, tập hợp những dân phiêu tán, mở trường học, khai khẩn ruộng đất, dạy dỗ nhân dân, theo Tào Tháo đã lâu, lập được nhiều công trạng.
Khi ấy Tháo cắp ngang ngọn mâu, hỏi lại rằng:
- Ta nói gở điều gì?
Phúc thưa: Những câu trăng sáng... quạ bay quanh ba vòng... Không biết đậu vào đâu... là những câu gở.
Tháo nổi giận nói:
- Mày sao dám bẻ tao.
Nói rồi phóng ngay ngọn giáo đâm chết Lưu Phúc.

Lời bàn của Mao Tôn Cương về hồi này không hề nhắc nhở tới cái chết của Lưu Phúc, Mao Tôn Cương chỉ nhìn hẳn về tâm sự riêng tư của Tháo mà thôi. Tháo vui, Tháo yến ẩm nô đùa nhưng chính là lúc Tháo đang lo ghê gớm vậy. Hành động ấy cũng giống như cảnh Ngô Vương Phù Sai đi hái hoa sen và Hạng Vũ uống rượu với Ngu Cơ. Như vậy Tháo giết Lưu Phúc không chỉ vì riêng cái cớ Phúc làm mất hứng vui của mình. Vả lại, Phúc là người giỏi giang như Tam Quốc đã kể ở trên thì không khi nào Phúc lại có hành động cẩu thả tương tự. Trong giờ phút quyết liệt, hàng trăm ngàn con người sắp sửa lao đầu vào lửa chinh chiến, cái chết của Lưu Phúc chắc phải có một lý do chính trị nào khác mà lịch sử không cho ta rõ đó thôi.

Kết luận
Kể trong các lãnh tụ chính trị trong Tam Quốc, Tào Tháo là người nhận rõ bản chất thời đại hơn ai hết. Ông hiểu nếu ly khai chiến tranh thì mọi vấn đề không giải quyết. Ông phân biệt nổi chủ thế của chiến tranh là gì? Kẻ địch nội ngoại, trước sau khiến cho chiến tranh mang những nội dung khác hẳn nhau. Do đó mặc dầu ông luôn luôn phát động chiến tranh, nhưng chiến tranh chiến lược của ông cũng đều được lồng vào trong một nhu yếu chính trị từng lúc.

Đời sau lên tiếng công kích, coi chiến tranh của Tháo là chiến tranh vô chính nghĩa vì cho rằng: đa số những cuộc binh đao lúc bấy giờ không phải là chiến tranh đối ngoại, không phải là vấn đề ngoại tộc giết nòi Hán mà là vấn đề dân tộc Hán giết lẫn nhau. Tào Tháo phải gánh chịu tất cả những tội ác binh lửa can qua. Đổ tội như thế, có nghĩa là đã đứng trên một quan điểm chính trị thuần tuý nệ vào luân lý, và nếu cứ dùng quan điểm này làm ánh sáng soi xét lịch sử thì không một nhân vật lịch sử nào tránh khỏi tội.

Nhà thơ Cao Bá Quát có câu:
Bình Dương, Bồ Bản vô Nghiêu Thuấn
Mục Dã, Minh Điền hữu Vũ Thang.

Mục Dã, Minh Điền là hai nơi vua Vũ, vua Thang giết giặc dựng nghiệp. Mục Dã, Minh Điền hay 72 trận Lưu Bang đánh nhau với Hạng Võ có thuộc vấn đề ngoại tộc xâm lược đâu. Chính nghĩa hay không chính nghĩa là ở sự trị hay loạn.

Loạn là lúc hắc ám, thoái hoá.
Trị là thời quang minh, tiến bộ.

Chiến tranh để tàn sát, để áp chế, để gây loạn, để đưa xã hội vào vòng tối ám, là chiến tranh không chính nghĩa. Chiến tranh để mở đường khai lối, chiến tranh để đem lại yên bình tiến bộ là chiến tranh chính nghĩa. Thời đại Tam Quốc, hình thức cuộc đấu tranh giữa loạn với trị chủ yếu là chiến tranh. Lúc đó kẻ nào không nắm vững quy luật chiến tranh, không hiểu nghệ thuật chiến tranh tất bị đào thải.

Hãy dẫn ra một bằng chứng của chủ thể chiến tranh lúc đó, lịch sử gọi là loạn “bộ khúc”.

Cuối Đông Hán sang Tam Quốc, toàn quốc băng hoại, loạn ly. Trung ương chính phủ mất quyền, địa phương chính phủ tan rã. Thổ phỉ, lưu khấu, giặc cướp nổi như ong. Nông dân không có cách gì sinh sống, liền phân toả gia nhập vào các đại môn đệ hay hào tộc, biến thành tự vệ đội võ trang bảo vệ cày cấy cho các hào tộc, gọi là quân bộ khúc. Tỉ dụ: Trương Tú là hào tộc, Điển Vi tướng cầm đầu quân đội bộ khúc. Trung Quốc có hàng mấy ngàn quân đội bộ khúc, xâu xé cướp bóc lẫn nhau. Vậy thử hỏi nếu muốn thống nhất xứ sở, bình định xã hội mà không có một tổ chức chiến tranh hoàn bị và mạnh nhất thì liệu có giải quyết nổi vấn đề chăng?
Đời sau chê Tào Tháo là con người mưu mẹo, quỷ quyệt, nhưng lại tôn sùng ghi nhớ câu nói của vạn thế sư biểu Khổng Tử:
“Hiếu mưu nhi Thành”
Mưu là hành động của kẻ trí. Nếu làm chính trị mà bị chê vì mưu mẹo, quỷ quyệt thì kẻ đần độn được ca tụng sao?

Hoàng Thạch Công viết: “Phi kế sách vô dĩ quyết hiềm định nghi, phi quyệt kỳ vô phá gian tức khấu, phi dụng mưu vô dĩ thành công” (không kế sách lấy gì mà giải bế tắc, không quỷ quyệt lấy gì mà trấn áp gian khấu, không dùng mưu lấy gì mà thành công?)
Chê quỷ quyệt, chê mưu mẹo bất quá chỉ là một thái độ của kẻ yếu ớt trước người giỏi hơn mình.

Bí quyết thành công của Tào Tháo, bàn đến vấn đề này, ta hãy đem so sự thành công của Tào Tháo với sự thành công của Lưu Bang, tuy sự nghiệp lớn nhỏ không giống nhau nhưng đây là do thời thế chứ không phải do tài năng và hành động.

Lưu Bang lên ngôi Hoàng Đế, trong bữa đại yến rượu đã ngà ngà, bèn quay ra hỏi quần thần: “Các vị vương hầu, các vị tướng tá, hôm nay tôi muốn các ông phải nói cho thực: tại sao tôi thành công, tại sao Hạng Vũ thất bại?”

Có người đồng hương tên là Vương Lăng đứng dậy thưa:
“Bệ hạ thành công nhờ ở lượng lớn biết chia đều. Khi thắng khu vực nào bệ hạ biết giao phó cấp thưởng cho ai. Lợi lộc bệ hạ công khai ban phát cho thiên hạ. Còn Hạng Vũ là người bội bạc bủn xỉn, thắng không biết ghi công chiến không biết chia lợi”.

Lưu Bang cười ngất, rồi nói: Đấy mới chỉ là một mặt thôi. Tôi xin thú thực, tài tôi nếu ngồi để thảo kế hoạch, bầy chiến lược tôi không bằng Trương Lương, nếu sai tôi làm thế nào cho binh lương sung túc, bảo vệ giao thông, phân phối công tác, tôi không bằng Tiêu Hà, chỉ huy trăm vạn quân, chiến vô bất thắng, tôi không bằng Hàn Tín. Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín là ba vị đại hào kiệt tôi biết dùng và dùng nổi; Hạng Võ chỉ có một Phạm Tăng cũng không dùng được. Đấy là nguyên nhân thành công của tôi vậy.

Căn cứ vào câu chuyện trên đây thì cái đức chính trị của Lưu Bang khả dĩ thu gọn vào mấy chữ:
“Hữu hiệu dụng nhân, công bình phân tặng”.
(Giỏi dùng người, biết chia đều).

Mọi mặt chuyên tài Lưu Bang đều thua sút Trương Lương, Hàn Tín, Tiêu Hà nhưng Lưu Bang lại nắm quyền lãnh đạo là vì Lưu Bang biết dựa hành động của chính ông vào đại thế của thời đại rồi dùng đại thế mà kết chặt ba người kia.

Phép chia lời của Lưu Bang cũng vậy, những người theo ông nhất nhất đều được bù công lao xứng đáng. Nhưng lối chia lợi, ông biết đặt trên nền tảng thời thượng, nghĩa là làm cho bàn dân thiên hạ vui mừng chứ không phải chia lợi kiểu giặc cướp chia phần.

Tào Tháo không kém gì Hán Cao Tổ về hai điểm này.
Tóm lại, sống vào thời cực nhiễu nhương như Tam Quốc, nhà chính trị phải có sức của một con sư tử đồng thời lại phải khôn ngoan như một con cáo. Con sư tử làm người ta sợ hãi không chống đỡ nổi, con cáo làm cho người ta không biết lối nào mà lường. Sư tử hay cáo đều bị đám quần chúng ngơm ngớp và các lý thuyết gia chính trị nói dóc (théoriciens bavards) bài bác.

