Trang trong tổng số 100 trang (999 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [97] [98] [99] [100]

Ảnh đại diện

Poet Hansy

39
CHO EM MỘT LẦN YÊU


Cho em về với đôi mắt người xưa
Cùng nghe gió mưa xốn xang bốn mùa qua phố
Nói với em tình yêu không là biển khổ
Dẫu cho dang dở cũng chẳng lỡ hẹn... chờ nhau.

Cho em thêm một lần để được đau
Ta gặp lại nhau trong muộn màng khuya tối
Để những đêm thèm hơi ấm cái ôm đến tội
Em lại được gối đầu, được tựa vào vai anh.

Cho em tự tình một khúc ngày xanh
Ngân nga ngọt lành bên chiếc dương cầm thuở cũ
Để tình yêu em không ngậm ngùi say ngủ
Réo rắt du dương như một bản nhạc buồn.

Cho em một lần bỏ mặc dòng lệ tuôn
Đừng tìm ngọn nguồn trong thẳm sâu nước mắt
Mỗi giọt rơi là một lần tim em se sắt
Lạnh tận đáy lòng, em lại nhớ ngày xưa.

Cho em một lần tìm về với ngày mưa
Bong bóng trưa hè, người đưa tay hứng
Mộng mơ sau này sẽ cùng nhau xây dựng...
Một ngôi nhà với mái ấm chở che.

Cho em một lần lại được lắng nghe
Tiếng yêu rụt rè anh trao chiều gió
Nếu bàn tay ta không vội vàng buông bỏ
Mộng ước bé nhỏ có lẽ đã thành.

Chúng ta bỏ lại ngày xanh...
quên nhau nhanh như chưa từng thương nhớ
Hay anh về đi, nói em nghe câu hẹn thề, nhắc nhở
Cho em trăn trở mà...
yêu thêm một lần.

Thạch Thảo
*
Điệp khúc CHO EM… như chuỗi kinh cầu thê thiết của một linh hồn đang đoạ sa trong địa ngục tình si khẩn khoản van nài níu kéo một tình yêu dường như đà tắt lịm nhưng vẫn cố bướng đầu chưa chịu nhận chân ra cái thực tại bi thương của đoạn cuối khúc tình, để mãi hoài lời thơ THẠCH THẢO cứ van vỉ CHO EM MỘT LẦN YÊU như một đắng cay tuyệt vọng khôn cùng…

Cho em về với đôi mắt người xưa
Cùng nghe gió mưa xốn xang bốn mùa qua phố
Nói với em tình yêu không là biển khổ
Dẫu cho dang dở cũng chẳng lỡ hẹn... chờ nhau.

Cái đứt lìa quá ư đột ngột khiến người trong cuộc ngỡ ngàng sửng sốt, không tin vào cả tai mắt của mình. Mới hôm nào ước hẹn lên ngôi, tình cháy bỏng như ngàn sao thiên giới, mắt và môi hai người trao vội, vẫn mãi hoài mím chặt trong nhau… Nhưng giờ đây không cần là mật ngọt của tình yêu, dẫu trái đắng vẫn là mong ước, miễn là ta vẫn còn lại trong nhau

Cho em thêm một lần để được đau
Ta gặp lại nhau trong muộn màng khuya tối
Để những đêm thèm hơi ấm cái ôm đến tội
Em lại được gối đầu, được tựa vào vai anh.

Bởi đã trao người nguyên vẹn cái tinh khôi của giọt tình ngày hé nụ thì vĩnh viễn muôn đời trong tâm tưởng, nỗi hân hoan và niềm cam chịu đã là định mệnh của đời ta

Tôi chấp nhận trăm lần trong thổn thức
Tôi bàng hoàng hoảng hốt những đêm đêm
Tôi xin chịu cuồng si để sáng suốt
Tôi đui mù cho thoả dạ yêu em
(Bùi Giáng)

Để kỷ niệm mãi hoài là mật ngọt, xoá nhoà đi giọt lệ thương đau, để nguồn xanh luôn rạng rỡ sắc màu, tan chảy cả trời thơ luyến ái… Hãy đánh thức phiên tình ca diệu vợi của hôm nào say vũ khúc tương tư

Cho em tự tình một khúc ngày xanh
Ngân nga ngọt lành bên chiếc dương cầm thuở cũ
Để tình yêu em không ngậm ngùi say ngủ
Réo rắt du dương như một bản nhạc buồn.

Cho em một lần bỏ mặc dòng lệ tuôn
Đừng tìm ngọn nguồn trong thẳm sâu nước mắt
Mỗi giọt rơi là một lần tim em se sắt
Lạnh tận đáy lòng, em lại nhớ ngày xưa.

Mọi hồi tưởng hãy biến thành hiện thực, ngó qua màn sương quá vãng mà như là hiển hiện trước mắt mình. Để môi cười mắt rạng yêu thương, cho nhung nhớ ngập tràn cung hạnh ngộ…

Thoáng hiện em về trong đáy cốc
Nói cười như chuyện một đêm mơ
(Quang Dũng)

Mà sao đành buông bỏ cả thế người ơi khi cả một thế giới tình yêu mặn nồng và bao la đến vậy! Ta đã cùng nhau bao lần xây lâu đài tình ái, đã quyết thề tay trong tay đi đến khúc khải hoàn ca, mà sao giờ ngoảnh mặt quay lưng cho kỷ niệm thẹn thùng gương lược? Có phải vì định mệnh trái ngang hay bởi tình người dễ thay lòng đổi dạ, chập chờn hoài trong ảo ảnh mù xa, tham lam đứng núi này trông núi nọ, để dửng dưng lạnh lùng quay gót thản nhiên hát khúc tình phụ muôn thuở của lòng người?

Cho em một lần tìm về với ngày mưa
Bong bóng trưa hè, người đưa tay hứng
Mộng mơ sau này sẽ cùng nhau xây dựng...
Một ngôi nhà với mái ấm chở che.

Cho em một lần lại được lắng nghe
Tiếng yêu rụt rè anh trao chiều gió
Nếu bàn tay ta không vội vàng buông bỏ
Mộng ước bé nhỏ có lẽ đã thành.

Không! Chỉ có người là mê mải giữa huyễn hoặc đổi thay còn riêng ta vẫn sắt son gừng cay muối mặn, vẫn đợi chờ sau cơn mưa sẽ được thấy lại bảy sắc cầu vồng

Chúng ta bỏ lại ngày xanh...
quên nhau nhanh như chưa từng thương nhớ
Hay anh về đi, nói em nghe câu hẹn thề, nhắc nhở
Cho em trăn trở mà...
yêu thêm một lần.

Người à! Người có nghe chăng???

HANSY
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

40
BẮT ĐẦU TỪ NHỮNG CON CHỮ


Người bạn trẻ hỏi tôi: Làm thế nào để trở thành nhà văn? Nghề văn bắt đầu từ đâu? Tôi đáp: Từ sự yêu thích. Người bạn trẻ bảo: Tôi yêu thích. Tôi lại nói: Thế thì bắt đầu từ năng khiếu. Người bạn trẻ lại bảo: Tôi có năng khiếu. Ồ, nếu cái gì bạn cũng có rồi thì có lẽ nghề văn bắt đầu từ… chữ.
1.
Có lẽ không có nghề nào trên đời này mà công cụ lao động lại đơn giản như nghề văn. Trong khi anh thợ mộc phải sắm cưa, bào, đục; anh thợ may thì sắm máy may, thì nhà văn chỉ cần một cây viết và một xấp giấy đã có thể ung dung hành nghề. Tất nhiên, sang hơn nữa thì xài computer, nhưng nếu không có những máy móc cồng kềnh đó, giấy và viết kể như đã đủ. Cũng như nếu không có xe gắn máy hay ôtô, con người vẫn có thể đi lại bằng chiếc xe đạp cà tàng. Xem ra, yêu cầu về công cụ của nghề văn còn thấp hơn những nghề lao động bình dân như đánh giày hay sửa xe đạp.

