Sơn hàm nhật ảnh thụ mông lung Vận vận hàn phong dạng bích không Lão nạp niêm hoa thành diệu ngộ Tùng đào bách lại hữu vô trung
Dịch nghĩa:
Núi nuốt bóng mặt trời,cây cối mông lung Mõ gõ từng hồi lạnh lẽo vào khoảng không xanh biếc Sư già hái hoa thành diệu ngộ(ngộ ra một cách kỳ diệu) Tùng bách dạt dào giữa có và không
BỨC TRANH : CẢNH Ở TIÊU TƯƠNG
Mặt trời khuất núi rặng cây rung Mõ gõ khoảng không lạnh lẽo cùng Sư phụ hái hoa kỳ diệu ngộ Bách tùng dào dạt có cùng không
Trịnh Phúc Nguyên dịch thơ
TABLEAU SUR LE PAYSAGE À TIÊU TUONG
Le soleil se couche derrière le mont,les feuillages frémissent Les cloches en bois resonnent par saccades dans l’espace Le vieux bonze cueille des fleurs,médite sur le “merveilleux” Pins et sapins s’enchevêtrent à perte de vue. Tr. Trịnh Phúc Nguyên [/i][/size][/quote]
Vui buồn ký ức thời quân ngũ Thanh thản tâm hồn lúc nghỉ hưu Đường cong cuộc sống dài bao nữa Vẫn cứ yêu đời chẳng quanh hiu
NGƯỜI CAO TUỔI HÀ NỘI CÓ MỘT CÂU LẠC BỘ THƠ NHƯ THẾ
Một số người cao tuổi Hà Nội từ nhiều năm nay (16/9/1992) đã tự nguyện họp nhau lại thành lập Tổ Thơ Hán Nôm Hà Nội. Bây giờ là CLB thơ Hán-Việt–Pháp-Anh thuộc hội cựu giáo chức Việt Nam. Tới nay, CLB đã có những mảng hoạt động như sau: 1/ Sáng tác thơ, câu đối chữ Hán. Mỗi bài đều có chữ Hán, phiên âm, dịch thơ, dịch đối. 2/Dịch từ thơ chữ Hán ra thơ Việt, mỗi bài đều có nguyên tác chữ Hán, phiên âm, dịch thơ. 3/ Dịch từ thơ chữ Hán của thi nhân Việt Nam ra chữ Pháp, chữ Anh. Mỗi bài đều có nguyên tác chữ Hán, phiên âm, dịch thơ ra chữ Pháp, chữ Anh. 4/ Phiên âm các thơ văn, câu đối viết bằng chữ Nôm. Mỗi bài đều có nguyên tác chữ Nôm và phiên âm. 5/Thư pháp chữ Hán, chữ Nôm, chú trọng viết chân, viết hành để người đọc dễ hiểu; có một phần chữ thảo, chữ lệ
Tới nay CLB đã ấn hành 19 quyển/tập Hán Nôm thi, 3 tập song ngữ Hán –Việt thơ, 3 tập thơ đa ngữ Hán-Việt-Pháp-Anh, 1 tập Văn biền ngẫu và 1 tập thư pháp. CLB họp mỗi tháng 3 kỳ để trao đổi về các mảng hoạt động khác nhau: 1-Ngày thứ 2 tuần thứ hai hàng tháng họp về sáng tác thơ, câu đối chữ Hán 2- Ngày thứ 3 tuần thứ ba hàng tháng họp về dịch thơ chữ Hán của thi nhân Việt Nam sang chữ Pháp, Anh. 3-Ngày thứ 2 tuần thứ tư hàng tháng họp về học chữ Hán và dịch thơ chữ Hán ra chữ Việt. CLB Hán-Việt-Pháp-Anh tới nay đã có trên 40 hội viên thường xuyên sinh hoạt và có hội viên còn sinh hoạt qua gửi thư từ nhiều tỉnh và nước ngoài gửi bài về. CLB thơ này hằng mong mỏi được tiếp nhận thêm nhiều thày, nhiều bạn để mở rộng đường học hỏi, cùng nhau góp phần nhỏ bé vào việc phổ biến tinh hoa văn hóa Hán - Nôm của dân tộc. Hà Nội, ngay 10/5/2012 CLB thơ Hán-Việt-Pháp-Anh Nhà số 7, ngõ 50 Phó Nhân Hhòa, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Tp Hà Nội ĐT 04 35 572 351
THE HIGH AGED MEN AND WOMEN HAVE A POETICAL CLUB LIKE THAT IN HÀ NỘI