Tào Tháo là biểu tượng hoàn bị của hai thứ đó, đương nhiên bị ghét bỏ. Tuy nhiên, nếu ta đi sâu vào tâm sự của Tào Tháo, ta cũng tìm thấy ở ông ước nguyện một xã hội vui sướng từ thiện. Tâm sự đó, Tào Tháo đã giãi bày vào bài ca “đối tửu” tạm dịch xuôi là:
Nâng chén rượu, chúc đời thái bình, quân sự không có gì vội vã, đấng quân vương vừa hiền vừa giỏi. Tể tướng, triều thần đều trung lương, biết điều lễ. Dân không tranh giành, ba năm cấy, thóc đủ chín năm. Kho chứa đầy ắp. Người già không phải gánh đội. Súc vật nhiều, phân bón dư. Công hầu bá tử nam, biết yêu dân. Kẻ phạm tội, tuỳ theo nặng nhẹ mà xét xử. Ngoài đường của rơi không ai nhặt. Cửa ngõ mở ngỏ. Mùa đông, già nua không rét cóng. Ân trạch chan hoà đến cây cỏ và côn trùng.

Với tâm sự ấy chắc chắn Tào Thào không phải là con người lấy giết chóc làm vui thú. Nhưng Tào Tháo lại mang nặng trên vai nhiệm vụ to tát. Dẹp loạn tất phải giết những kẻ làm loạn. Tiến bộ tất phải tiêu trừ những kẻ thoái hoá, phản động.
Bài đối tửu ca, tỏ rõ lòng tự tin tuyệt đối vào việc làm của mình.

Sau hết đối với Tào Tháo ta chỉ có thể nói câu này: “Tất cả mọi điều khen chê đều không xứng đáng với ông” như người Ý đã ghi trên mộ Machiavel.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

11
Vũ Tài Lục
Nói Chuyện Tam Quốc
- 10 -
LUẬN VỀ GIA CÁT LƯỢNG



Khảng khái tiên sinh bão tất thi
Mãn hoài u tư hữu thuỳ tri.
Vu kim nhất phiền sương đài thạch
Thắng tự Tương Dương truỵ lệ bi.
Vương Việt

Tào Tháo, Khổng Minh, Chu Du cùng xuất thân thư sinh, cùng vì đại loạn mà nhẩy lên vũ đài chính trị. Cả ba cùng ở địa vị cao nhất, nhưng riêng Khổng Minh vượt hẳn hai người kia về phong độ nho nhã thư sinh.
Cái thái độ nho nhã thư sinh ấy qua ngòi bút La Quán Trung càng trở nên tuyệt diệu, khiến người đọc Tam Quốc chí diễn nghĩa đoạn Huyền Đức tam cố thảo lư tưởng như cũng tắm gội khí chất thư sinh đó.
“Hôm sau, Huyền Đức cùng Quan Trương và bọn tuỳ tùng đến Long Trung, nhìn về phía xa xa đã thấy mấy người đương cầy bừa ở sườn núi miệng hát rằng:
Giời xanh như tán lọng tròn.

Đất kia trằn trặn như bàn cờ vuông
Người đi đen trắng đôi phường.
Kẻ đi người lại tranh đường nhục vinh
Kẻ vinh chỉ biết mình sung sướng
Người nhục kia vất vưởng vất vơ
Nam Dương có bậc ẩn cư
Nằm co ngủ kỹ thờ ơ việc đời.

Huyền Đức nghe hát, kìm ngựa gọi mấy người nông phu lại hỏi: Ai làm ra bài ca ấy?
Nông phu đáp: Bài ấy của Ngoạ Long tiên sinh làm ra.
Huyền Đức hỏi: nhà Ngoạ Long tiên sinh ở đâu?
Nông phu đáp: ở mé Nam này, có một gò cao, gọi là gò Ngoạ Long. Trước gò, trong quãng rừng thưa, có một cái lều tranh, đấy là nhà Gia Cát tiên sinh.
Huyền Đức cảm ơn, giắt ngựa đi lên. Đi chưa được vài dặm, xa xa đã thấy gò Ngoạ Long, quả nhiên phong cảnh khác thường.

Cách hai mươi dặm Tương dương thành.
Một dẫy gò cao, suối lượn quanh.
Nước chẩy ầm ầm phơi đá trắng.
Gò cao chót vót ngất mây xanh.
Hình như rồng cuốn trên tảng đá.
Phượng hoàng đậu dưới bóng thong thả.
Cửa phên khép kín nhà tranh.
Cao sĩ nằm khàn bền vững dạ.
Bình phong dẫy trúc um tùm lá.
Bốn mùa hoa rụng nức mùi hương.
Đầu giường chồng chất nhiều sách lạ.
Trong nhà lui tới không người thường.
Vượn kia dâng quả gõ cửa ngoài.
Hạc kia đêm thanh nghe đọc sách.
Túi đàn thêu gấm gác đầu bàn.
Thanh kiếm vẩy rồng treo trước vách
Tiên sinh trong lều rất thanh nhàn.
Khi nhàn cấy cầy cũng không can
Chỉ đợi sấm xuân tỉnh giấc mộng.
Gọi to một tiếng thiên hạ an.

Huyền Đức đến đầu nhà xuống ngựa, lại gõ cửa. Có tiểu đồng ra hỏi. Huyền Đức nói:
Tôi là Hoàng thúc Lưu Bị, Hán Tả tướng quân, Nghi Thành đình hầu, châu mục Dự Châu lại đây bái kiến tiên sinh.
Tiểu đồng nói: Tên ông dài lắm không nhớ được.
Huyền Đức nói: Em cứ vào nói có Lưu Bị lại hầu.
Tiểu đồng nói: Tiên sinh sớm hôm nay vừa đi chơi vắng.
Huyền Đức hỏi: đi chơi đâu?
Tiểu đồng đáp: tiên sinh tôi nay đây mai đó, không biết đi đâu.
Huyền Đức hỏi: bao giờ tiên sinh về?
Tiểu đồng nói: khi đi dăm ba bữa, khi thì mười hai hôm, không biết chừng.
Huyền Đức lấy làm buồn rầu, Trương Phi nói: hắn không có nhà thì về quách cho xong.
Huyền Đức nói: hãy đợi một lát nữa.
Vân Trường lại nói: Không bằng hãy về rồi sai người lại nghe tin tức.
Huyền Đức nghe theo và dặn lại chú tiểu đồng: bao giờ tiên sinh về, trình hộ rằng có Lưu Bị lại hầu nhé. Nói rồi lên ngựa đi được vài dặm, ngoảnh lại xem phong cảnh Long Trung quả nhiên núi không cao nhưng thanh nhã, nước không sâu mà trong suốt, đất chẳng lấy gì làm to tát mà rậm rạp. Vượn hạc quấn quít, thông trúc um tùm, ngắm mãi không chán.
Ba người về đến Tân Dã. Được vài ngày Huyền Đức sai người đi thăm dò xem Khổng Minh đã về nhà chưa. Một hôm, người thăm dò về báo Ngoạ Long tiên sinh đã về. Huyền Đức sai người thắng ngựa. Trương Phi nói: Khổng Minh chỉ là một tên thôn phu quèn, hà tất kha kha phải thân đến. Cứ sai người đi gọi cũng được.
Huyền Đức mắng rằng: Em há không nhớ lời Mạnh Tử nói: “Muốn cầu người hiền mà không biết đạo, khác gì muốn cho người ta vào nhà mình mà lại đóng cửa lại”. Khổng Minh là bậc đại hiền thời nay, cho đi gọi sao được?
Bèn lên ngựa đến Long Trung. Quan Trương cũng theo đi.
Bấy giờ đang thời tiết mùa Đông, khí trời rét buốt, mây xám nghịt trời. Ba người chưa đi được vài dặm, bỗng nhiên trời nổi gió bấc, tuyết bay phơi phới, núi tựa ngọc gieo, rừng như bạc rắc.
Trương Phi nói: trời rét, đất đóng băng, đánh nhau còn chẳng được lại phải lận đận đi cầu người vô ích làm chi. Không bằng trở về Tân Dã, tội gì mà dầm mưa dãi tuyết thế này.
Huyền Đức nói: chính ta muốn làm cho Khổng Minh biết đến lòng nhiệt thành của ta. Các em sợ rét thì hãy về trước.
Phi nói: chết cũng chẳng ngại, ngại chi rét. Chỉ sợ kha kha uổng công vất vả thôi.
Huyền Đức nói: “em chớ nói nhiều lời. Hãy theo ta đi”. Gần đến nhà tranh, chợt nghe thấy tiếng ca trong một quán rượu bên cạnh đường, Huyền Đức dừng ngựa lại nghe, lời ca rằng:

