Phục Hoàng hậu nói:
Công khanh đầy triều, đều ăn lộc nhà Hán, chẳng lẽ lại không có ai cứu được quốc nạn sao?
Phục Hoàng hậu nói chưa dứt lời thì có một người ở ngoài bước vào tâu rằng:
Xin vua và Hoàng hậu đừng lo, tôi xin cử một người có thể cứu được nạn nước.
Vua trông ra thì là bố đẻ Phục Hoàng hậu là Phục Hoàn. Vua gạt nước mắt hỏi rằng:
Quốc trượng cũng biết giặc Tào Tháo nó chuyên quyền à?
Hoàn nói: Xem như việc bắn hươu ở Hứa Điền thì ai chẳng biết, chỉ vì cả triều văn võ phi là họ hàng Tào Tháo thì là đầy tớ của nó. Nếu không phải quốc thích thì ai chịu hết lòng đánh giặc. Lão thần không có quyền thế gì, khó làm nổi việc ấy, nhưng có Xa kỵ Tướng quân Đổng Thừa có thể tin cậy được.
Vua nói: Đổng Quốc cữu nhiều lần liều mình với nạn nước, ta vốn đã biết, nên mời vào trong cung để bàn việc lớn.
Hoàn nói: Tả hữu ở đây đều là tâm phúc của Tào Tháo, nếu việc tiết lộ sẽ xẩy ra vạ to.
Vua hỏi: Thế thì nên làm thế nào?
Hoàn nói: Tôi có một kế, Bệ hạ nên cho may một cái áo bào và làm một cái đai ngọc, mật ban cho Đổng Thừa, ở trong đai để tờ mật chiếu. Khi về thấy tờ chiếu, Thừa sẽ ngày đêm nghĩ kế thi hành, thế thì dù quỉ thần cũng không biết được.[4]
Đổng Thừa nhận chiếu chỉ Hiến Đế, về nhà rủ bọn Vương tử Phục, Sung Tập, Ngô Thạc, Mã Đằng, Lưu huyền Đức lập kế giết Tào Tháo.
Năm Kiến An thứ 5, Đổng Thừa bệnh, vua biết tin sai quan thái y Cát Bình đến chữa. Đổng Thừa nhân cơ hội rủ Cát Bình cộng tác, rồi cùng bọn Vương Tử Phục bàn dùng Cát Bình đầu độc Tào Tháo. Chẳng may người đầy tớ nhà Đổng Thừa phản bội, đem chuyện tố cáo với Tháo. Cát Bình bị bắt quả tang, Tào Tháo sai bắt luôn bọn Vương tử Phục, Đổng Thừa giết hết cùng với Đổng Phi. Kinh dịch có câu: “Quân bất mật tất thất thần, thần bất mật tất thất thân, cơ sự bí mật tất hại thành” (nghĩa là: vua không kín đáo thì hại bề tôi, bề tôi không kín đáo thì hại đến thân, làm việc không kín đáo tất thất bại), thật rất hợp cho hoàn cảnh bọn Thừa – Phục. Giết xong nhóm quần thần đối lập, Tào Tháo truyền lệnh rằng: “Từ nay về sau, những người ngoại thích và tôn tộc nhà vua không được phép ta mà tự tiện vào cung thì cứ chém”. Vụ này duy có Lưu Huyền Đức nhanh chân “chuồn” được. Vương nghiệp Hán từ sau cái chết của Đổng Thừa kể như không còn nữa. Vụ chiếu đai áo, Tam quốc chí diễn nghĩa sao chép mấy câu thơ khen Đổng Thừa:
Chớ kể thành hay bại.
Nghìn thu trung nghĩa bền.
Xét cho cùng, Đổng Thừa không xứng đáng với lời tán dương trên đây. Đổng Thừa bất quá chỉ là một đứa con hoang bệnh hoạn của mối tình giữa quân phiệt Đổng Trác với Hán triều đã què quặt. Với cái xuất xứ chính trị tàn phế ấy, việc làm của bọn Đổng Thừa mang thuần tính cách phản động. Có lẽ Lưu Huyền Đức cũng nhận thấy như thế mà bỏ trốn trước chăng?
Lưu Huyền Đức
Nhân một lần Tào Tháo dẫn Lưu Bị tới gặp Hiến Đế, Hiến Đế hỏi Lưu Bị: Tổ ngươi là ai? Lưu Bị tâu: tôi là dòng dõi Trung Sơn Tĩnh Vương, cháu xa đức Hiếu Cảnh Hoàng Đế, cháu Lưu Hùng và con Lưu Hoằng.
