Loạn Khăn Vàng
Nói đến loạn Hoàng Cân (khăn vàng), chúng ta cần phải nêu ra mấy đặc điểm của vận động này:
A) Loạn Khăn Vàng là một cuộc vận động chống bọn thống trị nhà Hán của nông dân tự phát khởi vì nông dân quá đói khổ. Bằng chứng là loạn Khăn Vàng đều nhóm lên từ những khu vực đất đai nghèo, hoang, mất mùa.
B) Do tranh chấp tư tưởng Hoàng Lão với tư tưởng chủ lưu Khổng Tử, Quản Trọng. Thời Xuân Thu, Chiến Quốc các nước phân tranh, tư tưởng tự do phồn thịnh trăm nhà lên tiếng. Sau Tần thì thiên hạ thống nhất, các học thuyết cũng chịu áp lực chính trị quy vào thống nhất. Tần triều quy vào pháp lệnh, đầu đời Hán quy vào thuyết Hoàng Lão, đến Hán Vũ Đế thì biểu chương Lục Kinh, tôn phụng Khổng Tử mà truất bãi các thuyết khác. Một ngành của học thuyết Hoàng Lão biến thành tư tưởng thần quyền vào phong tục tế tự ở nông thôn, dựa vào đầu óc chất phác của nông dân mà chống lại trí thức Nho của Khổng môn.
C) Do tranh chấp quyền bính với trung ương vì những nhân vật trọng yếu của vận động Hoàng Cân đều là quan quân thủ hạ của Ích Châu mục Lưu Yên. (Ích Châu gồm các tỉnh Vân Nam, Tứ Xuyên và miền nam tỉnh Thiểm Tây bây giờ)
D) Chịu ảnh hưởng chính sách ruộng đất của Vương Mãng và tổ chức Xích Mi
Loạn Hoàng Cân mở đầu bằng việc: tại núi Long Hổ tỉnh Giang Tây và tại Cự Lộc có mấy người họ Trương như Trương Lỗ, Trương Giốc tự xưng là Đại Hiền Lương sư, theo đạo Hoàng Lão, có tài phù thuỷ đọc chú chữa bệnh vì đã được Nam Hoa Lão Tiên trao cho bộ Thiên thư Thái Bình Yếu thuật. Nông dân vì quá đói khổ nên mê tín Thần Quyền. Bọn Trương Lỗ, Trương Giốc tổ chức hội kín lập đạo thờ Thái Thượng Lão Quân. Nông dân nô nức hùa theo Trương Lỗ, Trương Giốc. Nhờ vậy phong trào Khăn Vàng càng lên vọt. Trương Lỗ, Trương Giốc dựa vào uy thế thần quyền mà tung ra câu sấm “Sương thiên dĩ tử, Hoàng thiên đương lập” (Trời xanh đã chết, trời vàng đang lên) làm khẩu hiệu đấu tranh.
Muốn tìm sự thành công và thất bại của cuộc vận động Hoàng Cân, trước hết phải xét lại xuất xứ của nó.
Căn cứ vào Tam Quốc Chí thì gốc loạn Hoàng Cân khởi tự đạo sĩ Trương Lăng. Trương Lăng người tỉnh Tứ Xuyên, tu đạo ở núi Thước Minh và cũng truyền đạo ngay tại vùng này. Những người muốn đến học đạo của Trương Lăng đều phải làm lễ bằng năm hộc gạo. Trương Lăng chết, truyền nghiệp cho con là Trương Hành, Trương Hành chết truyền cho con là Trương Lỗ.
Căn cứ vào Hậu Hán Thư Linh Đế Ký thì vận động Hoàng Cân khởi tự tên Phù Thuỷ Trương Tu, dùng tà đạo phiến hoặc dân chúng nổi lên cướp Ba quận. Trương Tu thường xưng là: Ngũ Đấu Mễ Sư (ông thầy năm đấu gạo).
Nhưng quan bộ hạ căn cứ theo các thuyết của nhiều sách khác đem so sánh tổng hợp lại thì đều có nói rằng: Trương Lỗ và Trương Tu là quân dưới trướng Ích Châu mục Lưu Yên. Lưu Yên sai Lỗ và Tu vào cướp Hán Trung. Vào Hán Trung rồi Trương Lỗ liền giết Trương Tu rồi cải biến sát nhập lực lượng Trương Tu thành lực lượng của mình. Khi có thanh thế khá vững mạnh, Trương Lỗ ly khai với Lưu Yên, đem quân đánh cả vào vùng Lưu Yên cai trị là U Châu. Do đó mới có chuyện Lưu Yên treo bảng chiêu mộ nghĩa binh tạo ra cơ hội cho gặp gỡ và kết nghĩa vườn đào.