Công danh tráng sĩ muộn thay
Than ôi lâu chẳng gặp ngày dương xuân
Người chẳng thấy lão nhân Đông hải
Lìa bụi gai theo với vua Văn
Chư hầu bát bách lai thần
Gặp điềm cá trắng Mạnh Tân sang đò
Mục nguyên một trận đánh to
Công danh lừng lẫy ai so được tầy
Cao Dương lại có thầy hay rượu
Vái Cao Hoàng theo điệu làm tôi
Bàn mưu vương bá kỳ tài
Lọt tai cũng phải mời ai lên ngồi.
Thành Tề hạ bẩy mươi hai
Thế gian há dễ mấy ai nối mình
Hai người không gặp phận hanh
Đến nay ai biết là danh phận gì
Một người hát xong, người khác lại hát tiếp luôn:
Vua ta vung lưỡi gươm dẹp loạn
Gây cơ đồ Hán bốn trăm năm
Đời Hoàn Linh vận lửa tắt ngầm
Gian thần tặc tử tay cầm quyền to
Chốn ngự toà, rắn bò điềm gở
Nơi ngọc đường, rồng đổ yêu ma
Bốn phương trộm giặc đổ ra
Gian hùng lũ lượt theo đà múa may
Chúng ta chỉ vỗ tay nói tếu
Buồn ra hàng chén rượu cho vui
Một mình sung sướng thảnh thơi
Chẳng cần tiếng để muôn đời làm chi.
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Hai người hát xong, vỗ tay cười ầm cả lên. Huyền Đức nói: Có lẽ Ngoạ Long ở trong này. Liền xuống ngựa bước vào, hai người đương tựa bàn, đối nhau uống rượu, một người mặt trắng râu dài, một người mặt mũi khôi ngô. Huyền Đức vái rồi hỏi:
- Thưa hai ông, ông nào là Ngoạ Long tiên sinh?
Người râu dài lại hỏi:
- Ông là ai, tìm Ngoạ Long tiên sinh để làm gì?
Huyền Đức đáp: thưa tôi là Lưu Bị, muốn tìm tiên sinh để cầu mưu giúp đời, yên dân.
Người râu dài nói: Chúng tôi không phải là Ngoạ Long mà là bạn của Ngoạ Long đấy thôi. Tôi là Thạch quảng Nguyên ở Dĩnh Châu, ông này là Mạnh công Thành ở Nhữ Nam.
Huyền Đức nói: tôi được biết đại danh của hai tiên sinh đã lâu, nay được bái yết, thực là may quá. Nhân tôi có mang theo cả ngựa, xin mời hai tiên sinh đến nhà Ngoạ Long với tôi.
Quảng Nguyên nói: chúng tôi là bọn quê mùa, chẳng biết đâu những việc trị nước yên dân, xin đừng bận lòng hỏi chúng tôi những việc nơi ấy. Mời ông cứ lên ngựa đi tìm Ngoạ Long.
Huyền Đức từ giã hai người rồi lên ngựa đi thẳng đến Ngoạ Long cương. Tới trước nhà, gõ cửa hỏi tiểu đồng:
- Hôm nay tiên sinh có nhà không?
Tiểu đồng đáp: Đang ngồi trên nhà xem sách.
Huyền Đức mừng lắm, theo ngay tiểu đồng đi vào. Đến giữa cửa, nhìn thấy đôi câu đối:
Đạm bạc dĩ minh chí
Ninh tĩnh dĩ chí viễn.
Huyền Đức đương xem câu đối, lại nghe có tiếng ngâm thơ, vội vàng đứng nép bên cạnh nhòm vào, thấy trên nhà tranh, có một thanh niên ôm gối ngồi cạnh hoả lò hát rằng:
Phượng bay cao, phi ngô đồng không đỗ
Sĩ ẩn mình, phi minh chủ không thờ
Nông thôn vui thú cầy bừa
Thảnh thơi đàn sách, đợi cơ chuyển vần.
Huyền Đức đợi hát xong mới bước lên thềm vái chào nói:
- Bị lâu nay hâm mộ tiên sinh, chưa dịp nào bái kiến. Mới đây được Từ Nguyên Trực tiến cử, vội đến tiên trang, rủi phải về không, nay xông pha mưa gió đến đây, được chiêm ngưỡng tôn nhan, thật may mắn quá.
Người thanh niên vội vàng đáp lễ:
- Tướng quân có phải là Lưu Dự châu đến tìm anh tôi không?
Huyền Đức ngẩn người hỏi rằng:
- Thế tiên sinh cũng không phải là Ngoạ Long sao?
Người thanh niên đáp: Tôi là Gia Cát Quân, em Ngoạ Long, chúng tôi ba anh em: anh cả Gia Cát Cẩn hiện đang làm mạc tân bên Tôn Trọng Mưu ở Giang đông, Khổng Minh là anh thứ hai tôi.
Huyền Đức hỏi: Ngoạ Long hôm nay có nhà không?
Quân đáp: Hôm qua vừa có Thôi Châu Bình đến rủ đi chơi rồi.
Huyền Đức hỏi đi chơi đâu. Quân nói:
- Khi thì bơi chiếc thuyền nhỏ chu du trên sông, khi thì thăm hỏi các nhà sư trên núi, khi thì tìm anh em bạn chốn hương thôn, khi thì vui gẩy đàn đánh cờ, trong hang núi. Anh tôi đi, ở bất thường không biết đâu mà tìm.
Huyền Đức nói: tôi thực là duyên mỏng, phận hèn, hai phen đi đều không gặp đại hiền.
Quân nói: Mời ngài hãy thư thả ngồi chơi xơi nước.
Trương Phi nói: tiên sinh ấy đã đi vắng, xin kha kha đi ngựa về thôi.
Huyền Đức nói: cất công đến đây, chẳng lẽ không bầy tỏ một đôi lời.
Lại hỏi Gia Cát Quân: tôi nghe nói lệnh huynh Ngoạ Long tiên sinh tinh thông thao lược, mài miệt binh thư có phải không?
Quân nói: tôi không được biết.
Trương Phi nói: hỏi người ta làm gì? Mưa gió to lớn, kha kha đi về cho sớm.
Huyền Đức mắng át Phi đi. Quân nói: Anh tôi đi vắng, không dám lưu ngựa xe ở lại lâu, xin để khi khác đáp lễ.

Huyền Đức nói: tôi đâu dám mong tiên sinh hạ cố. Vài hôm nữa, Bị sẽ đến hầu. Hôm nay nhân đây xin tiên sinh cho mượn bút giấy tôi viết bức thư để lại, nhờ chuyển đến lệnh huynh, để tỏ ý ân cần của tôi. Quân đưa bút mực ra. Huyền Đức viết thư như sau:
Bị tôi lâu nay hâm mộ cao danh, đã hai lần yết kiến đều không gặp phải trở về, ân hận vô cùng.
Tôi trộm nghĩ mình là dòng dõi nhà Hán, lạm hưởng danh tước, mà nay trông thấy triều đình suy sụp, kỷ cương rối ren, gian hùng loạn nước, ác đảng dối vua thật là đau lòng xót ruột. Tuy có lòng cứu nước giúp dân, nhưng kém kinh luân, cho nên mong ngóng tiên sinh mở lòng nhân từ trung nghĩa đứng ra trổ hết tài lớn của Lã Vọng, thi thố kế lạ của Tử Phòng, thì thiên hạ may lắm, xã tắc may lắm.
Nay trước có mấy lời bày tỏ với tiên sinh. Bị xin về tắm gội ăn chay, đến bái tôn nhan một lần nữa, để giải lòng quê kệch xin tiên sinh soi xét cho.
Huyền Đức viết xong thư, đưa gửi Gia Cát Quân, rồi từ biệt ra về. Quân tiễn ra tận cửa. Huyền Đức còn ân cần dặn lại đôi ba lần.
Huyền Đức vừa lên ngựa sắp đi, thì thấy tiểu đồng đứng bên ngoài bờ rào vẫy tay nói.
Lão tiên sinh đã đến.
Lưu Bị nhìn ra thấy bên phía tây, chiếc cầu nhỏ, có một người đội mũ ấm trùm đầu, mặc áo hồ cừu cưỡi con lừa, theo sau một tiểu đồng mặc áo xanh đi hầu, tay xách một bầu rượu, đương rẽ tuyết đi lại, qua cái cầu nhỏ đang ngâm một bài thơ:

Một đêm gió lạnh lùng
Muôn dặm mây đỏ ối
Bời bời hoa tuyết bay
Nước non hình sắc đổi
Ngoảnh mặt trông lên trời
Tưởng là rồng ngọc chọi
Vây mai tua tủa bay
Một lát khắp bốn cõi
Cưỡi lừa qua cầu con
Than vì mai gầy cỗi.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Huyền Đức nghe ngâm xong nói rằng:
- Đây hẳn là Ngoạ Long rồi.
Rồi nhẩy xuống ngựa bước tới chào nói:
- Tiên sinh xông pha rét mướt, mệt nhọc lắm nhỉ. Bị này đợi mãi tiên sinh.
Người ấy vội tụt xuống lừa, đáp lễ. Gia Cát Quân ở đằng sau nói: Đây là Hoàng Thừa Ngạn, ông nhạc anh tôi đó, không phải Ngoạ Long đâu.
Huyền Đức (Thừa Ngạn?) nói: Nhân lão phu xem bài Lương Phủ ngâm ở nhà con rể có nhớ được một đoạn. Nay qua cầu nhỏ, chợt thấy hoa mai bên rào, nên sực nhớ lại đọc chơi, không ngờ quý khách nghe thấy.
Huyền Đức nói: Ngài đã gặp lệnh tế chưa?
Thừa Ngạn nói: Lão cũng đương đến tìm Ngoạ Long đây.
Huyền Đức nghe xong từ biệt Hoàng Thừa Ngạn, rồi cưỡi ngựa về đang cơn mưa tuyết dữ dội. Huyền Đức vừa đi vừa ngoảnh lại ngắm gò Ngoạ Long, buồn rầu không biết ngần nào.
Từ khi Huyền Đức về Tân Dã, ngày tháng thấm thoát đã sang xuân mới liền kén chọn ngày tốt, ăn chay ở sạch trong ba ngày tắm gội hun hương, thay quần đổi áo, rồi sang gò Ngoạ Long yết kiến Khổng Minh. Quan Trương được tin cũng phát chán, kéo nhau vào can.
Quan Công nói: huynh trưởng đã hai lần thân đến nhà bái yết, lễ nghi như vậy là quá hậu rồi; có lẽ Gia Cát Lượng cũng chỉ có hư danh, không có thực tài nên mới tránh mặt không cho gặp đấy thôi. Sao huynh trưởng quá sùng bái người ấy làm vậy.
Huyền Đức nói: Không phải thế đâu. Ngày xưa Tề Hoàn Công muốn đi cầu một người quê mùa ở Đông Quách, năm lần đến mới gặp được, huống chi ta muốn cầu một đại hiền.
Trương Phi nói: kha kha nhầm đó, gã nhà quê đó sao gọi là đại hiền được. Chuyến này không cần kha kha đi nữa. Nếu hắn không đến, em sẽ lấy thừng trói điệu về đây là ổn chuyện.
Huyền Đức mắng: chú không nhớ việc vua Văn Vương ngày xưa đi cầu Khương Tử Nha, Văn Vương còn kính người hiền như thế nào à? Chú sao vô lễ quá vậy. Lần này chú đừng đi nữa, để ta đi cùng với Vân Trường thôi.
Phi nói: hai anh cùng đi cả, tiểu đệ ở nhà làm gì?
Huyền Đức nói: nếu muốn đi thì không được thất lễ.
Phi vâng theo. Nói rồi ba người cưỡi ngựa cùng bọn tuỳ tùng đến Long Trung. Còn cách lều tranh độ nửa dặm, Huyền Đức xuống ngựa đi bộ gặp Gia Cát Quân, Huyền Đức vội thi lễ hỏi: Lệnh huynh hôm nay có nhà không?
Quân nói: anh tôi mới về chiều qua, tướng quân đên hôm nay thì gặp. Nói rồi ung dung đi ra.
Huyền Đức nói: phen này may được gặp tiên sinh đây.
Trương Phi nói: người này mới vô lễ chứ. Dẫn luôn bọn ta vào nhà thì mất gì, sao cứ cắm đầu đi thẳng.
Huyền Đức nói: ai có việc người nấy, bắt buộc người ta sao được. Ba người lại đi, đến trước nhà gõ cửa, tiểu đồng ra mở cửa nói:
Tiên sinh hôm nay có nhà nhưng đang ngủ.
Huyền Đức nói: đã vậy xin đừng thông báo vội.
Rồi dặn Quan Trương hãy đứng chờ ngoài ngõ. Huyền Đức rón rén đi vào. Thấy Khổng Minh đương nằm nghỉ trên ghế, Huyền Đức chắp tay đứng chực dưới thềm. Được một lúc lâu, Khổng Minh vẫn chưa dậy. Quan Trương đứng đợi ngoài ngõ mãi, chẳng thấy động tĩnh gì mới lén vào xem, thấy Huyền Đức vẫn chắp tay đứng hầu.
Trương Phi giận lắm bảo Vân Trường rằng:
Lão tiên sinh này sao kiêu kỳ lắm thế. Thấy anh ta đứng thế kia, nó càng giả vờ ngủ khì không dậy. Để em ra sau nhà cho một mồi lửa xem nó có phải dậy không?
Vân Trường can mãi Trương Phi mới thôi. Huyền Đức bắt hai người ra đứng đợi, rồi trông vào nhà thấy Khổng Minh trở mình, nhưng rồi lại quay mặt vào vách tường ngủ yên.
Tiểu đồng toan lại đánh thức, Huyền Đức bảo chớ nên đánh thức vội. Rồi lại đứng đợi một lúc nữa, Khổng Minh mới tỉnh ngâm bài thơ rằng:

Mơ màng ai tỉnh trước
Bình sinh ta biết ta
Thềm tranh giấc xuân đẫy
Ngoài song bóng ác tà.

Ngâm xong Khổng Minh mới quay ra hỏi tiểu đồng rằng: Có tục khách nào đến đấy không?
Tiểu đồng thưa: có Lưu hoàng Thúc đứng đợi đây đã lâu lắm.
Khổng Minh liền vùng dậy nói: sao không báo tin ngay, để ta dậy thay áo đã. Rồi đi vào nhà trong, một lúc mới mặc áo đội khăn chỉnh tề ra tiếp. Huyền Đức lạy thụp xuống đất nói rằng: tôi là kẻ ngu hèn, dòng dõi nhà Hán, lâu nay nghe tiếng lớn tiên sinh, như sấm bên tai, đã hai lần đến hầu, đều chưa được gặp. Tôi có viết bức thư nhờ đệ tới, không biết đã được tiên sinh xem đến chưa?
Khổng Minh nói: tôi là một người quê mùa ở Nam Dương, tính quen lười biếng. Mấy lần đội ơn tướng quân có lòng hạ cố, tự thấy hổ thẹn vô cùng.

Tuổi tiên sinh mới hai mươi bẩy.
Xếp cầm thư ra khỏi điền viên.

Gia Cát Lượng nhẩy lên vũ đài chính trị lúc còn là một thanh niên chưa đầy ba mươi tuổi, trong khi Lưu Bị đã 49 tuổi. Quá nửa đời lăn lộn xông pha, nay Lưu Bị chịu nghe theo một thư sinh mặt trắng thì quả cái đức khiểm hư của Lưu Bị đáng cho đời sau noi gương vậy.

Mặc dầu các sách lược và cửu châu xuân thu chép rằng: Lưu Bị đồn quân tại Phàn Thành, Gia Cát Lượng lên đó yết kiến. Lưu Bị thấy Lượng vốn người không quen biết bao giờ, lại trông dạng tướng còn non nớt, nên chỉ lấy lễ đối đãi với học trò mà đáp.
Chép như vậy ít phần đúng, bởi vì nếu ta đọc lại lời biểu của Khổng Minh với những câu: Tiên đế không ngại thần quê mùa, đã ba lần đến thăm thần ở mái nhà tranh; có thể chứng tỏ một cách chắc chắn Khổng Minh không tới tìm Lưu Bị trước.
Tìm đến người hay đợi người tìm đến mình có phải là một vấn đề mà phần tử trí thức đặt ra do thói xấu câu nệ chăng?

Đành rằng: Danh sĩ đương thời có cái tệ câu nệ. Nhưng đối với con người tiến bộ như Khổng Minh thì tuyệt đối không, chẳng qua đây là một tác dụng chính trị. Nhà Nho tiến bộ, vấn đề ẩn dật và xuất chính được quan niệm hết sức linh động. Hơn nữa phần tử trí thức thời Tam quốc đã có cùng chung một lý tưởng là xuất chính nắm quyền lãnh đạo vận mệnh chính trị, đánh đổ hệ thống tồi tàn lạc hậu cũ. Tất cả nguyện vọng đứng lên lãnh đạo cuộc đấu tranh đã được bầy tỏ một cách tuyệt khéo trong những lời ca Lương Phủ, Ngoạ Long ngâm v.v… văn chương tuy đầy vẻ ẩn dật, nhưng tư tưởng thì sôi réo lên ý định giúp đời cứu dân. Tưởng cũng nhắc độc giả, trước khi Lưu Bị gặp Gia Cát Lượng, Lưu Bị đã biết Tư Mã Đức Tháo, Thôi Châu Bình, Thạch Thao, Từ Thứ…. Vậy Khổng Minh không phải chỉ trơ trọi một mình mà đằng sau ông có cả một tập đoàn thanh niên trí thức khá đông đảo, lập thành một lưới tình báo đưa dần Lưu Bị từ chỗ nhu cầu người bầy mưu kế đến chỗ sợ sệt, thán phục, kính nể vị lãnh tụ của họ là Khổng Minh. Cái lối nâng cao thân giá của Khổng Minh là phương pháp lấy lùi làm tiến, lấy ẩn để tới, trước hết làm người ta biết mình, rồi làm cho người ta thành khẩn cầu mình sau mới mang hết tài năng ra đền đáp.

Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, trú quán huyện Lang Gia (nay thuộc tỉnh Sơn đông), sinh năm Quang Hoà thứ tư đời vua Linh Đế (181 Tây lịch), vốn dòng dõi nhà quan tư lệ hiệu uý Gia Cát Phong, cha tên là Khuê mất sớm. Lượng mới theo chú là Huyền. Huyền trước làm thái thú Dự Chương do Viên Thuật đề bạt. Sau Huyền bỏ Viên Thuật sang nương nhờ Lưu Biểu. Loạn bắt đầu, khu vực Lưu Biểu nhờ sự phát triển nông nghiệp nên dân cư vẫn yên ổn. Huyền ở với Biểu chăm lo nghề nông tang tại đất Tương Dương. Anh em Gia Cát Lượng là người thừa hưởng sản nghiệp đó.

Hai chữ “cung canh” trong tờ biểu, độc giả Tam quốc thương hình dung gia thế Gia Cát Lượng nghèo nàn. Sự thực nhờ quan hệ chính trị của Gia Cát Huyền với Lưu Biểu, anh em Gia Cát Lượng cũng được coi gần như thuộc vào cấp bậc công tử. Về gia sản gần đến mức phú nông.

Từ thuở 18, 19 tuổi Khổng Minh đã cùng các bạn như Từ Thứ, Mạnh Công Uy, Thạch Quảng Nguyên dứt bỏ lối học hoa hoè hoa sói thịnh hành lúc bấy giờ mà đi vào con đường “học dĩ chí dụng” “Dĩ nho vi thể, dĩ pháp vi dụng”. “Nho pháp đồng qui” “Vương bá tạp dụng”.

Khoảng từ 22 đến 23 Khổng Minh lấy vợ, tuy là thân phận công tử nhưng vợ ông rất xấu, đến nỗi ngay ca dao của Việt cũng có câu (xấu như vợ ông Gia Cát). Chuyện lấy vợ của Khổng Minh thật cực kỳ đơn giản, sách Tương Dương ký chép:
Hoàng Thừa Ngạn nói với Khổng Minh: nghe nói anh muốn lấy vợ, lão có đứa con gái xấu xí, tóc vàng da đen nhưng rất hiền thục, anh chịu chăng? Khổng Minh gật đầu. Hoàng Thừa Ngạn cho cưới ngay. Ai cũng buồn cười chế diễu. Miền Tương Dương hiện nay vẫn còn lưu truyền câu tục ngữ:

Mạc tác Khổng Minh trạch Phụ
Chỉ đắc ả Thừa sú nữ.
(Đừng bắt chước Khổng Minh chọn vợ. Chỉ lấy được mụ xấu như ma)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Thất bại Kinh châu lần thứ nhất.
Sinh hoạt chính trị của Gia Cát Lượng bắt đầu từ năm ông 27 tuổi thuộc Hán Linh Đế Lưu Hiệp đệ thập nhất niên. Ông ra phò giúp Lưu Bị giữa lúc Lưu Bị đang thất cơ lỡ vận, nương nhờ Lưu Biểu ở Tân Dã nhưng lại bị chân tay Lưu Biểu đuổi đánh.
Vì cớ gì, Lưu Bị trong tình trạng khốn cùng như vậy lại được tập đoàn thanh niên trí thức vùng Tương Dương ủng hộ?