Vua lấy sổ tôn tộc ra kiểm xem thấy:
Hiếu Cảnh Hoàng Đế sinh mười bốn con, con thứ bẩy là Trung Sơn Tĩnh Vương, tên Lưu Thắng, Thắng sinh ra Lưu Chinh. Chinh sinh ra Lưu Ngang, Ngang sinh ra Lưu Lộc v.v.. và trải thêm hai chục lần sinh đẻ nữa đến Lưu Bị.
Vua so trong thế phả thì Lưu huyền Đức vào hàng chú, Vua mừng lắm mời vào Thiên điện làm lễ nhận họ. Vua bấy giờ nghĩ bụng rằng:
“Tào Tháo lộng quyền, việc nước không tự ta làm chủ. Nay người chú anh hùng, may ra ta có người giúp”.
Thân phận hậu duệ nhà Hán của Lưu Bị quả là mơ hồ. Sở dĩ Hiến Đế nhận ngay bằng chú và Lưu Bị cũng im lặng là vì cả hai đều có nhu yếu chính trị bên trong. Giả thử, Lã Bố bỏ họ Lã mà lấy họ Lưu, rồi cũng nói đại là con cháu Trung Sơn Tĩnh Vương thì Hiến Đế cũng chẳng ngần ngại gì gọi Bố bằng chú. Hai chữ Hoàng thúc trong đầu óc Hiến Đế không mang ý nghĩa máu mủ họ hàng nào hết.
Vậy nên luận về Lưu Bị, không thể xét trên cái lý lịch tôn thất, mà xét trên lý lịch “dệt chiếu, bán chiếu”.
Lưu Bị là một người lái buôn nơi thị tứ, gia sản trung bình. Tính tình Bị hào kiệt, từ thủa thiếu thời có nhiều bạn, phần lớn là loại thành thị buôn bán.
Nguyên nhân khiến Lưu Bị nhẩy vào vũ đài chính trị khởi từ việc hai đại thương gia Tô Song và Trương Thế Hoà (hay Trương Thế Bình) thuê Lưu Bị vũ trang hộ tống hàng hoá của họ chống lại quân Khăn Vàng. Ít lâu sau anh em Lưu Bị mới hưởng ứng việc mộ quân của Lưu Yên.
Tâm chất Lưu Bị khả dĩ thu gọn vào mấy điểm: “Không ưa đọc sách lắm, thích chó ngựa, khoái âm nhạc, ăn mặc quần áo đẹp, sính kết giao với các hào kiệt". Tóm lại Lưu Bị hoàn toàn mang tác phong một anh hùng thành thị, thương nhân tiểu tư sản.
Đem so sánh với Tào Tháo về học vấn, Tháo vượt xa Lưu Bị. Tào Tháo quyền trí, làm thơ, viết sách quân sự, Lưu Bị không. Tuy thế Lưu Bị chẳng phải người thiếu sở trường. Sở trường của ông ta là: Chịu đựng, nhẫn nại, khoan hậu, khiêm hư, biết dùng người, dùng người đúng chỗ, yêu mến cán bộ, về cái học thực tế kể ra Lưu Huyền Đức cũng chẳng kém Tào Tháo bao nhiêu.
Tào Tháo dựa vào quyền trí mà tranh thủ địa vị. Lưu Bị dựa vào cảm tình quần chúng mà tranh thủ địa vị. Vốn là người hồ hải, tang bồng, nên Bị nhận thức được tầm quan trọng của quần chúng và cán bộ quan hệ với sự nghiệp chính trị, vì vậy ngay cả lúc lưu ly, phiêu bạt, Lưu Bị không bao giờ quên săn sóc đến đội ngũ, đến dân chúng. Người dân Tân Dã có câu hát ca tụng đức tính yêu dân của Lưu Bị như sau:
Tân Dã mục
Lưu Hoàng Thúc
Từ khi đến đây
Dân được sung túc.
Ông thường nói: “Làm việc lớn, phải cần người, nay người về với ta nỡ nào lại bỏ”. Nhờ đức tính yêu người mà Lưu Bị dầu năm bẩy phen thất điên bát đảo, các cán bộ ly tán đều tìm cách trở về với ông.
Cuộc đời chính trị của Lưu Bị có hai quan niệm trọng đại đáng kể, đã làm cho ông giác ngộ thay đổi quan niệm chính trị và thay đổi hẳn thân thế sự nghiệp ông.