Trong ba người: Trương Giốc, Trương Lỗ và Trương Tu thì Trương Giốc là kẻ nhiều mưu đồ hơn hết. Trương Giốc hy vọng phiến động nhân dân nổi loạn để mà chiếm thiên hạ. Trương Lỗ và Trương Tu trên chính trị hoàn toàn chỉ là một lực lượng phụ trợ chứ không phải là lực lượng chỉ đạo. Căn cứ vào sách Hậu Hán, chuyện Hoàng Phủ Tung thì lực lượng Trương Giốc lan ra khắp các châu bao quát các tỉnh Giang Tô, An Huy, Giang Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc, Sơn Đông, Hà Nam, Hà Bắc bây giờ. Đảng Trương Giốc lên tới mấy chục vạn, chia ra làm 36 phương, mỗi phương ước hơn vạn người.
Về câu sấm “trời xanh đã chết, trời vàng đang lên” người đọc Tam Quốc chí diễn nghĩa thường không để ý vì nghĩ những lời ấy chẳng qua là thuyết của bọn thảo khấu, chẳng nghĩa lý gì cả. Thật ra không phải đơn giản như thế.
Từ Hoàng Cân, hoạn quan đến quân phiệt
Một khẩu hiệu tung ra, muốn làm giao động nhân tâm thì trước hết khẩu hiệu đó có thể giải thích cho mọi người hiểu được. Người xưa còn ưa những điều huyền bí cho nên khẩu hiệu cần lồng vào cái cốt huyền bí, nhưng không phải vì vậy mà người ta bảo rằng đấy là mê hoặc nhân tâm, đấy là một lời nói vu vơ.
Mấy chữ “Sương thiên dĩ tử, hoàng thiên đương lập” chẳng những không mê hoặc mà còn có hàm súc ý nghĩa về sự biến thiên của xã hội trong quan niệm của nông dân lúc bấy giờ nữa. Dưới đây là chứng cớ:
Theo Hán thư thì lúc bắt đầu khởi nghiệp, Hán cao Tổ đang đêm đi đường hốt gặp một con rắn trắng rất lớn nằm chắn ngang đường, bèn rút gươm chém đứt làm hai đoạn. Khi Hán cao Tổ đi rồi, có người trông thấy một bà lão xoã tóc ngồi khóc ngay chỗ con rắn trắng chết. Người kia bèn lại hỏi nguyên do, bà lão đáp: con tôi là con vua Bạch Đế hiện đã bị con vua Xích Đế giết rồi. Nói xong bà lão biến mất.
Những màu sắc trắng, đỏ, vàng, đen, xanh rất quan hệ đối với tâm lý nông dân Trung Quốc. Tại sao? Bởi vì nông dân làm ruộng chỉ trông cậy vào khí hậu bốn mùa biến hoá làm cho cây cỏ sinh ra, lớn lên và chín. Trước biến hoá của tự nhiên, người nông dân tin rằng mỗi mùa đều có một vị thần linh chủ trì. Và mỗi vị thần linh đều ứng theo mỗi màu sắc trong tự nhiên. Do đó người nông dân mới thờ bốn vị thiên đế: Ông Trời Xanh chủ về mùa xuân sinh ra vạn vật cây cỏ. Ông trời Đỏ chủ về mùa hạ làm cho vạn vật lớn lên. Ông trời Trắng chỉ về mùa thu làm cho hoa lợi chín. Ông trời Đen chỉ về mùa đông, nhắc mọi người gặt hái và dự trữ thóc gạo.
Nhưng Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàn hết thẩy đều phải nương tựa vào ruộng đất, bởi vậy mới có vua vàng (đất sắc vàng) để làm chủ ruộng đất tuỳ thời biến hoá.
Từ đấy, lại diễn thành tư tưởng ngũ hành: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Lại từ ngũ hành sinh khắc chế hoá mà giải thích biến thiên xã hội, giải thích phát triển xã hội, giải thích các hiện tượng bình, loạn của xã hội.