Trả lời câu hỏi trên, ta phải nhìn vào tình hình chính trị Kinh Châu.
Kinh Châu vốn vẫn là khu vực thái bình. Mãi sau thế lực của Tào Tháo phát triển, vùng này mới bị đe doạ, ngôi Lưu Biểu như ngọn đèn trước gió. Nội bộ phát sinh xung đột, phản phúc, bè phái. Nội tôn, ngoại thích xâu xé lẫn nhau. Phe ngoại thích mạnh vây cánh hơn, nhưng vì chủ trương hàng Tào Tháo nên bị dân chúng vẫn còn mang nặng đầu óc địa phương phong kiến chống lại, và phần tử trí thức rất ghét tập đoàn ngoại thích Sái Thị (vợ Lưu Biểu) và Sái Mạo (em Sái Thị) cầm đầu, thường làm lắm điều ngang ngược. Lưu Bị đến nương nhờ Lưu Biểu, nhưng đứng về phe nội tôn, vận động cho Lưu Kỳ trong việc kế vị Lưu Biểu nên Lưu Bị bị bọn Sái Mạo lập mưu giết, Lưu Bị trốn được (xin xem lại hồi 34)

Tuy thất bại liên tiếp nhưng Lưu Bị vẫn đáng kể như một trong những lãnh tụ quan trọng lúc bấy giờ vì tính chất kiên trì bất khuất và tiếng tăm biết nghĩa, yêu dân của ông. Thêm nữa dân chúng Kinh Châu đang bất mãn với chính quyền Lưu Biểu, nên đồng tình hùa theo Lưu Bị. Nhờ thế mà sau khi nhảy qua Đàn Khê thoát chết, Lưu Bị được quần chúng che chở, trí thức giúp đỡ.

Bởi chưng phò tá một kẻ đã khánh tận, nên kế sách của Gia Cát Lượng mới lập trên việc đi tìm căn cứ địa trước hết. Kế sách ấy như thế nào, Tam quốc chí diễn nghĩa viết:
Khổng Minh nói:

- Từ khi Đổng Trác phản nghịch đến nay, hào kiệt bốn phương trỗi dậy. Như Tào Tháo kém thế Viên Thiệu mà đánh được Viên Thiệu, đó không những chỉ có thiên thời mà cũng có cả mưu người nữa. Nay Tháo đã cầm được quân trăm vạn, mượn tiếng thiên tử để khống chế chư hầu, xem đó thật không thể tranh giành với hắn được. Tôn Quyền giữ đất Giang Đông đã được ba đời, đất đai hiểm trở mà lòng dân lại quy phục, xem thế Giang Đông cũng chỉ dùng để giúp ta chứ không thôn tính được, duy chỉ có Kinh Châu, phía bắc có sông Hán, sông Miện kéo dài đến tận Nam hải, phía Đông nối liền với Ngô Hội, phía Tây thông vào Ba Thục, chỗ ấy là đất dụng võ, phải có chúa giỏi mới giữ nổi, trời để dành riêng cho tướng quân đó. Tướng quân nghĩ sao? Lại có Ích Châu, hình thế hiểm trở, ruộng đất phì nhiêu ngàn dặm, thực là một vựa thóc của trời. Cao Tổ ngày xưa cũng do nơi đó mà dựng thành nghiệp đế. Nay Lưu Chương ngu si hèn yếu, dân nhiều nước giầu mà không biết trông coi, những người hiền tài dân trí chỉ mong mỏi được vua sáng mà thờ. Tướng quân đã là dòng dõi nhà vua, tín nghĩa toả ra bốn bề, thu nạp anh hùng, mong người hiền như khát nước, nếu tướng quân gồm được châu Kinh, châu Ích, giữ vững nơi hiểm trở, mặt tây hoà với các tộc, mặt nam phủ dụ các nước Di Việt, ngoài thì liên kết với Tôn Quyền, trong thì sửa sang việc chính trị, đợi lúc thiên hạ có biến, sai một thượng tướng đem quân Kinh Châu tiến sang Uyển Lạc, còn tướng quân thì đem quân tiến ra Tây Xuyên, nhất định trăm họ phải đem giỏ cơm bầu nước đến đón tướng quân. Nếu được như thế, nghiệp lớn mới thành, nhà Hán mới phục hưng được. Đó là việc Lượng này định bầy với tướng quân, tướng quân thử xét xem.

Nói xong sai tiểu đồng đem bản địa đồ treo giữa nhà rồi trỏ bảo Huyền Đức rằng: đây là địa đồ 54 châu ở Tây Xuyên. Tướng quân muốn thành nghiệp bá thì phải nhường thiên thời cho Tào Tháo ở phía bắc, nhường địa lợi cho Tôn Quyền ở phía nam, còn tướng quân nắm vững lấy Tây Xuyên để dựng cơ đồ, hình thành cái thế chân vạc rồi sau mới tính đến Trung Nguyên được.

Toàn bộ kế sách Khổng Minh bầy cho Lưu Bị ngay buổi đầu gặp gỡ có thể thu gọn vào mấy điều sau đây:

Cấp tốc kiến lập căn cứ địa.
Đoàn kết các lực lượng để đương đầu với Tào Tháo.
Củng cố căn cứ địa thật vững chãi
Đợi cơ hội tấn công chính quyền Tào Tháo.

Kế sách Khổng Minh thực là vững vàng chu đáo. Nhưng rút cuộc Khổng Minh thất bại. Nguyên nhân thất bại thứ nhất là không lấy nổi địa bàn Kinh Châu sớm hơn. Nguyên nhân thứ hai anh em Lưu Quan Trương bị giao động, phá hoại chính sách Liên Ngô, thí thân vô ích.

Tại sao không lấy nổi địa bàn Kinh Châu sớm hơn?
Tam Quốc Chí diễn nghĩa nói: sở dĩ không lấy nổi Kinh Châu sớm là vì Lưu Huyền Đức không chịu làm điều phi nghĩa. Một lần Khổng Minh xui Lưu Bị đánh úp Kinh Châu giữa lúc Lưu Biểu ốm nặng. Huyền Đức nói: Thà ta chết thì thôi, chớ không chịu làm điều phi nghĩa. Lần khác Y Tịch xui Lưu Bị mượn danh nghĩa viếng tang đến Tương Dương dụ Lưu Tông ra đón, lập tức bắt lấy giết sạch những bọn tòng đảng. Huyền Đức ứa nước mắt nói rằng: Lúc anh ta sắp mất đã gửi con cho ta, nay nếu bắt lấy con, cướp lấy đất thì sau này xuống chín suối còn mặt mũi nào trông thấy anh ta nữa.

Sự thật nếu đọc kỹ mấy hồi 39, 40, 41 sẽ thấy rõ: Tào Tháo thấy Lưu Biểu sắp mất, sợ Lưu Bị sẽ toạ hưởng kỳ thành đất Kinh Châu nếu Lưu Kỳ kế vị, liền đem quân tấn công Tân Dã đánh nhau với Lưu Bị, chiến tranh Tào – Lưu đang gay go thì Lưu Biểu mất. Nhờ cuộc tấn công của Tào Tháo vào lực lượng Lưu Bị mà tập đoàn ngoại thích Sái Mạo hất cẳng Lưu Kỳ, tôn Lưu Tông lên kế vị Lưu Biểu và bí mật đầu hàng Tào Tháo. Mặc dù Khổng Minh chiến thắng Tào Tháo hai trận Tân Dã và Bác Vọng, nhưng trên đại thế vẫn là hết lực chống đỡ và buộc phải rút lui. Tháo biết tình trạng khó khăn của Lưu Bị, nên mới sai Từ Thứ đi sứ đến dụ hàng. Từ Thứ tới Phàn Thành. Huyền Đức, Khổng Minh ra đón. Từ Thứ nói Tào Tháo sai tôi đến đây dụ sứ quân, chẳng qua giả danh mua chuộc lòng người đó thôi. Nay Tháo chia quân làm tám đạo, lấp sông Bạch Hà mà tiến, tôi e Phàn Thành không giữ được, nên liệu mà đi chỗ khác. Lưu Bị bèn bỏ Phàn Thành rút về Tương Dương. Tháo đánh đến Tương Dương, Lưu Bị bỏ chạy sang Giang Hạ, ở Giang Hạ cũng không xong, may nhờ thoả ước giữa Khổng Minh và Lỗ Túc, Lưu Bị mới đến Đông Ngô tá túc.

Ngoại giao trên hết Gỡ thế bí cho Lưu Bị là tài ngoại giao của Khổng Minh. Khổng Minh thường nói: “Đạo có ba đặc điểm: sự, thế và tình. Sự cơ đến mà không biết ứng không phải là trí. Thế cơ động mà không biết mưu đồ, không phải là giỏi. Tình cơ đến mà không biết hành động, không phải là dũng.” Tình cảnh sự việc và thế lực của Lưu Bị sau khi chạy dài ở cầu Trường Bản, nếu không có cái trí, cái giỏi và cái dũng của Khổng Minh chắc hẳn nghiệp lớn Lưu Bị đã tan tành.