Nguyên liệu của nghề văn còn đơn giản hơn nữa. Thợ mộc cần gỗ, thợ may cần vải, thợ hồ cần xi măng, còn nhà văn chỉ cần… chữ. Mà chữ là thứ nguyên liệu chẳng bỏ tiền ra mua. Chữ lềnh khênh trong các cuốn sách, ngổn ngang trên các trang báo. Chữ lấp lánh trên các trang web, thậm chí trên trên các bảng hiệu dọc phố, cả trên những cột điện hay những gốc cây. Thư la rầy của cha mẹ, thư đòi nợ của ngân hàng, thư đòi chia tay của người yêu cũng là nguồn cung cấp nguyên liệu đối với nhà văn. Vì trong đó có chữ.

Tiếng nói là chữ được phát thành âm thanh; nghe thiên hạ trò chuyện, cãi vã hay mắng nhiếc nhau cũng là cơ hội để nhà văn thu thập nguyên liệu.

Vậy nguyên liệu của nghề văn ở khắp mọi nơi. Và hoàn toàn miễn phí, nếu cuốn sách ta đọc là mượn của bạn bè hay của thư viện, tờ báo ta đang xem là của ông hàng xóm hay trên giá báo của cơ quan.
2.
Nhà văn tất nhiên phải giỏi dùng chữ. Vì yêu cầu đầu tiên trong thao tác chữ nghĩa của nghề văn là phải chính xác. Giống như đường kim của thợ may hay viên gạch của thợ hồ, đặt lệch một ít có khi đi lệch hơn một dặm. Ví dụ đơn giản nhất, nhà văn phải dùng một cách phân biệt từ thánh thót khi nói về tiếng dướng cầm và từ réo rắtmô tả tiếng vĩ cầm. Cũng như vậy, bập bùng để chỉ tiếng đàn ghita và véo von dành cho tiếng tiêu, tiếng sáo… Đều là nhạc cụ, nhưng sắc thái âm thanh của từng loại khác nhau rõ rệt. Cũng như sự khác nhau giữa tiếng ăng ẳng của chó, tiếng quang quác của gà và ủn ỉn của lợn mà chúng ta nghe thấy hàng ngày.

Muốn vậy phải có nhiều chữ để dùng. Giàu chữ, đó là lời khen với một người làm nghề văn.
3.
Làm sao biết mình có giàu chữ hay không? Thiết tưởng để biết điều này cũng không khó lắm. Đọc hàng trăm cuốn sách, đọc hàng ngàn tờ báo, thấy chỗ nào cũng hiểu, chữ nào cũng biết, hiển nhiên bạn là người giàu chữ. Tất nhiên, có thể bạn sẽ gặp một vài khó khăn khi gặp những thuật ngữ chuyên môn về tôn giáo, triết học, y học hay khoa học kỹ thuật, nhưng các từ điển chuyên ngành sẽ giúp bạn tra cứu và qua đó, bổ sung thêm nguyên liệu cho nghề của bạn. Như vậy, muốn giàu chữ phải đọc nhiều, phải siêng đọc.

Nhưng người biết kiếm tiền chưa hẳn là người biết cách xài tiền. Nghề văn cũng vậy, kiếm chữ thì dễ mà dùng chữ mới thiệt là khó. Khó ở chỗ bạn biết chắc bạn có rất nhiều chữ trong bộ nhớ nhưng đến khi cần dùng thì tìm hoài không ra, không biết nó nằm ở ngóc ngách nào trong đầu bạn. Hệt như khi cần mua đồ mà bỗng nhiên bạn lại không tìm thấy ví tiền trong túi, thiệt là éo le!

Chữ nghĩa trong đầu xét cho cùng cũng na ná như áo quần trong rương hay trong tủ. Nếu bạn lười, bạn sẽ chỉ mặc đi mặc lại vài bộ xếp ở trên, treo ở ngoài, trong khi ở dưới đáy rương hay trong góc tủ, nếu bạn chịu khó lục lọi, bạn sẽ thấy có những chiếc quần, chiếc áo đẹp đến mức bạn phải sửng sờ. Bạn sẽ trố mắt ngạc nhiên: Chiếc áo đẹp thế này sao lâu nay ta không lấy ra mặc nhỉ!

Chữ cũng vậy. Thông thường con người có thói quen dùng những chữ mà thường ngày mình vẫn dùng. Những chữ quen thuộc đó có cái tiện là khi bạn cần, chúng hiện ra ngay, thậm chí không cần bạn kêu gọi, thúc giục hay năn nỉ. Những chữ đó được gọi là những từ ngữ thông dụng. Các loại sách ngoại ngữ loại 1.000 từ - 2.000 từ được xây dừng trên những từ loại này. Trong trường hợp này, khá phổ biến, đã chỉ ra rằng trong thực tế bạn chỉ dùng 1/10, thậm chí 1/100 hay 1/1.000 số vốn từ mà bạn có, hoàn toàn lãng phí. Giống như bạn đang sở hữu 1 triệu đồng mà khả năng sử dụng trên thực tế chỉ có một vài ngàn đồng. Trong tư cách nhà văn, chính sự lười nghĩ đã niêm phong tài khoản từ ngữ của bạn khiến bạn không thể huy động tối đa vốn liếng của mình.
4.
Dĩ nhiên sẽ quá khắt khe nếu yêu cầu bạn phải nghĩ ngay ra con chữ thích hợp hoặc cần thiết phục vụ cho sự hành văn của bạn. Điều đó đòi hỏi một trí nhớ, đặc biệt là một sức liên tưởng mạnh mẽ và phong phú. Bản thân tôi mà nhà văn, đã viết nhiều sách, nhưng không phải lúc nào tôi cũng tìm thấy những con chữ như ý muốn. Tôi không biết các nhà văn khác làm như thế nào, riêng tôi, tôi khắc phục bằng cách ghi chép. Khi bắt gặp ở đâu đó một từ hay hay mà tôi chưa biết, hoặc một từ đã biết mà ít khi dùng, tôi đều ghi lại và tìm mọi cách để đưa nó vào trang văn của mình. Thỉnh thoảng tôi cũng hay lật từ điển, không phải để tra mà để xem, lang thang trong đó hàng giờ, giống như các bà nội trợ vẫn hay đi xem (chứ không phải mua) hàng hoá ở các siêu thị lộng lẫy và đồ sộ.

Từ điển là một cuốn sách tập hợp một lượng từ ngữ khổng lồ, vào đó như một kho tàng. Bạn sẽ tìm thấy trong đó những từ ngữ quen thuộc, những từ ngữ ít dùng, thậm chí những từ lạ lẫm đến nỗi bạn tin chắc là bạn chưa gặp qua bao giờ. Gấp cuốn từ điển lại, giống như các bà nội trợ ra khỏi siêu thị, bạn sẽ thu hoạch được nhiều thứ. Bạn nhớ lại được nhiều từ mà bạn đã quên từ lâu, học thêm những từ mới, hay nghĩa mới của một từ cũ, và dĩ nhiên là bạn sẽ nghĩ ra cách dùng những từ đó, mặc dù có thể không phải ngay hôm nay hay ngày mai. Các bà nội trợ cũng thế thôi, họ ngắm nghía hàng giờ trong siêu thị rồi đi ra tay không, nhưng những món hàng hấp dẫn, thậm chí cả giá cả lẫn vị trí của chúng, đã khắc sâu trong tâm trí họ. Một lúc nào đó, cần tới, họ sẽ tìm ngay được cái họ cần.

Nói tóm lại, đó là một cách rèn luyện tri óc, một kiểu thể dục tinh thần, và theo tôi là vô cùng quan trọng với những ai có ý định hành nghề bằng những con chữ.
5.
Nhưng chữ chỉ là chữ, nếu không có nghĩa. Chữ luynh và nguynh rõ ràng vẫn là chữ, nhưng nó không có nghĩa. Nó chỉ là một ký hiệu không chứa thông tin nào, hoặc nói dè dặt là không chứa thông tin nào rõ rệt. Chữ là phương tiện để giao tiếp, diễn đạt, nên buộc phải có nghĩa. Chúng ta vẫn nghe nói chữ nghĩa đó thôi.

Chữ chứa nghĩa như con thuyền chứa món đồ mà nó chuyên chở. Nó không phải là con thuyền rỗng không. Từ đó bạn có thể tự suy ra, tuy chữ là nguyên liệu của nhà văn nhưng chỉ ở khía cạnh hình thức. Nguyên liệu thực sự là cái những con chữ chuyên chở, tức là nghĩa. Nói khác đi là những ý tưởng.