Quan kiện thứ nhất: ông xin Tào Tháo cho đem quân đi chặn đánh Viên Thuật để tránh vạ chu diệt. Đầu đuôi là: Lưu Bị sau khi ký vào tờ chiếu đánh giặc Tháo, mấy ngày sau Tháo sai người vời đến, tiếng rằng uống rượu thưởng mai, nhưng thực ra Tào Tháo muốn dò xét hoạt động của nhóm triều thần. Đàm luận với Tào Tháo xong, về nhà, Lưu Bị biết chắc âm mưu Đổng Thừa chẳng chóng thì chầy cũng vỡ lở, ông nghĩ ngay kế thoát thân, liền thưa cùng Tào Tháo:
Nếu Thuật sang với Thiệu, tất phải qua Từ Châu, tôi xin lĩnh một cánh quân đi đón đường đánh chắc bắt được.
Tào Tháo cười nói:
Để ngày mai tâu vua rồi sẽ khởi binh.
Hôm sau Huyền Đức vào gặp vua, Tào Tháo sai Huyền Đức đốc suất năm vạn quân sĩ, lại sai Chu Linh, Lộ Chiêu cùng đi.
Huyền Đức về nhà trọ, nửa đêm thu xếp khí giới và ngựa chiến, đeo ấn tướng quân đốc thúc để đi cho chóng. Quan, Trương hỏi rằng: “Sao phen này anh đi vội vàng vậy”. Lưu Bị nói: “Ta ở Hứa Đô như chim lồng cá lưới, chuyến này đi như cá vào bể lớn, chim lên mây xanh, không bị giam hãm trong lồng trong lưới nữa”. Nói xong, thúc quân mã đi cho mau.
Bấy giờ ở Hứa Đô, Quách Gia và Trình Dục đi khám xét tiền lương về nghe thấy Tào Tháo sai Lưu Bị đem binh sang Từ Châu vội vàng bẩm rằng: “Sao Thừa tướng lại sai Lưu Bị đi đốc binh?” Đời sau có thơ rằng:
Gióng ngựa dục quân, lòng vội vã
Nỗi lo canh cánh, chiếu trong đai
Hổ tung cũi sắt về rừng rậm
Rồng phá then vàng ra bể khơi.
Thơ đó chẳng đúng với tâm trạng và hoàn cảnh:
Ra đi thì sự đã liều
Mưa mai không biết, nắng chiều không hay
của Lưu Bị chút nào. Chuyến đi hấp tấp này mục đích để giữ cho thủ cấp khỏi rơi chứ đâu phải tâm trạng hổ về rừng rậm, rồng về biển khơi. Từ nay Lưu Bị bỏ hẳn đường lối dựa vào các triều thần cũ mà gây uy thế chính trị, đồng thời Lưu Bị cũng kiểm soát lại khả năng của mình, ông thấy cần phải đứng về phía lực lượng trí thức bình dân đang trưởng thành.
Quan kiện thứ hai: gặp gỡ Gia Cát Khổng Minh. Trốn khỏi Hứa Đô bị Tào Tháo đuổi đánh, thua, Lưu Bị sang nương nhờ Viên Thiệu, Thiệu thất trận, Huyền Đức bỏ đi với Lưu Biểu. Sái Mạo tướng của Lưu Biểu lập kế đuổi Huyền Đức, Huyền Đức qua Nam Dương gặp Khổng Minh. Khổng Minh bày kế:
Đây là địa đồ 54 châu ở Tây Xuyên. Tướng quân muốn thành Bá nghiệp thì phải nhường thiên thời cho Tào Tháo ở phía Bắc, nhường địa lợi cho Tôn Quyền ở phía Nam, còn Tướng quân thì nắm vững lấy nhân hoà. Trước hãy chiếm Kinh Châu làm căn bản, sau đến lấy Tây Xuyên dựng cơ đồ, hình thành cái thế chân vạc, sau mới tính đến Trung nguyên được.
Lời nói trên đây mở đường vào cuộc đấu tranh Tam quốc, toàn bộ sự nghiệp, chính lược, chiến lược của Lưu Bị cũng theo cuộc đối sách ở Long Trung mà chuyển thành.
Hai người đàn bà có ảnh hưởng đến đời chính trị của Lưu Bị
Cái tài ăn nói duyên dáng của Gia Cát Khổng Minh không những chỉ ở những cuộc du thuyết hoặc trên bàn ngoại giao, nó còn được sử dụng tài tình để kéo về cho Lưu Bị hai bà vợ, ảnh hưởng đến chính cục nước Thục.
Hai người đàn bà ấy là Tôn phu nhân (Tam quốc chí diễn nghĩa có kể tỉ mỉ) và Mục Hoàng Hậu (Tam quốc chí diễn nghĩa không nhắc đến).