“Trời xanh đã chết, trời vàng đang lên” chính là trỏ vào chế độ cường thần đại tộc đã chết và thời đại đại chúng bình dân tham dự chính quyền bắt đầu vậy. Vì màu xanh là mầu dẫn đầu các mầu đỏ, trắng, đen thuộc các hiện tượng trên trời chỉ vào các cường thần đại tộc. Còn màu vàng thuần thuộc về ruộng đất chỉ vào nông dân. Trương Lỗ, Trương Giốc lấy trời vàng để làm tượng trưng cho sức mạnh của nông dân.
Tuy vậy trời vàng bất quá cũng chỉ là tín ngưỡng do bọn Trương Lỗ, Trương Giốc đưa ra để quy tụ những vụ phản kháng lẻ tẻ của nông dân thành một vận động lớn lao mà thôi. Nguyên nhân chính khiến cho nông dân nổi loạn chính là do khuyết điểm của chế độ Hán Triều trên mặt kinh tế ruộng đất. Nhà Tần biến cải phép tỉnh điền thành canh điền và lực điền, vì không chịu nổi sưu cao thuế nặng nên nông dân ùa theo Hạng Võ, Lưu Bang. Lưu Bang thắng lợi liền áp dụng chánh sách giảm nhẹ tô thuế. Nhưng chánh sách này càng làm càng mất công hiệu vì bọn nhà giàu cứ xâm canh chiếm cứ thêm nhiều ruộng đất, trong khi người nghèo lại không có một tấc đất cắm dùi. Oán hận chồng chất lên. Vương Mãng lợi dụng tình thế để đánh đổ nhà Hán thi hành chánh sách ruộng đất mới, đem ruộng đất thâu quy quốc hữu. Chánh sách của Vương Mãng quá đột ngột và mới mẻ, lại không có giáo dục từ trước nên việc thi hành hỗn loạn, khiến đa số nổi lên phản đối. Hơn nữa Vương Mãng không nương cậy thực sự vào nông dân, mà chỉ nhờ thế lực ngoại thích mà tạo cuộc chính biến, bởi vậy mà sự nghiệp chẳng lâu dài được bao nhiêu. Tuy nhiên tư tưởng Vương Mãng không phải không có ảnh hưởng sâu xa vào đám nông dân nghèo khổ. Vận động Hoàng Cân cũng chịu ảnh hưởng của Vương Mãng.
Tính chất huyền bí tu tiên, luyện phép phát triển trong vận động Khăn Vàng chính là sự phản công của đạo Hoàng Lão định dựa vào tế tự phổ thông, dựa vào thần quyền để đả kích tư tưởng Nho đạo. Cuộc tranh chấp ấy chẳng phải chỉ thấy ở loạn Khăn Vàng mà thôi. Trong Tam Quốc chí diễn nghĩa còn thấy hiện tượng tranh chấp đó qua những việc:Tôn Sách giết Vu Cát, Tào Công đuổi Tả Từ, nghi ngờ Quản Lộ
Vận động Hoàng Cân mặc dầu rộng lớn, khí thế mạnh mẽ, nhưng bọn Trương Giốc, Trương Lỗ đã không biết lãnh đạo vận động chuyển vào đấu tranh chính trị; họ nhìn chỉ thấy một mặt thần quyền bùa chú, cho nên mới gặp ít trận nhỏ, Lưu Quan Trương, Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn đã đánh cho tập đoàn Khăn Vàng tan tác. Những phép lạ của bọn họ Trương bị máu chó, máu dê, phân lợn làm cho mất thiêng. Rút cục, chỉ còn độc trụi Trương Lỗ giữ được Hán Trung, sau cùng bị Thục và Nguỵ thôn tính.
Vận động Hoàng Cân cũng như chính biến Vương Mãng đều mắc cùng một lỗi lầm tai hại là: manh tâm “gia thiên hạ” nghĩa là coi thiên hạ làm việc riêng nhà mình, của mấy người lãnh đạo phong trào.
Qua thảm bại của vận động Khăn Vàng, người ta tìm thấy ở tư tưởng Đạo gia những gì? Nếu nó bị rơi vào bọn lưu manh, bọn trí thức thầy bùa, thầy ngải, cá nhân chủ nghĩa, vô chính phủ chủ nghĩa, bê trễ sinh sản, thiếu kỷ luật và thích nhàn chơi với những khẩu ngữ: Tuyệt thánh khí trí, tuyệt nhân khí nghĩa. Tự do. Phóng nhiệm. Trông bề ngoài chúng mang một hình thái đại cách mạng, nhưng bề trong chỉ là một tâm lý làm loạn vô tổ chức, phá hoại vô kiến thiết. Do đó mà không chống lại được với hệ thống tư tưởng quý tộc và chủ đất bấy giờ. Tư tưởng Đạo gia không có khả năng lập thành một thế hệ phương pháp đấu tranh. Cho nên nó không giúp nổi vận động nông dân tạo thành lực lượng vững chắc.