Chẳng những vậy trí ấy, giỏi ấy, dũng ấy còn tạo nên một tình thế đặc biệt, kể đại cục là chia ba chân vạc, kể cá nhân Lưu Huyền Đức là tay trắng khởi nghiệp chiếm Kinh Châu, Ba Thục, nhỏ hoá lớn, không thành có.

Gia Cát Lượng vận động xoay chuyển thành thế tam phân không nhờ binh hùng, lực mạnh. Tất cả vốn liếng của ông chỉ là nước bọt biện thuyết. Sức lực biện thuyết của ông rộng lớn mãnh liệt như lời cổ nhân nói: “Khả dĩ lãnh quyền uy nhi lập quyền uy, thăng giáp binh nhi tự vi giáp binh.”

Đọc hồi thiệt chiến quần nho, trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa thật kỳ thú vô cùng. Tuy nhiên vì phải vận dụng thú vị tiểu thuyết nên Tam Quốc Chí diễn nghĩa không khỏi làm cho độc giả hiểu nhầm biện là bẻm mép. Nếu chỉ bẻm mép, Khổng Minh khó lòng thâu kết quả lớn như vậy. Con người biện thuyết của Khổng Minh còn ghê gớm đáng khâm phục hơn nhiều. Mặc Tử nói: Biện thuyết là trình bày nổi sự phải trái để thắng.
Văn Trung Tử diễn rằng: Kẻ tục cho diễn thuyết chỉ là bẻm mép, thấy ai ăn nói trơn tru hoạt bát dáng dấp tựa cuồng phong vũ bão, thì vì hiếu kỳ mà thán phục.
Biện thuyết không phải là khuất phục cái miệng người khác mà chủ yếu là khuất phục nhân tâm. Muốn khuất phục nhân tâm người biện thuyết phải đầy đủ bốn đức tính: Cơ, dũng, trí, biến.

Cơ: Xét thời, xét thế nhân lợi thừa tiện.
Dũng: Quyết đoán quả cảm, làm và tin những điều thiên hạ còn do dự sợ sệt.
Trí: Biết rõ sự lý, thông đạt nhân tình, giải quyết giỏi giang.
Biến: Thay đổi không ai liệu được.

Bàn về tư tưởng chính trị, tài cán quân sự của Gia Cát Lượng
Chính sách mà Gia Cát trình bày với Lưu Bị tại Long Trung khái quát mấy điểm chủ yếu đi theo thứ tự dưới đây:

1) Hoà hiếu với Đông Ngô.
2) Chiếm đất Thục làm căn cứ khởi nghiệp.
3) Ổn định nội bộ.
4) Chống giữ với các lực lượng bên ngoài.
5) Bình định man tộc.
6) Hưng binh đánh Nguỵ.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Hơn 20 năm liền, Khổng Minh nỗ lực tận tuỵ thực hiện 6 sách lược. Chúng ta hãy kiểm điểm quá trình hơn hai mươi năm ấy. Khổng Minh đã làm được những gì? (Về vấn đề Kinh Châu đã nói ở trên rồi).

Năm Kiến An thứ 9, Lưu Chương đầu hàng Huyền Đức. Huyền Đức chiếm Thục. Đất Thục tuy bờ xôi ruộng mật, nhưng xã hội loạn vì lẽ giáp ranh các ngoại tộc, “loạn” Trung Nguyên bấy giờ mới lan tới đây, sự xung đột giữa tư tưởng mới cũ, con người mới cũ, tiến bộ và phản động còn rất mạnh. Chiếm Thục rồi, vấn đề nhân tâm hãy còn trăm đầu ngàn mối rối ren. Cho nên công việc mà Khổng Minh coi là quan trọng hàng đầu là: an bài nhân sự. Sách Chiêu Liệt truyện chép: “Những kẻ sĩ có chí, không người nào là không được khuyên giải, vỗ về, nhiêm dụng.” Các bọn có thế lực ở đất Thục như: Đổng Hoà, Hoàng Quyền, Lý Nghiêm, Bành Nghĩa, v.v… đều chịu phục cả. Nhờ tài an định nhân tâm, nên việc chiếm cứ Ba Thục không gặp những vụ phản kháng lớn. Nhờ chính sách Liên Ngô nên Tôn Quyền làm ngơ mặc cho Lưu Bị độc quyền hoành hành ở Tây Xuyên.

Kiến lập căn cứ địa xong, Khổng Minh lại xác định thêm một lần nữa chính sách Liên Ngô để rảnh tay tiến hành kiến thiết Ba Thục. Công cuộc Kiến Thiết đất Thục là một công việc hết sức vĩ đại, vì dưới chế độ Lưu Chương khu vực này đã quá ung thối. Sử nói về công tích như sau:

Ruộng nương khai phá. Kho lẫm thừa đầy. Đồ dùng tốt rẻ. Gia súc sinh sản nhiều. Đường phố không có người say rượu. Viên chức không gian tham. Mỗi người đều cố gắng. Của rơi không ai nhặt. Kẻ mạnh không hà hiếp người yếu. Phong hoá nghiêm chỉnh, vui sướng. Nhà cửa cầu cống sửa sang.

Trần Thọ phê rằng:
Ông Gia Cát Lượng làm Tướng quốc phủ dụ trăm dân, nêu cao tín nghĩa điều chỉnh quan chức đâu ra đấy, áp dụng công đạo, thể hiện tâm thành. Kẻ tận trung, khó nhọc tuy thù vẫn trọng thưởng, kẻ phạm pháp biếng lười tuy thân cũng trừng trị. Phép cai trị của ông chú dụng đến bản chất của vật lý, trọng thực hơn danh.

Kiến thiết hoàn thành, Khổng Minh chuyển sang giai đoạn bình định các man tộc. Muốn đánh Nguỵ mà không lo hậu hoạn tất nhiên phải giải quyết vấn đề các man tộc. Bảy lần bắt bảy lần tha Mạch Hoạch, vừa bằng biện pháp quân sự, vừa chính trị, Gia Cát giải quyết tốt đẹp nỗi khó khăn biên giới. Sau đó Khổng Minh mới khởi binh đánh Nguỵ.

Tư tưởng chính trị của Gia Cát Lượng rất khoát đạt, mềm dẻo, không câu thúc hẳn trong khuôn khổ pháp gia cũng không câu nệ trong khuôn sáo nho gia. Căn cứ vào những sự việc đã được thực hiện ở Tây Xuyên thì triết học chính trị của Gia Cát Lượng có thể nói là tập hợp các sở trường của cả nho lẫn pháp, là đại thành của cả hai đạo vương, đạo bá. Nho gia chú trọng nhân trị, pháp gia chỉ trọng pháp trị. Gia Cát chú trọng pháp với nhân ngang nhau. Vương đạo quí tín nghĩa, Bá đạo quí lợi hại. Gia Cát cai trị đất Thục vừa mở rộng Tín vừa điều chỉnh lợi hại.

Đời sau Tô Đông Pha có ý chê Khổng Minh nói:
- Lấy thiên hạ bằng nhân nghĩa, giữ thiên hạ bằng nhân nghĩa là nhà Chu. Lấy thiên hạ bằng vũ lực, bằng thủ đoạn xảo quyệt, giữ thiên hạ bằng vũ lực, bằng thủ đoạn xảo quyệt là nhà Tần. Mượn cách thức nhà Tần để chiếm thiên hạ, lấy cách thức nhà Chu để giữ thiên hạ là nhà Hán.

Vừa dùng nhân nghĩa vừa dùng trá lực là lề lối của Gia Cát Lượng. Vì thế mà Gia Cát thất bại.

Nói vậy ý Tô Đông Pha cho rằng: vì Khổng Minh không dứt khoát bề nào nên hỏng. Lời phê bình của Tô Đông Pha hơi vũ đoán đối với Gia Cát Lượng và quá công thức đối với chính trị. Tô Đông Pha là một nhà văn không tưởng nên ông không hiểu rõ hiện thực chính trị. Vương An Thạch đã cho họ Tô một bài học khá sâu sắc, khi họ Tô chữa câu thơ: Hoàng khuyển ngoạ hoa tâm (con chó vàng nằm dưới bóng cây hoa). Vương An Thạch bị Đông Pha chê dốt, cười không nói gì ra lệnh đày Tô Đông Pha đến địa phương mà ông đã cư trú trước đây. Đến nơi Tô Đông Pha mới biết rằng ở vùng này có thứ sâu mà dân chúng đặt tên là sâu “hoàng khuyển”.

Ở vào cái thế Khổng Minh tại Tây Xuyên thì mới thấy hành động của Khổng Minh không lầm. Trong khi quần chúng tranh thắng, sự nguy cấp tồn vong cho mỗi lực lượng chỉ mong manh như sợi tóc, nhân chính và vương đạo là việc lâu dài, đương nhiên không có khả năng ứng phó ngay với cục diện xoay chuyển nhanh chóng. Trị loạn trước phải dùng nghiêm hình, vậy thì lề lối pháp gia rất thích hợp. Gia Cát Lượng dùng tính cấp của pháp gia để hộ vệ cho tính khoan của nho gia là đúng vậy.