NGUYỄN NHẬT ÁNH
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

41
CÒN TIẾNG GỌI


Anh đi rồi thời gian dài đăng đẳng
Khoảnh khắc buồn sâu lắng chạm vào đêm
Tàn cơn mưa còn quanh quẩn nỗi niềm
Trong ngõ hẹp con tim chừng mệt mỏi

Chiều đã tắt dòng đời buông quá vội
Ai đi rồi, lòng vẫn đợi chờ nhau
Nghe lẻ loi tiếc nuối dõi chuyến tàu
Đưa định mệnh vùi sâu về dĩ vãng

Quay mặt rồi bóng chiều nghiêng chạng vạng
Đổ khối sầu lai láng tím hoàng hôn
Đường thênh thang thương nhớ luống chập chờn
Mà môi mắt ghen hờn đêm tiễn biệt

Vẫn thầm gọi tình yêu trong tha thiết
Đêm xuống dần ai biết một mình thôi
Tàu đã xa, cơn mưa cũng tạnh rồi
Sao vẫn mãi trên môi còn tiếng gọi...

Mỹ Phương
*
Tiếng còi tàu – Sân ga đẫm mưa – Nỗi lòng chênh chao giữa hai bờ thương nhớ, dỗi hờn… trong một chiều tiễn biệt khiến TIẾNG GỌI tromg những dòng thơ của MỸ PHƯƠNG như xé toang cõi lòng đơn chiếc, vẽ lên một bức tranh buồn thảm lóng lánh sầu thương diệu vợi, u uất, rệu rã và não nề…

Anh đi rồi thời gian dài đăng đẳng
Khoảnh khắc buồn sâu lắng chạm vào đêm
Tàn cơn mưa còn quanh quẩn nỗi niềm
Trong ngõ hẹp con tim chừng mệt mỏi

Người đi mang theo cả nguồn sống của một trái tim đang ngồn ngộn yêu thương. Nghe chừng như rã rời khi lê bước trở về khung trời kỷ niệm, đối diện với hoang vu, lạnh lẽo mà thấy lẻ loi, băng giá, tàn hoang… đến buốt rợn, tê cóng cả tâm hồn. Còn chi đâu mà thiết tha, mong ngóng; còn chi đâu mà náo nức, đợi chờ; khi người đi không nói ngày trở lại, khi con tàu cứ xuôi mãi một chiều trên dòng đời vô định mù xa…

Chiều đã tắt dòng đời buông quá vội
Ai đi rồi, lòng vẫn đợi chờ nhau
Nghe lẻ loi tiếc nuối dõi chuyến tàu
Đưa định mệnh vùi sâu về dĩ vãng

Chiều đã tắt hay lòng người đã tắt, khi ánh nến rỡ ràng yêu thương thuở nao đang chập chờn hấp hối trong một chiều ly biệt? Cái giây phút chia tay cứ như là không phải thực, nhưng lại rất thực này khiến xé nát lòng người ra nghìn mảnh. Ôi, thật là hãi hùng làm sao khi bắt đầu kể từ đây sẽ là những tháng ngày đan xen giữa hy vọng và thất vọng của lắm buổi héo hắt đợi chờ, khiến tâm hồn biến thành một bãi chiến trường khốc liệt giữa nhớ nhung và hờn dỗi, giữa giận và thương… gặm nát con tim mù loà, đau thương, mỏi mòn và tội nghiệp!

Quay mặt rồi bóng chiều nghiêng chạng vạng
Đổ khối sầu lai láng tím hoàng hôn
Đường thênh thang thương nhớ luống chập chờn
Mà môi mắt ghen hờn đêm tiễn biệt

Dẫu là thế! Dẫu cho dòng đời nhiều nghiệt ngã, bất công với tâm hồn; dẫu người đi là đi mãi không hẹn ngày trở lại, dẫu sân ga lạnh lùng chiều tiễn biệt và con tàu vô tình đến tàn nhẫn cướp mang đi khối yêu thương mà ta hằng ủ ấp, quý trọng, nâng niu… về nơi chốn mịt mù thăm thẳm… dẫu những giọt nước mắt trời mặn chát lùa chan xối xả vào lòng người ở lại trong nỗi niềm đơn côi, buốt lạnh… thì vẫn xin một chút tình còn sót lại trong vành tim kỷ niệm thắp sáng mãi ngọn lửa yêu thương vĩnh cửu trong lòng…

Vẫn thầm gọi tình yêu trong tha thiết
Đêm xuống dần ai biết một mình thôi

Và xin mãi được gọi thầm tên ai trong gió…

Tàu đã xa, cơn mưa cũng tạnh rồi
Sao vẫn mãi trên môi còn tiếng gọi...

HANSY
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

42
MÙA XUÂN MONG


Người đi rồi – còn đâu vòng nguyệt quế
Nắng lụa vàng trôi theo nhớ thương ai?
Chiều lênh lang – ta cõng mộng đi hoài
Lưới cứ bủa mà tình không phải thế!

Ôi mùa xuân sao chim bay mau thế
Khi yêu người cứ tưởng núi kề sông
Ta đâu biết núi vẫn đời hoài vọng
Sông cứ buồn xuôi những chuyến tình không…

Ta đâu biết lần cầm tay để mất
Môi vừa hôn là khách lạ nhau rồi
Tóc quấn quýt cho hồn thêm đắm đuối
Để khi về nghĩ chuyện trăng vơi…

Bây giờ lỡ, người về phương hướng khác
Chuyện ngày xưa là giọt sương tan
Chiều mơ phai cuối trời ta đứng lại
Chợt thương mình còn nửa trái tim mong…

TRẦN DZẠ LỮ
*****************
*
Mùa Xuân – thường được ví cùng với sự khởi đầu của hy vọng sáng tươi, lung linh và đầy hứa hẹn. Có những mùa Xuân của đất trời và cả những mùa Xuân của lòng người. Mà Xuân thì thường luôn ắp đầy mơ ước, xôn xao…
Thế còn MÙA XUÂN của TRẦN DZẠ LỮ thì nhà thơ MONG gì trong đó?

Người đi rồi – còn đâu vòng nguyệt quế
Nắng lụa vàng trôi theo nhớ thương ai?

Ôi, cánh cửa mở vào bài thơ sao mà da diết và nặng lòng đến thế. Những âm ba rên xiết, đớn đau của hoài vọng cứa nát tâm hồn của kẻ tình si, lạc lõng giữa góc đời chung thuỷ nhỏ nhoi, hiếm hoi và tội nghiệp.

Chiều lênh lang – ta cõng mộng đi hoài
Lưới cứ bủa mà tình không phải thế!

Tất cả đã mù xa vào cuối trời hư ảo! Hết thật rồi những hương lửa của tình thơ! Nào còn đâu những sớm những trưa, những đan dệt của lâu đài tình ái. Nào còn đâu dấu xưa nhung lụa, của đài trang trong rạng rỡ men tình. Tỉnh cuộc mộng du quạng quờ tìm ngai bệ. Nguyệt quế ơi, sao nỡ biến thành gai nhọn xước tim này…

Ôi mùa xuân sao chim bay mau thế
Khi yêu người cứ tưởng núi kề sông
Ta đâu biết núi vẫn đời hoài vọng
Sông cứ buồn xuôi những chuyến tình không…

Dẫu đã cố hết sức để gắng đưa chữ – XUÂN – vào bài thơ cho đỡ tủi cái nhan đề, nhưng có lẽ lực bất tòng tâm, nên vẫn không vực dậy được những khắc khoải thương đau trong nghẹn ngào nuối tiếc đã phủ tang buồn lên cả hồn thơ. Bởi những cái “tưởng” ngày nao giờ tan chảy lẹ làng như những hạt cát nhanh chóng luồn qua kẻ tay mà biến chìm trong huyễn ảo. Núi–Sông vẫn còn đó bên nhau nhưng chỉ là hình hài mường tượng trong tâm tưởng của kẻ chung tình, chứ dạ sông đã xuôi về biển cả nảo nào nao…
Ôi! Đồng sàng dị mộng mất rồi!