Quân phiệt Đổng Trác
Kể từ đời Đông Hán, các châu mục đều có quyền tăng cường binh lực địa phương. Khi loạn Hoàng cân dấy lên thì những binh quyền địa phương lại càng tha hồ khoáng triển chẳng ai kiểm soát
Sau khi bọn Thập Thường Thị dụ được Hà Tiến vào cung, sai phục binh giết, Viên Thiệu, Tào Tháo theo yểm hộ Hà Tiến bèn thả quân vào hoàng cung đuổi bắt sát hại bọn hoạn quan, triều đình đại loạn. Chính trị hoạn quan tất tạo nên tình trạng nhân tâm giải thể. Nhân tâm giải thể tức là nhân tâm nghĩ đến sự loạn. Để tạm thời chấm dứt loạn lạc đương nhiên một chính quyền vũ lực mới xuất hiện. Chính quyền ấy là chính quyền quân phiệt.
Trước tình hình chưa phân trắng đen, mỗi địa phương ở xa thì cắt đoạn với mệnh lệnh trung ương, ở gần thì lăm le kéo quân về Kinh Đô, mượn tiếng phò giá, nhưng chính là để thừa cơ nắm trọn quyền bính. Trong số đó Đổng Trác được nhiều may mắn hơn hết.
Đổng Trác tên chữ là Trọng Đỉnh xuất thân từ giai cấp địa chủ. Tính tình hào hoa, phóng đạt. Truyện ký có chép rằng: “Lúc Trác ở nơi điền dã thường yến ẩm với bọn hào suý, người Khương, người Hồ. Nhờ bọn hào suý ủng hộ mà khởi giá”. Khi có loạn Hoàng Cân, Đổng Trác được phái đi dẹp loạn, bị thua, sắp bị triều đình trị tội. Trác khôn khéo kết liên với bọn Thập Thường Thị, đút lót, luồn cúi bọn quyền quý. Cho nên chẳng những Trác tránh khỏi tội mà chức vị của Trác còn được thăng lên vùn vụt; từ chức Trung Lang Tướng, Trác nhảy vọt lên chức Tiền Tướng quân Ngao Hương Hầu Tây Lương Thứ Sử, trong tay thống lĩnh hai mươi vạn quân Thái Hoàng Thái hậu lập nên.
Thời cơ khiến cho Trác có dịp tranh cướp chánh quyền khởi tự Hà Tiến muốn dùng quân các trấn tiếp tay giết trừ phe cánh hoạn quan. Nhưng chính quyền vào tay Đổng Trác lại là nhờ thủ đoạn của Trác.
Đọc chuyện Tây Hán, chắc không ai quên bốn chữ mà Khoái Thông xúi Hàn Tín lật Lưu Bang: Tiệp túc tiên đăng (nhanh chân lên trước).
Đổng Trác đã ứng dụng được ý nghĩa nhanh chân của Khoái Thông vào cơ hội mình. Đổng Trác còn xử dụng nguyên tắc nhanh chân một cách linh động nữa là không vội vã. Kéo quân về trước nhất nhưng Trác biết dừng lại đợi cho bọn hoạn quan giết Hà Tiến rồi mới ra tay, chứ Trác không giúp Hà Tiến ngay.
Trước đây, Đổng Trác cũng đã tạo cho mình được một thời gian củng cố và khoáng trương binh lực bằng cách lấy cớ biến loạn Khương Hồ từ chối hai lần triệu hồi của chánh phủ trung ương. Trác cứ đồn trú binh ở ngoài mà ngồi rình cục diện biến đổi, chờ tới giờ phút trái quả chín tới, Trác vào hứng đỡ chẳng phải hao tốn công lao là mấy.