Sách Thục Ký chép:
Dưới chế độ Lưu Chương, sĩ đại phu nhiều kẻ dùng thế dùng tiền để áp bức khinh thị tiểu dân, Lượng nắm chính quyền quyết ra tay tiêu trừ tình trạng đó, các nhà đại gia oán than rầm trời.
Đại thần tên là Pháp Chính cho thế là quá nghiêm ngặt nên can Khổng Minh rằng:
“Ngày xưa vua Hán Cao Tổ vào đây, đã ra điều ước gồm 3 chương, dân Tần nhớ đức vua Cao Tổ. Nay ngài dựa vào uy lực chiếm cứ được một Châu, mới trị nước mới, chưa thi ân huệ phủ dụ, chủ với khách chưa thật đồng tình. Tôi nghĩ ngài nên nới tay để yên lòng thắc mắc, thoả mãn nguyện vọng trăm họ.”
Gia Cát Lượng nghe Pháp Chính nói, cười đáp rằng:
Ông mới chỉ biết một mà chưa biết hai. Nhà Tần vô đạo, chính sách hà khắc. Dân tâm oán vọng. Cao Tổ dựa đấy mà khoan hậu cởi mở, tháo gỡ bàn tay tàn bạo của nhà Tần. Còn như Tây Xuyên, Lưu Chương bạc nhược hôn ám, kể từ ngay các đời trước Văn với Pháp đã bỏ chểnh mảng, uy lệnh trễ nải, chính sự hỗn loạn. Đạo quân thần mất hết trật tự. Cho ngồi cao, vị cao tất lạm quyền. Thi điều ân nghĩa vặt, ân nghĩa hết thì sinh hỗn láo. Bệnh Ba Thục là do gốc loạn mà ra. Tôi không thể không nghiêm pháp để lập lại trận tự.

Sách Hoa Chương Chí ghi: Có người trách Gia Cát Lượng chỉ ham công mà tiếc thưởng. Gia Cát đáp: Trị thiên hạ theo ý tôi, cần lấy “đại đức” làm căn bản chứ không lấy “tiểu huệ” làm căn bản. Xem như Lưu Cảnh Thăng là con người trọng tiểu huệ, nay cho kẻ này cái này mai cho người kia cái khác. Rút lại tiểu huệ chỉ gây thêm mầm loạn. Đại đức là gì, chúng ta hãy kiểm điểm lại công tích Gia Cát đã nêu ra ở trên: Ruộng nương khai phá… viên chức không gian tham… Kẻ mạnh không hà hiếp người yếu… v.v.
Cơ sở tư tưởng pháp trị của Khổng Minh đặt trên nền tảng đại đức cho nên ông thường nói với thuộc hạ: Lòng tôi như chiếc cân, không vì người mà nặng nhẹ (Ngã tâm như bình, bất năng vị nhân tác khinh trọng). Câu nói đó biểu hiện minh bạch tính chất chí công vô tư của Khổng Minh mỗi lần ông thi hành quyền bính.
Trương Duệ nhận xét Khổng Minh rất đúng khi ông nói rằng:
- Gia Cát thưởng không bao giờ quên những người ở xa. Phạt không bị kẻ ở gần làm mờ ám. Ở với ông thì chức tước đổi bằng công lao. Hình tội không thể đem thế lực tiền tài mà được miễn.

Sử dụng lề lối pháp gia, để ứng với những vấn đề cấp thời, ngay sau khi chiếm cứ Tây Xuyên để đặt lại trật tự yên đâu đấy rồi, Gia Cát Lượng cho áp dụng lề lối nhân trị của nho gia, để tiếp tục kiến thiết Ba Thục.
Trước hết ông nêu lên phương châm:
Không vì người mà giao việc, phải vì việc mà chọn người.
Vũ Hầu dùng người lấy tài năng làm tiêu chuẩn. Phương pháp nhận định để biết người, Vũ Hầu ghi tất cả trong thiên Tri nhân thuộc tập “Tưởng Uyển” như sau:
- Tính người thật khó hiểu. Dung mạo bất nhất, hành động trăm ngàn lối. Kẻ trông hiền lành nhu thuận mà vô đạo. Kẻ bề ngoài cung kính mà trong lòng trí trá vô lễ. Kẻ trông rất hùng dũng nhưng lại nhát sợ. Kẻ thật tận lực mà bất trung. Tuy nhiên đạo biết người cũng có thể chia làm bẩy cách:

a) Đem điều phải lẽ trái hỏi họ để biết chí hướng.
b) Lấy lý luận dồn vào thế bí để biết biến thái.
c) Lấy mưu trí trị họ để trông thấy kiến thức.
d) Nói với họ những nỗi khó khăn để xem đức dũng.
e) Cho họ uống rượu say để dò tâm tính.
f) Đưa họ vào lợi lộc để biết tấm lòng liêm chính.
g) Hẹn công việc với họ để biết chữ Tín.

Do nhu yếu của thời thế, nên toàn bộ chính sách nhân trị của Khổng Minh đều quy vào vấn đề tiến cử người hiền. Ông viết: “Trị nước chẳng khác gì trị bản thân. Trị thân cần nuôi dưỡng thần khí, đạo trị quốc là tiến cử người hiền năng. Nước có người hiền như nhà có cột chèo vững chắc. Quốc gia nào mà dân chúng nghèo đói, quan lại giầu sang, bọn nịnh hót ở ngôi cao, người trung lương bị đầy ải, thì quốc gia đó không thể bình an được.”
Vũ Hầu chú trọng đến vấn đề nhân tài đến thế, kết cuộc ông thất bại ngay trên vấn đề này. Tại sao? Chúng ta sẽ bàn đến trong một chương khác.
°°°

Người đọc Tam Quốc Chí diễn nghĩa ai ai cũng thấy cực hứng thú, mỗi lần xem việc quân sự Gia Cát Lượng dùng binh.
Lần đầu tiên Khổng Minh ra mưu là trận đánh ở Bác Vọng. Trận này lực lượng Lưu Bị đúng như lời Hạ Hầu Đôn: Lưu Bị như lũ chuột, thế nào ta cũng bắt được. Chính Huyền Đức cũng công nhận khi Khổng Minh nói: Quân Minh Công cũng chẳng qua được vài ngàn, nếu Quân Tào kéo đến đánh lấy gì mà chống cự? Kết quả trận Bác Vọng rằng:

Bác Vọng dùng mưu đánh hoả công.
Cười cười nói nói vẫn thung dung.
Tào Man nghe tiếng hồn bay bổng.
Rời khỏi lều tranh đệ nhất công.

Trận thứ hai là trận Tân Dã với kết quả: Quân sĩ Tào chạy lửa dày xéo lẫn nhau, chết vô kể. Bọn Tào Nhân vừa thoát nạn lửa thì đằng sau đã thấy ngay Triệu Vân dẫn quân đuổi đánh giết, quân Tào tranh nhau chạy trốn, không ai dám ngoảnh cổ lại. Đang chạy bị My Phương kéo quân ra bồi cho một trận nữa. Tào Tháo thua to, cướp đường rún chạy. Chạy đến sông Bạch Hà lại bị Quan Vân Trường phục sẵn khơi nước. Quân Tào chết vô số.

Việc Gia Cát mượn 10 vạn mũi tên của Tào Tháo.
Vụ phục binh ở Hoa Dung Lộ tiêu diệt nốt tàn lực Tào.
Vụ cướp Nam Quận dùng binh phù của Tào Nhân rồi sai Trương Phi đánh úp Kinh Châu.
Vụ bẩy lần bắt Mạnh Hoạch.
Vụ gẩy đàn đuổi Trọng Đạt.
Vụ lừa Vương Song và đánh úp Trần Sương.
Vụ đấu trận làm nhục Tư Mã Ý.
Vụ chém đầu Trương Cáp.
Vụ vây khốn cha con Tư Mã Ý ở Thượng Phương Cốc.

Tất cả mọi trận, mưu trí của Khổng Minh thật là tài tình, các mặt: từ việc xét thế lực đến cách thắng địch, trọng địch khinh địch, đến vấn đề chủ động, đoạt yếu tước nhược lực lượng địch, dùng lực lượng địch làm cho địch hoang mang, lầm lỗi, đến đường lối gây thêm vây cánh đồng minh nhất nhất Khổng Minh không sơ hở bao giờ.
Tư Mã Ý cũng là một vị tướng giỏi đời Tam Quốc, nhưng không bao giờ ông dám sánh ngang với Khổng Minh. Mỗi lần bình phẩm Gia Cát Lượng, Tư Mã Ý chỉ nói: “Đấy là kỳ tài trong thiên hạ.”
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Những trước tác về phương diện quân sự của Khổng Minh đều gom góp trong tập “Tưởng Uyển ngũ thập thiên”. Tôi xin trích dẫn ít đoạn Gia Cát nói về nghề làm tướng để bạn đọc cứu xét:
Tướng tài: Tướng tài phân định làm tám cỡ:
- Biết lấy đức mà dẫn dắt, dùng lễ để hoà nhân, xét đến nỗi dốt, nỗi rét hiểu điều cơ cực của quân lính, là nhân tướng. (Ông tướng có lòng nhân từ).
- Làm việc không cẩu thả, không lợi nhiễu tâm tính, chết vinh sống không nhục là nghĩa tướng.
- Ở ngôi quí không kiêu, thắng không tự thị, cứng rắn nhưng biết nhẫn nhục là lễ tướng.
- Biến hoá khôn lường, hành động ứng phó giỏi, chuyển hoạ thành phúc, nhân nguy chế thắng là trí tướng.
- Tiến có thưởng, thoái trừng phạt, thưởng đúng lúc, phạt không chừa người thân quí là tín tướng.
- Linh động, đánh nhanh, rút mau, giỏi dùng đoản binh, quân sĩ kính sợ là bộ tướng.
- Đánh ào ạt, xông pha nơi hiểm yếu, lúc tiền phong lúc hậu vệ che đỡ ba quân là kỵ tướng (Kỵ binh).
- Khí chất làm phấn khởi ba quân, ham đánh trận lớn, tránh trận nhỏ là mãnh tướng.
- Thấy người hiền thì quí trọng, biết nghe, biết dùng lời hay lẽ phải, khoan hoà mà không kém phần cương dũng, giản dị nhưng nhiều mưu đó là đại tướng.