Since 1992, in Hà Nội several high aged men and women have volunteered to meet together for compiling the Hà Nội Hanese-Nôm poetical Team. Now that team is the Hanese - Vietnamese-French-English Poetical Club under the former Teaching Association of Việt Nam. Up to now, the club has some poetical branches as follows: 1/ Composing poems and parallel sentences in Hanese letters. In every work there are some parts related Hanese letters, phonetic transcription, translation of poems into Vietnamese and parallel translations. 2/ Translation of Hanese poems into Vietnamese. In every work there are the original letters of Hanese, phonetic transcription and translation of poems into Vietnamese. 3/ Translation of Hanese poems from Vietnamese poets into Vietnamese, French and English. In every work there are the original letters of Hanese, phonetic transcription and translation of Hanese poems into Vietnamese, French and English. 4/ Phonetic transcription of literature, poems and parallel sentences in Nôm letters (Demotic scrip) into Vietnamese. In every work there are the original letters of Nôm letters and phonetic transcription. 5/ Calligraphy of Hanese letters and Nôm one. To attach special importance to both regular script and freehand cursive writing and a part of scribal script and grass stroke character for reader with easy knowledge.
Up to now the club has published 19 toms of Hanese-Nôm poems, 3 toms of Hanese-Vietnamese bilingual poems and 3 toms of Hanese-Vietnamese-French-English poly-lingual poems, one tom of parallel construction and one tom of calligraphy. In every month the club meets three times to exchange on the various cooperation as follows: 1-On Monday of the second week there is a meeting on composing poems and parallel sentences in Hanese letter.
2- On Tuesday of the third week there is a meeting on translation from Hanese poems of Vietnamese poets into Vietnamese, French and English.
3- On Monday of the fourth week there is a meeting on learning of Haneses letters and translation from Hanese poems into Vietnamese.
The Hanese-Vietnamese-French-English club has got more 40 regular members to gather. Besides there are some others to gather on post from various provinces in homeland and foreign.
The club wish to accept other teachers and friends, colleague to open on knowledge and to make our contributions together to the publicizing of the Hanese-Nôm cultural genius of our nation.
Hà Nội, dated 10/5/2012 The Hanese-Vietnamese-French-English club Add. 7/ 50 Nhân Hòa Str., Nhân Chính Quarter, Thanh Xuân Dist., Hà Nội-Việt Nam. Tel: 04 35 572 351
ĐÁ VÀ VÀNG (Tập I) http://www.thivien.net/forum/%C4%90%C3%A1-v%C3%A0-v%C3%A0ng/topic-IJEW5tEtZVqSYDs_d8FZ5A
TÚC DIÊN HÀ HUYỆN TRỊ DẠ MỘNG TIÊN THẤT CẢM THÀNH PHẠM ĐÌNH HỔ Khách lộ tương tầm nhược hữu nhân Hoàng Giang giang thượng thuỷ liên vân Tử sinh nhất niệm nguyên phi gián Trịnh trọng tư quân bội cảm quân.
Dịch nghĩa :
NGỦ Ở TRỊ SỞ HUYỆN DIÊN HÀ ĐÊM MỘNG THẤY NGƯỜI VỢ QUÁ CỐ CẢM XÚC THÀNH THƠ PHẠM ĐÌNH HỔ Chốn tha hương tìm nhau như có duyên Trên sông Hoàng nước liền với mây Vẫn cho rằng chuyện sinh tử chẳng ngăn cách được đôi ta Trân trọng nhớ nàng, càng bội phần thương nàng.
NGỦ Ở TRỊ SỞ HUYỆN DIÊN HÀ ĐÊM MỘNG THẤY NGƯỜI VỢ QUÁ CỐ CẢM XÚC THÀNH THƠ PHẠM ĐÌNH HỔ Tìm nhau đất khách do duyên Sông Hoàng cuồn cuộn nước liền với mây Chẳng ngăn sống chết xưa nay Quí nàng lòng thấy tràn đầy nhớ thương!
Có duyên đất khách vẫn tìm nhau Mây nước Hoàng Giang tiếp một màu Sống chết không lìa nay vẫn thế Quí nàng thương nhớ lại càng sâu.