Nhưng ngàn đời đáng tiếc cho Trác, Trác chỉ có thủ đoạn chộp mau và đúng thời cơ, mà Trác lại không có thủ đoạn để bảo vệ thời cơ đã nắm được. Trác chưa từng tham dự chính trị. Cho nên lúc bước vào lãnh vực chính trị, Trác đối đãi chính trị hoàn toàn và tuyệt đối bằng bạo lực. Nắm được chính quyền rồi, Trác đảo lộn toàn bộ cương kỷ một cách vô ích. Vô ích nhất là chính sách phế lập bỏ Thiếu Đế, tôn Hiến Đế. Phế lập không phải để đáp ứng một nhu cầu chính trị nào cả. Phế lập bất quá chỉ là kết quả mối cảm tình riêng của Trác đối với Trần Lưu Vương
Những nguyên nhân thất bại
Tam Quốc Chí diễn nghĩa có nói đoạn: “Xa giá chưa đi được vài dặm, bỗng thấy tinh kỳ rợp đất, bụi bay mù trời, một đoàn binh mã sực kéo tới phía trước, bá quan đều thất sắc, vua cũng sợ hãi. Viên Thiệu vội thúc ngựa ra trước thốt hỏi: “Binh mã của ai đây?” Từ dưới bóng một ngọn cờ thêu rực rỡ, một tướng bên kia thúc ngựa ra lớn tiếng hỏi: “Thiên Tử đâu?” Vua càng sợ không dám lên tiếng. Trần Lưu Vương quất ngựa sấn ra nạt rằng: “Nhà ngươi là ai?” Tướng ấy đáp: “Thứ Sử Tây Lương Đổng Trác đây”. Trần Lưu Vương vặn ngay: “Anh tới đây bảo hộ xa giá hay cướp xa giá?” Trác vội đáp: “Tới để hộ giá”. Vương hạch rằng: “đã tới hộ giá, vậy Thiên tử kia sao anh không xuống ngựa?” Trác lật đật xuống ngựa, khấu đầu bên cạnh đường, miệng tung hô vạn tuế. Trần Lưu Vương lấy lời ngọt ngào phủ uý Đổng Trác. Từ đầu chí cuối lời lẽ đàng hoàng. Trác thầm lấy làm lạ, sinh lòng khâm phục vô cùng. Và ý định phế Đế nọ lập Vương này nảy ra từ đó.
Đoạn trên chứng thực Trác tính chuyện phế lập hoàn toàn vì một chút cảm tình riêng tư. Sự phế lập chính là nhát cuốc đánh bật cái rễ uy tín của Trác đang cần phải ăn sâu xuống nữa, nó biến Đổng Trác từ một kẻ mang sứ mạng dẹp loạn thành một tên đầu sỏ nhiễu loạn. Phế lập đã đem lại cho Đổng Trác một kết quả vô cùng tai hại là việc Trác buộc phải thiên đô từ Lạc Dương về Tràng An. Thiên “xét về cái thế” ông Tô Triệt viết: “Trị thiên hạ, định sở thượng” (Muốn trị thiên hạ, trước hết phải nhận biết thiên hạ ưa chuộng điều gì?). Thời đại của Đổng Trác tư tưởng tôn quân còn rất mạnh, rất phổ biến, Đổng Trác động binh với danh nghĩa phò giá, mà hốt nhiên vô cớ tính chuyện phế lập tất nhiên sẽ bị phản đối kịch liệt. Trước hết là những cá nhân lẻ tẻ như Thứ Sử Kinh châu Đinh Nguyên, Lư Thực, Đinh Quản đứng trên danh nghĩa triều thần phản đối bằng lời nói, rồi đến Ngu Phu và Tào Tháo phản đối bằng cách cho Trác ăn mũi dao sắc, rồi đến phản đối bằng sự khởi binh từ khắp các châu quận kéo về đánh Trác, do Tào Tháo khởi xướng.
Nguyên nhân thất bại thứ hai của Đổng Trác là không ước thúc được binh sĩ, để chúng thả cửa cướp bóc, hãm hiếp, đe doạ đời sống nhân dân; đôi khi chính Trác là thủ phạm nữa. Thí dụ vụ Trác sai binh sĩ bổ vây giết hết đàn ông con trai, bắt hết phụ nữ và lấy hết của cải, đem hơn ngàn đầu người chở về thành, xảy ra tại đám hội tháng hai vùng Dương Thành. Thậm chí Đổng Trác còn thích một lối thị oai phát nguyên tự tâm lý khát máu là ngay giữa đám vui sai mang tù nhân ra xẻo tai, cắt mũi, bỏ vạc dầu.