Ta đâu biết lần cầm tay để mất
Môi vừa hôn là khách lạ nhau rồi
Tóc quấn quýt cho hồn thêm đắm đuối
Để khi về nghĩ chuyện trăng vơi…

Tình yêu làm con tim mù loà, ngớ ngẩn, chẳng biết đâu là thực giả giữa giông đời. Vừa trao thề đã chớm rạn chia ly, môi chưa xiết đã nghe mùi gian dối. Điệp khúc mùa thương chen lầm vài phỉnh nịnh, để ngỡ ngàng khi chợt lặng giữa trời hoang…

Bây giờ lỡ, người về phương hướng khác
Chuyện ngày xưa là giọt sương tan
Chiều mơ phai cuối trời ta đứng lại

Cũng đành thôi, gác lại những mơ màng. Vòng nguyệt quế trở thành ngàn kẽm gai bén nhọn giết hồn đau trong nuối tiếc vô bờ. Mộng lớn quá làm sao mang vác mãi được. Thôi thì thôi, sức kiệt lực tàn. Trở giấc liêu trai bàng hoàng tỉnh thức. Rệu rã tâm hồn, mục nát tim gan, gục xuống bên đời trong niềm đớn lạnh. Nhưng đốm lửa tình kia vẫn bướng đầu sót lại, cố loe lên chút nắng cuối cùng tội nghiệp:

Chợt thương mình còn nửa trái tim mong…

HANSY
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

43
Ý TƯỞNG


… Tôi ngẫm ra rằng. muốn có ý tưởng, trước hết phải biết cách kiếm tìm. Phải đam mê, phải khao khát, phải bị cuộc đời thúc giục.
1.
Sau mấy chục năm đèn sách, bài học đầu tiên tôi có được chính là điều “đơn giản” nhất trên thế gian này: Đọc.

Đọc không ngừng nghỉ, đọc trước giấc ngủ; đọc cả khi các bộ phận khác của cơ thể làm việc còn cái đầu thì chẳng có việc gì để làm… Tóm lại, đó là một quy trình tất yếu của việc tích luỹ kiến thức. Chừng nào việc đọc thật sự trở thành một phần không thể thiếu của cuộc đời, chừng đó mới có thể có được cái ta vẫn gọi là ý tưởng.

Việc đọc nhiều đem đến biết bao điều lợi. Trước hết, nó giống như mảnh đất được người làm vườn dày công chăm sóc, dù một ngày chỉ một ít, nhưng mảnh đất ấy rồi sẽ màu mỡ hơn!

Nói cách khác, đây cũng là cách chuẩn bị cho một mầm cây mới là ý tưởng sẽ trở nên xanh tốt. Điều tiếp theo là nhờ đọc mà ta biết được những gì người trước đã làm, đã viết. Nếu không, đôi khi ta vô tình trở thành một kẻ đạo văn “chân thành”! Chân thành trong trường hợp này chẳng khác gì ta tự gọi mình là một kẻ dại khờ. Thứ ba, những gì chúng ta đọc và hiểu chẳng khác chi một tập mờ như các nhà toán học vẫn gọi, hay giống câu chuyện con trâu để trước cái cày.

Tóm lại, chúng là những mảnh rời rạc trong khi bài viết nào cũng đòi hỏi nguyên tắc tối thiểu là phải biết cách để xâu chuỗi, liên kết những mảnh rời rạc đó.

Ý tưởng hay vấn đề mà người viết muốn diễn đạt phải đúng và phải khác so với những gì từng được diễn giải. (Rất nhiều bài viết của tôi – thậm chí là những bài tôi tâm đắc – không một nơi nào đăng (?) Mãi sau này tôi mới hiểu ra rằng, cái mà tôi nghĩ là ý tưởng thật ra đã cũ và sáo lắm rồi!).
2.
Ý tưởng đôi khi như một “coup de foudre” – “tình yêu sét đánh”. Nó đến bất ngờ và nghẹn tắc tới từng hơi thở. Ta ngỡ giống như Chúa ở trên cao thương xót kẻ bần cùng. Ta như con kiến vàng bơi lỏng chỏng trong mưa lũ giăng giăng mà ý tưởng là cọng cỏ khô ta bám được tình cờ.

Nhưng quả thực rất nhiều khi ý tưởng giống với cuộc tình vô vọng, càng kiếm tìm càng lẫn khuất mù xa. Có những ngày tôi chỉ biết thở dài bất lực vì không biết viết từ đâu và viết về cái gì.

Tôi đi gặp bạn bè để giãi bày. Thì ra ý tưởng có thể có sau vài ly rượu nồng. Một cuộc hàn huyên của những cái đầu là vô giá. Miễn ở đó có sự cởi mở, chân tình. Ta nói không cần phải đắn đo, và người nghe cũng chẳng hề chấp nhất. Ý tưởng nằm ở đường chân trời. Trong trường hợp này, nó giống với tia nắng cuối cùng vụt sáng và ta phải thấy trước khi nó vụt tắt.
3.
Ý tường là gì?
Câu hỏi khó nhất trong những câu hỏi xung quanh ta mỗi ngày. Nó có thể chỉ là một vệt sáng lập loè của đom đóm; tắt rồi hiện, đều đều. Đó là cái ta cần mà không thể nắm bắt được. Hay nói chính xác hơn, ta chưa có đủ chiếc vợt kiến thức để bắt con đom đóm ấy.

Thi thoảng, ý tưởng thật giống một đám mây. Ta thấy nó rõ ràng nhưng chỉ trong khoảnh khắc sẽ lướt nhanh qua. Khi nó trôi qua, đã thay hình, đổi dạng mất rồi.

Có những khi, ý tưởng đến và nằm lỳ trong góc tối của tri thức. Mọi cách làm cho nó tỉnh giấc chỉ là vô vọng. Đó là khi ta cố tình không hiểu rằng, cái nền hiểu biết chưa đủ để gọi dậy cả một khoảng tối mịt mùng. Ánh lửa của một que diêm làm sao có thể đẩy lùi khoảng vắng của đêm đen?
4.
Ý tưởng luôn là người bạn đường khó tính. Điều ta tận nghĩ hôm nay rất có thể sẽ trở thành điều cạn nghĩ của ngày mai. Không chỉ có một người trăn trở mà có hàng triệu người không ngừng nghĩ suy, trang trải qua từng con chữ. Và trong số đó, ta luôn là một trong những kẻ đứng sau cùng.

Quy tắc này là điều sẽ làm nên sự tốt đẹp của cuộc sống và hiểu biết. Chính vì thế, để ý tưởng trở thành một điểm sáng dễ đồng thuận, rất cần sự khác. “Sự khác” cũng giống như ánh mặt trời trong cơn mưa: có thì vẫn có nhưng hiếm hoi và khó hiểu lắm. Ranh giới giữa cái đúng thì không mới; cái mới thì không đúng – như cách nói của GS Hà Văn Tấn trong những năm bảy mươi của thế kỷ hai mươi – cho đến tận bây giờ vẫn còn khó hiểu. Cái đúng-mới nào mà chẳng khó hiểu? Nên nếu có ai đó nhận nhìn nó sai là chuyện muôn đời. Tất nhiên, cái đúng-cũ mãi mãi là kẻ thù của ý tưởng.
***
Một nhà văn Pháp nói rằng, ý tưởng là một món hàng cực kỳ dễ hỏng, nếu không kịp dùng ngay, nó sẽ hư nát tức thì.

Tôi nghĩ đầy là một câu nói hay và thật đúng. Đã không ít lần tôi nghĩ ra một cái gì đó, nhưng vì lười biếng lại tự hẹn với lòng là để đến mai. Nhưng cái ngày mai ấy không bao giờ trở lại nữa (!). Nếu có một ý tưởng hay, hãy học cách của chim đại bàng, cắm thẳng đầu xuống, cho dẫu khoảng không ta lao đến vẫn là một cõi mù mờ, cho dẫu “con mồi” đang nhảy nhót trên mặt đất – cuộc đời đầy trắc trở…

TÔ VĨNH HÀ
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

44
CHO EM TỰA VÀO ANH

Cho em tựa vào anh khi bão tố
Giữa cuộc đời sóng gió ngút ngàn xa
Biển cả xô dào dạt khúc tình ca
Lại có lúc vỡ oà muôn bọt bể

Cuộc sống tưởng nhiều khi vẫn thế
Nhưng sóng ngầm chia rẽ sẵn chực chờ
Một phút lơi sẽ ập đến bất ngờ
Thuyền nghiêng ngả xa bờ theo số phận.

Cho em tựa vào anh khi nóng giận
Lửa sẽ tan nắng ấm lại tràn về
Cho cuộc đời cháy bỏng nỗi đam mê
Lại đây em vỗ về an ủi nhé!