EN PENSION AU CHEF-LIEU DU DISTRICT DIEN HA PENSANT À L’ÉPOUSE DÉFUNTE PHAM DINH HO Au lieu inconnu on cherche l’un l’autre unis par liens conjugaux. Sur le fleuve Hoang Giang les cieux se confondent avec les eaux. Vivant ou mourant on ne se sépare jamais comme on considère. Plus on compatit à celle dont on pense tant qu’on la vénérère
НОЧЛЕГ НА УЕЗДИНОМ ЦЕНТРЕ ЗИЕН ХА ВО СНЕ ВИДЕТЬ СВОЮ ПОКОЙНУЮ СУПРУГУ ФАМ ДИНЬ ХО По судьбе мы ищем друг друга на чужом краю На реке Хоанг Занг воды примыкают к облакам Смерть никогда не может нас разделить, я верю Как почитаю её, так я безмерно страдаю!
SƠN TỰ VÃN CHUNG (ĐỀ TIÊU TƯƠNG BÁT CẢNH ĐỒ) PHẠM ĐÌNH HỔ Sơn hàm nhật ảnh thụ mông lung Vận vận hàn kình dạng bích không Lão nạp niêm hoa thành diệu ngộ Tùng đào bách lại hữu vô trung
DịCh nghĩa :
CHUÔNG CHIỀU CHÙA TRÊN NÚI (ĐỀ TRANH TÁM CẢNH SÔNG TIÊU TƯƠNG) PHẠM ĐÌNH HỔ Núi nuốt bóng mặt trời, cây cối mông lung Chuông nện từng hồi lạnh lẽo vào khoãng không xach biếc Sư già hái hoa thành diệu ngộ(*) Tùng bách dạt dào giữa có và không ------------------------ (*) Câu này dịch vẫn tối nghĩa : Có phải là “giác ngộ một cách kì diệu” không? Và ai giác ngộ? Tác giả hay nhà sư?
CHUÔNG CHIỀU CHÙA TRÊN NÚi (ĐỀ TRANH TÁM CẢNH SÔNG TIÊU TƯƠNG) PHẠM ĐÌNH HỔ Mờ mờ cảnh sắc chiều buông Thinh không thánh thót tiếng chuông tan dần Sư già hoa hái, nhận chân Không không, sắc sắc, rì rầm thông reo.
Mặt trời gác núi cảnh mông lung Thánh thót chuông khua vẳng chín tầng Hoa hái sư già người ngộ cảnh Lao xao tùng bách có như không.
LES TINTEMENTS DE LA CLOCHE DE LA PAGODE SUR LA MONTAGNE (SUR LES QUATRE LAVIS DU SITE TIEU TUONG) PHAM DINH HO Au couchant du soleil tout l’espace est brumeux Se répandent les sons de la cloche jusqu’aux cieux Le bonze va cueillir les fleurs, prenant conscience Murmurent les conifères par intermittentes.
ВЕЧЕРНИЕ ЗВОНКИ КОЛОКОЛА ГОРНОЙ ПАГОДЫ (О КАРТИНE ПО ЛАНДШАФТУ ТИЕУ ТУОНГ) ФАМ ДИНЬ ХО На закате темнеет пространство Звонки колокола вселятся в небо Идя на сбор цетов жрец стал сознательным Шопоты хвойных то слышны, то скрыты.
Gà đâu túi bụi Gáy sáng đằng đông Cất ngọn đèn lồng Đóm lui về nghỉ
LUCIOLE
Le soleil se couche derrière le mont La nuit tombe doucement La luciole laborieuse .assidument Allume sa lampe, monte la garde.
Devant le vent frais Elle vole doucement Toute la nuit durant Veille sur l’ènfant dormant.
Les bambous se baissent comme un rideau Les enfants des cigognes dorment tranquillement Une bande de petits oiseaux Sur les branches dorment en ronflant
Etang tranquille Les roseaux dorment silencieusement Une petite fauvette Balbutie en dormant.