Tôn phu nhân là em khác mẹ của Tôn Quyền. Trong chuyện không chú ý đến nhan sắc, mà chỉ tả nàng với những cử chỉ cân quắc anh hùng.
Đặc điểm của cuộc hôn phối giữa Tôn Phu Nhân và Lưu Bị là chính trị chứ không phải là tình ái.
Tam quốc chí diễn nghĩa, La Quán Trung kể:
Qua vài hôm, quân do thám về báo:
Trong thành Kinh Châu cắm nhiều cờ trắng, ngoài thành mới xây một nấm mồ mới, quân sĩ đều mặc đồ tang.
Du ngạc nhiên hỏi:
Ai chết thế?
Quân do thám đáp:
Cam Phu nhân mới chết, bên ấy đang sửa soạn ma chay.
Du bảo Lỗ Túc rằng:
Kế ta nhất định thành công! Phen này quyết làm cho Lưu Bị phải bó tay chịu trói. Kinh Châu lấy lại dễ như trở bàn tay.
Túc hỏi: Kế ra làm sao?
Du đáp: Lưu Bị chết vợ, tất nhiên phải lấy vợ khác. Chúa công có cô em gái hùng dũng lắm, luôn có vài trăm thị tỳ cắp gươm hầu bên cạnh, trong phòng lại bầy la liệt đủ thứ vũ khí, ngay đàn ông cũng không giỏi bằng. Ta dâng thư lên Chúa công, rồi cho người sang Kinh Châu làm mối, rủ Lưu Bị sang đính hôn rồi lừa hắn đến Nam Từ, không gả người cho mà giam lại. Đoạn sai người đến đòi Kinh Châu đánh đổi Lưu Bị.
Rồi qua những hồi thứ 54, 55, 56 La Quán Trung nói đến các kế sách mà Khổng Minh dùng phá Chu Du trong công cuộc gả bán như sau: Phao tin cưới để Ngô Quốc Thái xen vào, Lưu Bị giả vờ khóc lóc, Lưu Bị nói khích Tôn phu nhân, đón vợ chồng Lưu Bị ở đầu sông. Đó chẳng qua là câu chuyện được tiểu thuyết hoá cho ly kỳ để nâng cao thú vị.
Sự thật, Lưu Bị làm rể Đông Ngô hoàn toàn do sự thoả thuận của Tôn Quyền. Về phần Tôn phu nhân nàng cũng vui lòng nhận cuộc gả bán vì chính trị chứ không vì yêu thương. Còn phần Lưu Huyền Đức thì dĩ nhiên anh chàng bằng lòng rồi bởi vì Lưu Bị vẫn ưa lấy thêm vợ. Chính trị ở đây đã tạo nên một hỷ kịch chứ không phải một bi kịch.
Tôn phu nhân là người đàn bà cực thông minh, nàng hiểu rõ quan hệ Ngô Thục, nên hiến thân cho Lưu Bị. Cho nên khi nước Ngô cần nàng, nàng vẫn sẵn sàng về với Tổ quốc. (Xem lại hồi 61, Triệu Vân chặn sông đoạt A Đẩu).
Do chính trị, nên Tôn phu nhân tuy cùng nằm chung giường với Lưu Bị nhưng mộng hai người vẫn khác nhau. Tôn phu nhân đem thân làm dâu một nơi xa quê hàng ngàn dặm là nàng đã tự giao mình cho một sứ mạng chính trị, đem đất Thục về cho Ngô.
Khổng Minh rõ sự thế ấy lắm nên thường nói: “Mối lo sát nách là Tôn phu nhân gây biến động”. Bởi vậy ông luôn luôn căn dặn Triệu Vân, Pháp Chính và Trương Phi đề phòng.
Sau khi thất bại với mưu toan mang A Đẩu về Ngô làm con tin, Tam Quốc chí diễn nghĩa không nói gì đến cuộc đời của Tôn phu nhân nữa. Nhưng theo truyền thoại thì lúc nghe tin Lưu Huyền Đức chết ở trận Bạch Đế, Tôn phu nhân vật vã khóc mấy ngày rồi tự trầm chết cho vẹn toàn nghĩa vợ chồng. Lối xử sự của Tôn phu nhân đáng kể là một kỳ nữ.