Đã lớn rồi sao còn như cậu bé
Ngả vào đây chia sẻ những nỗi niềm
Ai cũng vậy, đều có khoảng trời riêng
Là những điều thiêng liêng hơn tất cả

Cho em tựa vào anh khi vấp ngã
Gượng đứng lên chống trả giữa dòng đời
Có nhiều khi chẳng nói hết bằng lời
Cần yêu thương để vơi đi sầu muộn

Cho em tựa vào anh khi lạc hướng
Cho em tựa vào anh như ước muốn
Cho em tựa vào anh…
Bởi anh là hạnh phúc cuộc đời em.

Minh Hiền
*********
*
Tình yêu muôn đời là những khúc tình ca thủ thỉ. Thủ thì với mình và thủ thỉ với tha nhân. Thật đẹp đẽ và nao lòng làm sao khi người tình cất lên những giai điệu ngọt ngào lúc nép vào lòng ta van nài niềm che chở… Hoá ra muôn đời – dẫu là có làm nên những chiến công hiển hách, những sự nghiệp kỳ tài… – thì đoá hồng yêu thương kia vẫn mãi là “phái yếu” giữa giông bão của tâm tình. Đó cũng là những gì mà thi sỹ MINH HIỀN muốn gởi gắm đến người yêu thơ qua tình khúc CHO EM TỰA VÀO ANH…

Cho em tựa vào anh khi bão tố
Giữa cuộc đời sóng gió ngút ngàn xa
Biển cả xô dào dạt khúc tình ca
Lại có lúc vỡ oà muôn bọt bể

Cuộc đời là một biển mê hoặc đầy rủi ro và bất trắc, mà ngay đến những kẻ mạnh mẽ nhất có lúc cũng phải lả tay chèo khi đối diện với thách thức vô bờ. Và tình trường là rốn bão của tâm hồn. Chỉ một loáng sơ sểnh là nó sẽ cuốn ta đi, trôi mãi về phương trời vô định, chẳng thể nào cưỡng lại… Thì cho em tựa vào vai người nhé, để một thoáng hương lòng kịp sưởỉ ấm phút trầm bi.

Cuộc sống tưởng nhiều khi vẫn thế
Nhưng sóng ngầm chia rẽ sẵn chực chờ
Một phút lơi sẽ ập đến bất ngờ
Thuyền nghiêng ngả xa bờ theo số phận.

Mặt hồ phẳng lặng nào ai dám đoan chắc phía đáy vẫn ngủ yên? Nắng đang đẹp, mây bỗng ùn, trời xanh xám rồi những giọt nước mắt mùa Ngâu chợt về làm tái tê tâm trạng. Mưa gió là việc của trời mà trời còn không giữ trọn để trái đất được mãi mãi mùa xuân, thì với những hạt cát li ti như chúng ta trong vũ trụ bao la này, thể nào không có lúc bị những bất ngờ khách quan lẫn chủ quan gây ra tổn thương, đổ vỡ?

Cho em tựa vào anh khi nóng giận
Lửa sẽ tan nắng ấm lại tràn về

Mà lòng người lại đa đoan, phức tạp hơn cả đất trời. Mới mật ngọt của ong rừng chan chứa mộng, quặt rất nhanh xuống chất đắng của mật người, đến nỗi ta choáng váng – thậm chí tê liệt đi – tâm hồn khi đối diện với tốc độ thay đổi siêu thanh của lòng người. Mà lại là lòng của người ta hằng yêu quý mới đau đớn xiêt bao!

Cho cuộc đời cháy bỏng nỗi đam mê
Lại đây em vỗ về an ủi nhé!

Nhưng rồi với những mặc định khoan dung, nhân hậu của tạo hoá ban cho người phụ nữ giúp nàng biến đau thương thành nước Cam lồ tưới xuống an ủi một mãnh thú đang gầm thét trong bi thương, uất nghẹn… Như một người mẹ hiền đang ôm ấp vỗ về và dỗ dành đứa con bất trị đầy hư hỏng của mình…

Đã lớn rồi sao còn như cậu bé
Ngả vào đây chia sẻ những nỗi niềm
Ai cũng vậy, đều có khoảng trời riêng
Là những điều thiêng liêng hơn tất cả

Và khi trái tim yêu của lòng dần lấy lại thăng bằng, ta nhanh chóng trở về làm thân sậy yếu ớt và mỏng manh, để được nép vào bóng tùng cao ngất nghễu, hít thở hơi ấm chở che của đấng trượng phu.

Bởi đã xác định muôn đời trong tâm thức, rằng chỉ xin được làm chiếc bóng đi bên cạnh cuộc đời người, được yêu thương, chở che và ngóng đợi…

Cho em tựa vào anh khi vấp ngã
Gượng đứng lên chống trả giữa dòng đời
Có nhiều khi chẳng nói hết bằng lời
Cần yêu thương để vơi đi sầu muộn

Và bởi người là tất cả của đời ta:

Cho em tựa vào anh khi lạc hướng
Cho em tựa vào anh như ước muốn
Cho em tựa vào anh…
Bởi anh là hạnh phúc cuộc đời em.

Bằng điệp khúc Cho em tựa vào anh… Minh Hiền đã rót vào lòng người những lời ca êm đềm đầy mật ngọt của vàng son tình tự, khiến lòng kẻ hùng anh bỗng tan chảy đi trong mê hoảng của chênh chao vũ khúc nghê thường…

HANSY
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

45
THÁNG BA


Tháng ba mùa hạ sớm
Bút bi tím làm thơ
Sợi buồn nghiêng lấp lánh
Trang giấy bỗng thẩn thờ.

Tháng ba tròn giọt nhớ
Rơi miền ký ức xưa
Một chiều qua lối đó
Áo em mờ trong mưa.

Tháng ba mùa xuân vọng
Vỡ tiếng cười pha lê
Tung tăng đàn bướm trắng
Ngơ ngác bước ai về.

Tháng ba một người khóc
Bóng thầy giờ nơi đâu
Con đò xưa khuất núi
Hun hút dòng sông sâu.

Em về tìm tháng ba
Hái màu hoa điệp cũ
Con ve sầu còn ngủ
Chợt thức nhớ mùa xa…

THANH TRẮC NGUYỄN VĂN
(Cỏ Hoa Thì Thầm – NXB Thanh Niên-2002)
**************************************************
*
Mỗi một kết thúc đã hàm chứa sẵn trong đó một sự bắt đầu, như biểu thị của một vòng tròn nhân duyên bất tận của đất trời, cũng như của lòng người; như hạt giống chết đi không phải bị tan mất vào cõi hư vô, mà là để hoài thai chuẩn bị cho ra đời một chùm hạt mới, theo quy trình mặc định nối giống muôn đời...

Cuối Xuân – Đầu Hạ.
Cái nhịp vang vang của thiên nhiên muôn thuở nhẹ nhè đập vào cảm xúc của thi nhân, để bật ra biết mấy vần thơ THÁNG BA mướt mải – trong tâm hồn thi sỹ THANH TRẮC NGUYỄN VĂN – những rung động tiềm tàng, sâu kín mà khoẻ khoắn, mạnh mẽ, chao chòng... như những nốt nhạc diệu kỳ lả lướt trong nắng mới tinh khôi, vàng rộm...

Tháng ba mùa hạ sớm
Bút bi tím làm thơ
Sợi buồn nghiêng lấp lánh
Trang giấy bỗng thẩn thờ.

Nắng Hạ về sớm nên quyện lẫn với hương sắc còn sót lại ít nhiều của hồn Xuân phả nồng đượm lên trang giấy của lòng, với những điểm xuyết hạt tím li ti của huyền mơ và lãng mạn, khiến nguồn thơ chùng xuống, trầm bổng trong tiếng đồng vọng xa xăm, mê ảo của miền nhớ lượn về.

Tháng ba tròn giọt nhớ
Rơi miền ký ức xưa
Một chiều qua lối đó
Áo em mờ trong mưa.

Như chút thoáng nhớ về ngời Xuân dần mờ phai nhân ảnh, lòng chớm Hạ bâng khuâng vô cớ. Thấp thoáng trong miền sương quá vãng, dáng ai kia như gọi như mời, như tưới đẫm giọt nồng kỷ niệm trên trang giấy mở ngỏ lòng thơ.