Tướng giỏi:
Làm Tướng có năm điều giỏi, bốn điều cần:
Năm điều giỏi:
Giỏi biết dùng thế của địch.
Giỏi biết đạo tiến thoái.
Giỏi biết hư thực của một nước.
Giỏi biết thiên thời nhân sự.
Giỏi biết sông núi hiểm yếu.

Bốn điều cần:
Khi bàn luận cần nhiều mưu lạ.
Khi dùng mưu cần bí mật.
Khi động binh cần yên lòng dân chúng.
Khi chiến tranh cần làm dân chúng nhất tâm.
Tư tưởng người làm tướng

Thu dụng hào kiệt để giữ nhân tâm. Khéo dùng quần chúng để có nhiều nhân lực. Hiểu đạo nhu cương. Trước nhân nghĩa sau mới trí dũng. Lúc tĩnh như cá lặn. Lúc động như voi lồng. Phân tán đồng minh của địch. Đánh chỗ yếu để đập gẫy chỗ mạnh. Rút chắc như núi chuyển. Tiến nhanh như vũ bão. Lấy lợi dụ địch. Giả hèn cho địch kiêu. Thân với người đa mưu. Xa kế trước động binh sau. Tính thắng đã rồi mới chiến.

Bàn về cái mượn của Khổng Minh Hồi thứ 46, Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể: Hôm sau Chu Du hội cả các tướng dưới trướng, mời Khổng Minh đến bàn việc. Khổng Minh đến, Du hỏi:
Nay sắp đánh nhau với Tào Tháo trên mặt sông, nên dùng vũ khí gì cho tiện?
Khổng Minh thưa:
Trên mặt sông lớn, cốt lấy cung tên làm đầu.
Du nói: Lời tiên sinh hợp ý tôi lắm. Hiện trong quân đang thiếu tên bắn, phiền tiên sinh trông nom giúp cho việc làm mười vạn tên. Đây là việc công, tiên sinh chớ nên từ chối.
Khổng Minh nói: Đô Đốc đã sai, tôi xin hết sức. Xin hỏi mười vạn tên khi nào dùng đến?
Du hỏi: Trong mười hôm có làm xong không?
Khổng Minh nói: Quân Tào nay mai sắp đến, nếu đợi mười ngày e việc lớn hỏng mất.
Du hỏi: Tiên sinh liệu mấy hôm thì xong?
Khổng Minh thưa: Trong nội ba ngày sẽ nộp đủ mười vạn tên.
Du nói: Việc quân không phải trò đùa đâu.
Khổng Minh nói: Đâu có dám đùa với Đô Đốc, tôi xin làm giấy cam đoan. Nếu ba ngày không xong cam đoan chịu trọng tội.
Du mừng lắm, gọi ngay quan Chính Tư, mang đồ văn phòng ra làm tờ cam kết, rồi mở tiệc khoản đãi và nói:
Khi nào xong việc xin có đền đáp.
Khổng Minh nói: Hôm nay đã không kịp rồi, ngày mai bắt đầu làm, đến ngày thứ ba, xin Đô đốc sai năm trăm quân đến bờ sông nhận tên đem về. Khổng Minh uống thêm vài chén rồi từ biệt.
Lỗ Túc hỏi Chu Du: Người này có nói khoác chăng?
Du nói: Rõ ràng hắn tự mua lấy cái chết, chớ ta cũng không bắt ép gì hắn. Hôm nay đông đủ mặt các quan, làm tờ cam kết, dù hắn có mọc cánh cũng không bay thoát. Ta dặn bọn thợ cố làm dây dưa và không cấp đủ cho đồ dùng, tất nhiên hắn lỡ hạn. Khi ấy ta trị tội, xem có kêu ca được nữa không. Tử Kính thử sang thăm dò tình hình, về báo cho ta biết.

Lỗ Túc vâng lệnh đến gặp Khổng Minh.
Khổng Minh nói: Ta đã bảo Tử Kính, đừng nói chuyện gì với Công Cẩn e Công Cẩn lại tìm kế hại ta. Không ngờ Tử Kính không biết giấu giếm hộ, hôm nay quả nhiên lại có chuyện. Trong ba ngày làm sao vót nổi mười vạn tên. Tử Kính phải cứu ta mới được.
Túc nói: Ông tự rước lấy tội, tôi biết cứu làm sao bây giờ?
Khổng Minh nói: Tử Kính cho ta mượn ba chục tay thuỷ thủ tốt. Trên thuyền căng vải xanh che chung quanh và vặn hơn nghìn hình nhân bằng rơm xếp đứng hai bên mạn thuyền. Ta sẽ có kế. Đến ngày thứ ba, ta bảo đảm được đủ mười vạn tên cho mà xem, nhưng chớ để cho Công Cẩn biết nữa, nếu hắn biết thì kế ta hỏng mất.
Túc vâng lời nhưng chưa hiểu rõ mưu mô Khổng Minh ra sao? Lúc về gặp Chu Du, quả nhiên Túc không hề đả động đến việc mượn thuyền chỉ bảo không thấy Khổng Minh dùng đến tre gỗ lông chim sơn nhựa gì cả, chỉ nói rằng sẽ có cách.
Du ngạc nhiên nói: thử đợi đến hôm thứ ba xem sao?
Lỗ Túc cắt riêng hai chục chiếc thuyền nhanh nhẹ, mỗi chiếc ba chục người bơi, đủ đồ vải căng, cỏ bó dự bị sẵn sàng cho Khổng Minh. Ngày thứ nhất không thấy gì, ngày thứ hai cũng vậy. Mãi đến hôm thứ ba độ canh tư, Khổng Minh mới lén sai người mời Lỗ Túc xuống thuyền.
Túc hỏi: lấy tên ở đâu?
Khổng Minh nói: Tử Kính không phải hỏi, cứ đi sẽ biết.
Nói rồi sai lấy thừng chạc ràng cả hai chục chiếc thuyền làm một cho bơi thẳng lên phía Bắc.
Đêm ấy sương mù phủ kín trời, trên mặt sông lại càng mờ mịt, giáp mặt không trông thấy nhau. Khổng Minh giục quân chèo thuyền đi thật gấp. Quả thật là một buổi sương mù rất đẹp, rất nên thơ.
Lỗ Túc sợ hãi hỏi: Quân Tào ùa ra thì làm thế nào?

Khổng Minh cười đáp: Tôi chắc Tào Tháo thấy sương mù thế này không dám cho quân ra. Chúng mình cứ yên chí uống rượu làm vui, đợi khi nào sương tan thì về.
Canh năm đêm ấy thuyền đến sát thuỷ trại Tháo. Khổng Minh sai đỗ thuyền quay về hướng tây, dàn thành hàng nhất, rồi đánh trống và hò reo ầm ĩ. Mao Giới, Vu Cấm vội vàng phi báo với Tào Tháo. Tháo truyền lệnh rằng: Sương mù dày đặc, quân giặc kéo đến bất thần tất có mai phục, không nên khinh động.
Tháo chỉ ra lệnh cho quân cung nỏ bắn tứ tung ra, lại sai người lên trại cạn gọi Trương Liêu, Từ Hoảng, mỗi người dẫn ba ngàn quân cung nỏ cấp tốc đến bờ sông trợ chiến. Hiệu lệnh đến nơi thì Vu Cấm, Mao Giới sợ quân Nam tràn vào thuỷ trại, đã sai quân bắn rào rào ra rồi. Một lát quân trên cạn cũng đến ước hơn vạn người, đều chĩa vào chỗ có trống bắn tới như mưa. Khổng Minh một mặt cứ việc thúc trống reo hò ầm ĩ. Khi mặt trời đã mọc, sương mù tan dần. Khổng Minh sai thu thuyền về, các bó cỏ trên hai chục chiếc thuyền, bó nào cũng chi chít những tên cắm.

Khổng Minh sai quân sĩ đồng thanh reo to lên rằng:
Tạ ơn Thừa Tướng giúp tên.
Khi quân vào báo cho Tháo biết, thì thuyền nhẹ nước xuôi đã đi xa hàng chục dặm rồi, đuổi không kịp nữa. Tào Tháo tức bực vô cùng.
Khổng Minh quay thuyền về nói với Lỗ Túc rằng:
Mỗi thuyền được ước lượng năm sáu ngàn tên mà không tốn chút công sức nào của Đông Ngô cả. Thế là đã được hơn mười vạn tên, nay mai lại đem tên ấy bắn lại quân Tào, chẳng tiện lắm ư?

Phê bình việc mượn tên, ông Mao Tôn Cương nói:
Điểm tuyệt diệu mỗi lúc Khổng Minh dùng kế là giỏi mượn. Muốn phá quân bắc, Khổng Minh mượn binh đội Giang Đông, giúp Giang Đông Khổng Minh mượn tên quân bắc. Vừa mượn Đông, vừa mượn Bắc. Lấy tên mượn thuyền của Lỗ Túc. Khiến Tào Tháo ngờ vực, Khổng Minh mượn sương mù trên sông. Đã mượn của người lại còn mượn cả của trời. Binh cũng mượn, tên cũng mượn thì sau này cớ sao Kinh Châu không mượn nốt nhỉ.
Tây Phương cũng như Đông Phương, những chính trị gia đều hết sức chú trọng đến vấn đề mượn. Bởi vì tranh thiên hạ, đoạt chính quyền bao giờ cũng bắt đầu từ không đến có, từ nhỏ đến lớn (vô sinh hữu chi lực, tiểu biểu đại chi lực) từ một tia lửa biến thành đám cháy to (de l’étincelle jaillit en flammes)
Ở lịch sử Trung Quốc, quy luật mượn được khai thác triệt để trong mọi hành động chính trị.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 100 trang (999 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [86] [87] [88] [89] [90] [91] [92] ... ›Trang sau »Trang cuối