°°°
Mục Hoàng hậu là con nhà họ Ngô. Họ này rời bỏ quê quán theo Lưu Yên vào Thục. Chuyện đầu cuối như sau:
Cuối Hán, thời vua Linh Đế, thiên hạ loạn ly, danh thần Hán là Lưu Yên muốn yên thân nên dâng sớ xin vua cho đi làm thái thú quận Giao Chỉ. Nhưng sau nghe thầy số nói có khí tượng Thiên Tử ở Ích Châu, nên Lưu Yên đổi ý xin chuyển sang đất Thục làm Ích Châu mục.
Đi theo Lưu Yên có toàn bộ tôn tộc nhà họ Ngô. Họ này có cô gái rất mực xinh đẹp, thông tuệ khác thường, thêm nữa được thầy tướng ca tụng không ngớt về quí tướng của nàng. Lưu Yên mới hỏi con gái họ Ngô cho con trai mình là Lưu Mạo.
Lưu Mạo tính khí điên điên khùng khùng không xứng với Ngô thị, nên dân chúng đương thời thường ví cặp vợ chồng này như phượng hoàng với quạ đen.
Ít lâu sau, âm mưu hùng cứ của Lưu Yên bị lộ, Hoàng Đế bèn sai con út của Lưu Yên là Lưu Chương về khuyên răn cha. Lưu Chương đến nơi thì vừa vặn Trung Nguyên loạn lớn, Hiến Đế lên ngôi và Đổng Trác nắm quyền. Lưu Yên bèn giữ con ở lại Ích Châu. Cùng lúc đó, con lớn của Lưu Yên là Lưu Phạm thông mưu với Mã Đằng phản Hán nên bị triều đình giết chết. Lại một việc khác xẩy đến là kinh đô Ích Châu bị trời ra tai cháy lớn, Lưu Yên buồn phiền thành bệnh mà chết. Truyền thoại nói rằng: lúc cháy, Lưu Mạo nhát sợ trốn vào góc nhà còn Ngô thị dùng kiếm lệnh của chồng đứng chỉ huy quan quân chữa cháy rất có trật tự. Sau vụ này Lưu Mạo bị mọi người chế diễu, nên mắc cỡ mà điên thật.
Chức Thứ sử vì thế mà lọt vào tay Lưu Chương.
Đến lúc Tào Tháo về Trung nguyên nắm quyền, Lưu Chương dâng biểu về và được Hán triều phong cho làm Trấn Uy tướng quân, còn Lưu Mạo làm Bình Khấu tướng quân.
Công việc trong quân phủ của Lưu Mạo đều do một tay Ngô thị quán xuyến. Nhiều lần Lưu Chương định cướp luôn chức của Lưu Mạo, nhưng e Ngô thị, Lưu Chương đành thôi.
Về sau Lưu Mạo chết, Lưu Chương tin lời đoán của thầy tướng nên tỏ ý muốn đón Ngô thị sang phủ làm vợ lẽ. Ngô thị dùng Đạo đức Khổng Mạnh để phá bỏ ý tưởng của Lưu Chương, Lưu Chương cũng sợ người đời chê cười hại cho uy tín sự nghiệp nên không dám cưỡng.
Ba năm qua, Lưu Bị vào Thục, Lưu Chương ra hàng. Lúc này Ngô thị tuổi đã trên ba mươi, nhưng nhan sắc vẫn còn lộng lẫy lắm. Lưu Bị trông thấy đã mê tít cung mây, Bị đem tâm sự trình bầy với Gia Cát Khổng Minh, nhờ Gia Cát đi hỏi. Ngô thị ban đầu từ chối, sau nhờ cái lưỡi lý luận của Khổng Minh, Ngô thị mới ưng chịu.
Lấy Ngô thị rồi, Lưu Bị xưng Đế phong Ngô thị làm Hoàng hậu. Đến đây lời thầy tướng mới nghiệm.
Ảnh hưởng của Ngô thị vào sinh hoạt chính trị của Thục là việc: Ngô thị mến Lưu Thiện nên vận động cho Lưu Thiện kế vị Lưu Bị. Nếu không có Ngô thị thì ngôi đế Thục về tay Lưu Vĩnh như ý Lưu Bị vẫn muốn từ trước, và rất có thể chính trị nước Thục đã đổi khác hẳn.
____________________
Chú thích:
[1] Trong Tam Quốc chí diễn nghĩa, việc Toản đánh Ký Châu là do chính Viên Thiệu sai, rồi lật lọng đánh Công tôn Toản
[2] Tam Quốc Chí diễn nghĩa hồi thứ mười
[3] Tam Quốc Chí diễn nghĩa hồi thứ mười một, bản dịch của Phan Kế Bính
[4] Tam quốc chí diễn nghĩa hồi thứ 20. Bản dịch: Phan kế Bính