Tháng ba mùa xuân vọng
Vỡ tiếng cười pha lê
Tung tăng đàn bướm trắng
Ngơ ngác bước ai về.

Và rồi sóng Hạ nhẹ dìu ta về vùng trời ký ức. Ở đó, những cánh phượng hồng lung linh trong nắng vàng huyễn mộng; những mái ngói sân trường, phấn trắng bảng đen, bè bạn ... Chấp chới hoài niệm vàng son của một thời áo trắng trinh nguyên, nhiều vô tư và đầy hiếu động. Rồi bỗng dưng tâm hồn se sắt lại, lịm ngất đi trong xót xa, khi vọng về âm hưởng ký ức của tình nghĩa thầy trò, gởi tiếc nuối, thương đau vào cõi vĩnh hằng...

Tháng ba một người khóc
Bóng thầy giờ nơi đâu
Con đò xưa khuất núi
Hun hút dòng sông sâu.

Và như quy luật muôn đời, hết Xuân tới Hạ, qua vực thẳm nản buồn sẽ dần vươn đến tuyệt đỉnh của sự mừng vui. Nắng Hạ rỡ ràng, ngon như mật ong rừng mới cất, xua đi muộn phiền, hong lại tâm tình cho trời mây ngan ngát một niềm yêu. Và vẫn cái ngỡ ngàng khi mùa đến sớm, dẫu háo hức bước về phía trước, mấy ai mà không nuối “chút màu xưa”.

Em về tìm tháng ba
Hái màu hoa điệp cũ
Con ve sầu còn ngủ
Chợt thức nhớ mùa xa…

****
Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn nhẹ nhàng lãng đãng khói sương, vương mang một chút hoài niệm dễ làm chùng lòng người khi lắng hồn trong tiếng thì thầm của cỏ hoa quá vãng…

HANSY
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

46
TIẾNG VIỆT - Dễ mà Khó

Tiếng Việt vừa dễ vừa khó, đúng hơn, dễ mà lại khó. Dễ đến độ rất hiếm người Việt Nam nào cảm thấy có nhu cầu phải sắm một cuốn Từ Điển Tiếng Việt trong nhà. Dễ đến độ bất cứ người nào trưởng thành ở Việt Nam cũng đều có thể tưởng là mình thông thái, và nếu muốn, đều có thể trở thành nhà văn được.

Thế nhưng, chỉ cần, một lúc thảnh thơi nào đó, ngẫm nghĩ một chút về tiếng Việt, chúng ta bỗng thấy hình như không phải cái gì chúng ta cũng hiểu và có thể giải thích được.

Trước đây, có lần, đọc cuốn Trong Cõi của Trần Quốc Vượng, một nhà nghiên cứu sử học, khảo cổ học và văn hoá dân gian nổi tiếng ở trong nước, tới đoạn ông bàn về hai chữ “làm thinh”, tôi ngỡ đã tìm thấy một phát hiện quan trọng. Theo Trần Quốc Vượng, “thinh” là thanh, âm thanh, hay là tiếng ồn. “Nín thinh” là kiềm giữ tiếng động lại, là im lặng. Thế nhưng “làm thinh” lại không có nghĩa là gây nên tiếng động mà lại có nghĩa là... im lặng. Cũng giống như chữ “nín thinh”. Trần Quốc Vượng xem đó như là một trong những biểu hiện của Phật tính trong ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam: “nín” và “làm” y như nhau; có và không y như nhau; ấm và lạnh cũng y như nhau (áo ấm và áo lạnh là một!); “đánh bại” và “đánh thắng” y như nhau. Quả là một thứ tiếng “sắc sắc không không”, nói theo ngôn ngữ Phật giáo, hay “huyền đồng”, nói theo ngôn ngữ của Trang Tử. (1)

Thú thực, đọc những đoạn phân tích như thế, tôi cảm thấy mừng rỡ và thích thú vô hạn.

Thế nhưng, chẳng bao lâu sau, đọc bài viết “Tìm nguồn gốc một số từ ngữ tiếng Việt qua các hiện tượng biến đổi ngữ âm” của Lê Trung Hoa, tôi lại bàng hoàng khám phá ra là chữ “làm thinh” thực chất chỉ là biến âm của chữ “hàm thinh” trong chữ Hán. “Hàm” có nghĩa là ngậm (như trong các từ: hàm ân, hàm oan, hàm tiếu, hàm huyết phún nhân...). “Hàm thinh” là ngậm âm thanh lại, không cho chúng phát ra, tức là không nói, tức là... im lặng. (2) Y như chữ “nín thinh”. Nhưng sự giống nhau ở đây chỉ là sự giống nhau của hai từ đồng nghĩa, chứ chả có chút Phật tính hay Trang Tử tính gì trong đó cả.

Tôi mới biết là mình mừng hụt.

Một ví dụ khác: về hai chữ “vợ chồng”.

Trước đây, đã lâu lắm, đọc cuốn Ngôn Ngữ và Thân Xác của Nguyễn Văn Trung, tôi thấy tác giả giải thích hai chữ “vợ chồng” đại khái như sau: “Chồng” là chồng lên nhau, nằm lên nhau. Còn chữ “vợ”? Nguyễn Văn Trung chỉ viết bâng quơ, trong câu chú thích in cuối trang: “chữ vợ phải chăng là vơ, vớ, đọc trại đi, theo giọng nặng; nếu thế, chữ vợ chỉ thị việc quơ lấy quàng lên, vơ vào, phù hợp với việc chồng lên trong hành động luyến ái?” (tr. 40)

Đọc đoạn ấy, tôi hơi ngờ ngờ, nhưng rồi cũng bỏ qua, không chú ý mấy. Gần đây, tôi sực nhớ lại vấn đề ấy khi đọc cuốn Phương Ngữ Bình Trị Thiên của Võ Xuân Trang. Tôi được biết là ở Bình Trị Thiên, thay vì nói cái “vai”, người ta lại nói cái “bai”; thay vì nói đôi “vú”, người ta lại nói đôi “bụ”; thay vì nói “vải”, người ta lại nói “bải”; thay vì nói “vá” áo, người ta nói “bá” áo; thay vì nói “vả” (vào miệng) , người ta lại nói “bả” (vào miệng), v.v... Qua những sự hoán chuyển giữa hai phụ âm V và B như thế, tự dưng tôi nảy ra ý nghĩ: phải chăng nguyên uỷ của chữ “vợ” là... bợ? “Vợ chồng” thực ra là “bợ chồng”?

Tôi càng tin vào giả thuyết trên khi nhớ lại, trong tiếng Việt hiện nay, có cả hàng trăm từ nguyên thuỷ khởi đầu bằng phụ âm B đã biến thành V như thế. Nhiều nhất là từ âm Hán Việt chuyển sang âm Việt. Ví dụ: trong chữ Hán, chữ “bái” sang tiếng Việt thành “vái”; chữ “bản” sang tiếng Việt thành “vốn” và “ván”; chữ “bích” sang tiếng Việt thành “vách”; chữ “biên” sang tiếng Việt thành “viền”; chữ “bố” sang tiếng Việt thành “vải”; chữ “bút” sang tiếng Việt thành “viết”; chữ “bà phạn” sang tiếng Việt thành “và cơm”, v.v...

Theo Nguyễn Tài Cẩn, trong cuốn Giáo Trình Lịch Sử Ngữ Ấm Tiếng Việt (sơ thảo), quá trình hoán chuyển từ B đến V kéo dài khá lâu cho nên hiện nay thỉnh thoảng cả hai biến thể B/V vẫn còn tồn tại song song với nhau, như: băm và vằm (thịt); be và ve (rượu hay thuốc); béo và véo; bíu và víu, v.v...

Chúng ta biết là hiện tượng tồn tại song song của hai biến thể như thế không phải chỉ giới hạn trong hai phụ âm B và V. Theo nhiều nhà ngôn ngữ học, ngày xưa, từ khoảng thế kỷ 17 trở về trước, trong tiếng Việt có một số phụ âm đôi như BL (blăng, blời...), ML (mlầm) hay TL (tlánh). Đến khoảng thế kỷ 18, các phụ âm đôi ấy dần dần rụng mất. Điều đáng chú ý là khi những phụ âm đôi ấy rụng đi thì chúng lại tái sinh thành một số phụ âm khác nhau. Ví dụ phụ âm đôi TL sẽ biến thành TR hoặc L, do đó, hiện nay, chúng ta có một số chữ có hai cách phát âm và hai cách viết khác hẳn nhau, cùng tồn tại song song bên nhau, đó là các chữ tránh và lánh; trộ và lộ, trồi và lồi, trêu và lêu, trũng và lũng, trộn và lộn, trọn và lọn, trệch và lệch, trèo và leo, tràn và lan, v.v... Trong khi đó phụ âm đôi ML sẽ biến thành L hoặc NH, bởi vậy, chúng ta cũng có một số từ tương tự, như lầm và nhầm, lời và nhời, lẽ và nhẽ, lát và nhát, lạt và nhạt, lớn và nhớn.(3) Trong những cặp từ tương tự vừa kể, có một số chữ dần dần bị xem là phương ngữ hoặc là cách nói cổ, càng ngày càng ít nghe, như các chữ Nhớn, Nhời, và Nhẽ. Thay vào đó, chúng ta sẽ nói là lớn, lời và lẽ. Tuy nhiên, những chữ khác thì cho đến nay cũng vẫn còn tồn tại khá phổ biến, ví dụ chúng ta có thể nói là rượu lạt hoặc rượu nhạt; nói lầm lẫn hoặc nhầm lẫn; nói một lát dao hay một nhát dao đều được cả.

Đặt trong toàn cảnh mối quan hệ giữa hai phụ âm B và V cũng như quá trình biến đổi phụ âm đầu như thế, chúng ta sẽ thấy ngay giả thuyết cho nguồn gốc của chữ “vợ” trong “vợ chồng” là “bợ” rất có khả năng gần với sự thật. “Vợ chồng” như thế, thực chất là “bợ chồng”. “Bợ”: từ dưới nâng lên; “chồng”: từ trên úp xuống. Danh từ “bợ chồng” diễn tả tư thế thân mật giữa hai người nam nữ khi ăn ở với nhau. Cách gọi tên khá thật thà như thế kể cũng thú vị đấy chứ?

Qua các trường hợp biến đổi từ “hàm thinh” thành “làm thinh” và từ “bợ chồng” thành “vợ chồng”, chúng ta tiếp cận được một hiện tượng rất phổ biến trong tiếng Việt: hiện tượng biến âm. Biến âm không phải chỉ vì nói ngọng, kiểu “long lanh” thành “nong nanh” hay “nôn nao” thành “lôn lao” như một số người ở một số địa phương nào đó. Biến âm cũng không phải chỉ vì phương ngữ, kiểu “về” thành “dề” như ở miền Nam, hay “nhà” thành “dà” như ở một số làng huyện ở miền Trung, “trung trinh” thành “chung chinh” như ở miền Bắc. Điều đáng nói hơn là những hiện tượng biến âm xuất phát từ những quy luật nội tại của ngôn ngữ, những sự biến âm có mặt ở mọi vùng đất nước và nếu không tự giác và tốn công truy lục, chúng ta sẽ không thể nào tái hiện được nguyên dạng của nó. Chúng ta dễ ngỡ biến âm là chính âm. Dễ ngỡ nó tự nhiên là thế.

Ví dụ, để diễn tả tâm sự buồn nào đó dần dần giảm nhẹ đi, chúng ta hay dùng chữ “nguôi ngoai”. Đúng ra là “nguôi hoai”. Trong các từ điển cổ, “hoai” có nghĩa là phai nhạt. Nghĩa ấy, cho đến bây giờ chúng ta vẫn dùng trong chữ “phân đã hoai”. “Nguôi hoai” là từ ghép chỉ sự phai dần của một nỗi buồn, một niềm đau. Tương tự như vậy, chữ “yếu ớt” chúng ta hay dùng ngày nay là do chữ “yếu nớt”. “ớt” thì không có nghĩa gì cả. Trong khi “nớt” có nghĩa là sinh thiếu tháng, vẫn còn dùng trong từ “non nớt”. “Yếu nớt”, do đó, có nghĩa là yếu đuối, là non nớt. Chữ “nói mớ” thật ra là biến âm của chữ “nói mơ”, nói trong giấc mơ. “Nước miếng” thật ra là biến âm của “nước miệng”, nước chảy ra từ miệng, cùng cách kết cấu với các chữ nước mắt hay nước mũi. Chữ “to tát” hiện nay tất cả các từ điển đều viết với chữ T ở cuối, TáT; nhưng trong Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của thì lại viết chữ TáC kết thúc bằng C: “to tác”, kèm theo lời định nghĩa là: thô kệch, lớn tác. Mà chúng ta đều biết chữ TáC có nghĩa là tuổi hay vóc dáng, như trong các từ tuổi tác, tuổi cao tác lớn, hay ngày xưa người ta nói bạn tác, tức bạn hữu; trang tác, tức cùng lứa, cùng tuổi với nhau. (4)

Các con số đếm, nơi rất cần sự chính xác, cũng không thoát khỏi luật biến âm. Như số 1, chẳng hạn. Đứng một mình là một. Đứng trước các con số khác cũng là một. Nhưng khi đứng sau các con số khác, trừ số 10, nó lại biến thành “mốt”: hai mươi mốt; ba mươi mốt, bốn mươi mốt. Những chữ “mốt” ấy chính là biến âm của “một”. Nhưng không phải lúc nào “mốt” cũng có nghĩa là một: “Mốt” trong một trăm mốt hay trong một ngàn mốt, một triệu mốt... không phải là một. Con số 5 cũng vậy. Đứng một mình là năm. Đứng trước các số khác cũng là năm. Nhưng khi đứng sau các số, từ 1 đến 9, nó lại biến thành “lăm”: mười lăm, hai mươi lăm... Con số hai mươi lăm ấy lại được biến âm thêm một lần nữa, thành hăm nhăm. Số ba mươi lăm cũng thường được biến âm thành băm nhăm. Từ số bốn mươi lăm trở lên thì chỉ có một cách rút gọn là bốn lăm; năm lăm, sáu lăm, bảy lăm, tám lăm, và chín lăm chứ không có kiểu biến âm như hăm nhăm và băm nhăm. Con số 10, cũng vậy. 10 là mười. Nhưng từ 20 trở lên thì “mười” biến thành “mươi”: hai mươi, ba mươi, bốn mươi... Dấu huyền bị biến mất. Có điều, “mươi” không phải lúc nào cũng có nghĩa là mười. Trong nhóm từ “mươi cái áo”, chẳng hạn, “mươi” lớn hơn hoặc nhỏ hơn mười: một con số phỏng định, ước chừng, bâng quơ.

Con số còn thay đổi được, huống gì những từ khác. Như từ “không”, chẳng hạn. Phủ định điều gì, người ta có thể nói “không”, mà cũng có thể nói “hông”, nói “khổng”, nói “hổng”. Xuất hiện trong câu nghi vấn, chữ “không” ấy có thể có thêm một biến âm khác là “hôn”: “nghe hôn?” Chưa hết. Một số âm vị trong cụm “nghe hôn” ấy bị nuốt đi; “nghe hôn” biến thành “nghen”, rồi đến lượt nó, “nghen” lại biến thành “nghén” hay bị rút gọn lần nữa, thành “nhen”, rồi “hen”, rồi “hén”, rồi “nhe”, v.v...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Như vậy, biện pháp biến âm trở thành một biện pháp tạo từ. Đã có từ “vậy”, chỉ cần thay dấu nặng bằng dấu huyền, chúng ta có từ mới: “vầy” (như vầy này!). Đã có từ “lui hui”, người ta tạo thêm các chữ “lúi húi” rồi “lụi hụi”. Đã có từ “chừ bự”, người ta tạo thêm các từ mới: chư bư, chừ bư, chừ bử, chử bử, chứ bứ, chự bự. Đã có “trật lất”, người ta tạo thêm: trết lết, trét lét, trớt lớt, trớt huớt... (5) Đã có từ “ngoại” vay mượn từ chữ Hán, chúng ta tạo thêm hay từ khác: “ngoài” để các quan hệ không gian cũng như thời gian và “ngoái” để chỉ quan hệ về thời gian: “năm ngoái”.

Biện pháp biến âm như vậy đã dẫn đến một hiện tượng khá thú vị trong tiếng Việt: hiện tượng từ tương tự, tức những từ hao hao gần nhau về cả ngữ âm lẫn ngữ nghĩa, chẳng hạn: các chữ bớt và ngớt; đớp, tợp, hớp và đợp; bẹp, xẹp, lép, khép, nép và nẹp; khan, khàn và khản; xẻ, chẻ, bẻ và xé; xoăn, xoắn, quăn và quắn; tụt, rụt và thụt; véo, nhéo, và béo; v.v...

Các từ tương tự ấy có khi khác nhau về từ loại nhưng lại tương thông tương ứng với nhau về ý nghĩa, chẳng hạn: chúng ta có cái nẹp để kẹp, cái nêm để chêm, cái nan để đan, cái mõ để gõ, cái nệm để đệm, cái vú để bú; hoặc chúng ta cưa thì thành khứa, rung thì rụng, phân thì có từng phần, dựng thì đứng, thắt thì chặt, đập thì giập, dìm thì chìm, ép thì ẹp, dứt thì đứt, chia thì lìa, gạn thì cạn, v.v....

Mới đây, đọc báo, không hiểu tại sao, tình cờ tôi lại chú ý đến chữ “đút” trong một câu văn không có gì đặc biệt: “Chị ấy đút vội lá thư vào túi quần...” Từ chữ “đút” ấy, tôi chợt liên tưởng đến chữ “rút”: cả hai từ làm thành một cặp phản nghĩa: đút (vào) / rút (ra).

Điều làm tôi ngạc nhiên là cả hai từ đều có phần vần giống nhau: “-ÚT”. Chúng chỉ khác nhau ở phụ âm đầu mà thôi: một chữ bắt đầu bằng phụ âm “đ-” (đút) và một chữ bằng phụ âm “r-” (rút). Hơn nữa, cả từ “đút” lẫn từ “rút”, tuy phản nghĩa, nhưng lại có một điểm giống nhau: cả hai đều ám chỉ sự di chuyển từ không gian này sang không gian khác. “Đút” cái gì vào túi hay “rút” cái gì từ túi ra cũng đều là sự chuyển động từ không gian trong túi đến không gian ngoài túi hoặc ngược lại.

Tôi nghĩ ngay đến những động từ có vần “-ÚT” khác trong tiếng Việt và thấy có khá nhiều từ cũng có nghĩa tương tự. “Sút” là động tác đưa bóng vào lưới. “Hút” là động tác đưa nước hoặc không khí vào miệng. “Mút” cũng là động tác đưa cái gì vào miệng, nhưng khác “hút” ở chỗ vật thể được “mút” thường là cái gì đặc. “Trút” là đổ cái gì xuống. “Vút” là bay từ dưới lên trên. “Cút” là đi từ nơi này đến nơi khác do bị xua đuổi. “Nút” hay “gút” là cái gì chặn lại, phân làm hai không gian khác nhau.

Thay dấu sắc (ÚT) bằng dấu nặng (ỤT), ý nghĩa chung ở trên vẫn không thay đổi. “Trụt” hay “tụt” là di chuyển từ trên xuống dưới. “Vụt” là di chuyển thật nhanh, thường là theo chiều ngang. “Lụt” là nước dâng lên quá một giới hạn không gian nào đó. “Cụt” là bị cắt ngang, không cho phát triển trong không gian. “Đụt” (mưa) là núp ở một không gian nào đó, nhỏ hơn, để tránh mưa ngoài trời. Vân vân.

Nếu những động từ có vần “-ÚT” thường ám chỉ việc di chuyển (hoặc việc ngăn chận quá trình di chuyển ấy) giữa hai không gian thì những động từ có vần “-UN” lại ám chỉ việc dồn ứ lại thành cục trong một không gian nhất định nào đó, thường là có giới hạn. “ùn”, “chùn”, “dùn”, hay “đùn” đều có nghĩa như thế. “Thun” hay “chun” cũng như thế, đều chỉ cái gì bị rút, bị co. “Cùn” là bẹt ra. “Hùn” là góp lại. “Vun” là gom vào. “Lún” hay “lụn” là bẹp xuống. Cả những chữ như “lùn” hay (cụt) “lủn”, (ngắn) “ngủn”, “lũn cũn”... cũng đều ám chỉ cái gì bị dồn nhỏ hay thu ngắn lại.

Với cách phân tích như vậy, nếu đọc thật kỹ và thật chậm các cuốn từ điển tiếng Việt, chúng ta sẽ dễ thấy có khá nhiều khuôn vần hình như có một ý nghĩa chung. Chẳng hạn, phần lớn các động từ hay tính từ kết thúc bằng âm éT hay ẹT đều chỉ những động tác hay những vật thể hẹp, thấp, phẳng. “Kẹt” là mắc vào giữa hai vật gì; “chẹt” là bị cái gì ép lại. “Dẹt” là mỏng và phẳng; “tẹt” là dẹp xuống (kiểu mũi tẹt); “bét” là nát, dí sát xuống đất; “đét” là gầy, mỏng và lép. Những dộng từ kết thúc bằng âm EN thường chỉ các động tác đi qua một chỗ hẹp, một cách khó khăn, như: “chen”, “chẹn”, “chèn”, “len”, “men”, “nghẽn”, “nghẹn”, “nén”. Những từ láy có khuôn vần ỨC - ÔI thì chỉ những trạng thái khó chịu, như “tức tối”, “bức bối”, “bực bội”, “nực nội”, “nhức nhối”, v.v...

Những ví dụ vừa nêu cho thấy hai điều quan trọng:

Thứ nhất, nếu chịu khó quan sát, chúng ta sẽ phát hiện trong những chữ quen thuộc chúng ta thường sử dụng hàng ngày ẩn giấu những quy luật bí ẩn lạ lùng. Tính chất bí ẩn ấy có thể nói là vô cùng vô tận, dẫu tìm kiếm cả đời cũng không hết được. Điều này khiến cho không ai có thể an tâm là mình am tường tiếng Việt. Ngay cả những nhà văn hay nhà thơ thuộc loại lừng lẫy nhất vẫn luôn luôn có cảm tưởng ngôn ngữ là một cái gì lạ lùng vô hạn.

Thứ hai, vì có những quy luật, những điểm chung tiềm tàng giữa các chữ như vậy cho nên việc học tiếng Việt không quá khó khăn. Nói chung, người Việt Nam đều có khả năng đoán được ý nghĩa của phần lớn các chữ mới lạ họ gặp lần đầu. Lần đầu gặp chữ “thun lủn”, chúng ta cũng hiểu ngay nó ám chỉ cái gì rất ngắn. Lý do là vì chúng ta liên tưởng ngay đến những chữ có vần “UN” vừa kể ở trên: cụt ngủn, ngắn ngủn, v.v... Lần đầu gặp chữ “dập dềnh”, chúng ta cũng có thể đoán là nó ám chỉ một cái gì trồi lên trụt xuống do sự liên tưởng đến những chữ có khuôn vần tương tự: bấp bênh, gập ghềnh, khấp khểnh, tập tễnh, v.v...

Nói tiếng Việt vừa dễ vừa khó là vì thế.

NGUYỄN HƯNG QUỐC
*******************
Chú thích:
1. Trần Quốc Vượng (1993), Trong Cõi, Garden Grove: Trăm Hoa, tr. 169.
2. Lê Trung Hoa, “Tìm nguồn gốc một số từ ngữ tiếng Việt qua các hiện tượng biến đổi ngữ âm”, in trong cuốn Những vấn đề văn hoá, văn học và ngôn ngữ học (nhiều tác giả), nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1999: 211-225.
3. Xem bài “Vài chuyển biến trong phụ âm đầu tiếng Việt và các hiện tượng láy từ liên hệ” của Nguyễn Phú Phong trên Tập san Khoa Học Xã Hội (Paris) số 3 năm 1977, tr. 73-80.
4. Một số ví dụ trong đoạn này lấy từ bài viết của Lê Trung Hoa theo sách dẫn trên.
5. Biện pháp biến âm này đặc biệt thông dụng trong phương ngữ miền Nam. Có thể xem thêm cuốn Từ Điển Phương Ngữ Nam Bộ của Nguyễn Văn Ái, Lê Văn Đức và Nguyễn Công Khai, nxb Thành Phố HCM, 1994
15.00
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 100 trang (999 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [97] [98] [99] [100]