ĐỀ SƠN ĐIỂU HÔ NHÂN ĐỒ NGUYỄN TRÃI Thâm sơn tịch mich điểu hô nhân Hoạ lí khan lai diệc bức chân Nhàn quải ngọ song triều thoái nhật Mộng hồi nghi thị cố viên xuân
Dịch nghĩa :
CẢM ĐỀ BỨC TRANH “CHIM NÚI GỌI NGƯỜI” NGUYỄN TRÃI Trong núi sâu vắng vẻ chim (như) gọi người Lối vẽ xem ra cũng gần sát sự thật Nhàn rỗi treo (tranh) ở song cửa sau buổi chầu Trong giấc mơ về quê nhà tưởng đây là vườn xuân xưa cũ
ĐỀ TRANH “CHIM NÚI GỌI NGƯỜI” NGUYỄN TRÃI Rừng sâu chim núi gọi người Trông tranh chẳng khác ngoài đời bao nhiêu Triều về cạnh cửa đem treo Mộng xuân những tưởng đã theo về nhà.
Rừng sâu chim núi gọi người hoài Tranh tả thiên nhiên hệt chẳng sai Bên cửa, tan chầu treo ngắm mãi Mộng về vườn cũ lúc xuân tươi.
LE LAVIS “L’OISEAU SAUVAGE HÈLE LES GENS” NGUYEN TRAI Aux profondeurs du bois l’oiseau hèle les gens Ce lavis est une réplique de la nature Rentré de la Cour, on le suspend près de l’ouverture S’assoupi, on croit rentrer chez soi au printemps.
О КАРТИНЕ «ДИКИЕ ПТИЦЫ ЗОВУТ ЛЮДЕЙ» НГУЕН ЧАЙ В глубокой горе птицы зовут людей Рисунка очень похожа на натуру Вернув со Двора её около окна вешу И грежу что нахожусь в домашнем саду.
MỘ XUÂN TỨC SỰ NGUYỄN TRÃI Nhàn xuân tận nhật bế thư trai Môn ngoại toàn vô tục khách lai Đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai.
Dịch nghĩa : CẢNH XUÂN TÀN NGUYỄN TRÃI: Nhàn rỗi suốt ngày đóng cửa phòng sách Ngoài cửa không có khách tục nào đến Trong tiếng cuốc kêu ý chừng xuân đã gần hết Đầy sân hoa soan nở dưới mưa phùn.
CẢNH XUÂN TÀN NGUYỄN TRÃI Xuân nhàn khép cửa phòng văn, Suốt ngày khách tục không thăm viếng nhà. Cuốc kêu, xuân đã về già, Mưa phùn, xoan nở đầy hoa trước thềm.
Xuân nhàn đóng chặt cửa phòng văn, Khách tục không ai đến viếng thăm. Trong tiếng cuốc kêu, xuân đã vãn. Mưa phùn, xoan nở rộ đầy sân.
LA CHUTE DU PRINTEMPS NGUYEN TRAI Dans l'oisiveté je ferme mon cabinet. Toute la journée personne ne vient me visiter. Crie la poule d 'eau-les jours du printemps finissent. Dans la cour, sous la bruine, les lilas fleurissent.
УПАДОЧНАЯ ВЕСНА НГУЕН ЧАЙ В безделье закрываю свой кабинет Никакой посетитель не подходит к дверью Кричат дергачи, весна приближает к концу На дворе мелкий дождь, расцветают мелии.
MỘNG SƠN TRUNG NGUYỄN TRÃI Thanh hư động lí trúc thiên can Phi bộc phi phi lạc kính hàn Tạc dạ nguyệt minh thiên tự thuỷ Mộng ki hoàng hạc thướng tiên đàn.
Dịch nghĩa : GIẤC MƠ TRONG NÚI NGUYỄN TRÃI: Trong động Thanh Hư có hàng nghìn cây trúc Thác nước bay xuống như tấm gương lạnh Đêm qua trăng sáng, trời như nước Chiêm bao thấy cưỡi hạc vàng bay lên cõi tiên
GIẤC MƠ TRONG NÚI NGUYỄN TRÃI Bạt ngàn rừng trúc Thanh Hư, Thác tung bụi nước, gương mờ đang rơi. Trăng trong nước ngậm màu trời. Hạc vàng mơ cưỡi lên nơi tiên đàn.
Bạt ngàn trúc mọc động Thanh Hư, Thác đổ như gương, bụi nước mờ. Trăng sáng đêm qua trời tựa nước Lên tiên cưỡi hạc thấy trong mơ.
RÊVE DANS LA MONTAGNE NGUYEN TRAI Mille bambous poussent chez la grotte Thanh Hu. Tel un miroir gelé la cascade s'élance. Hier sous la lune eaux et cieux sont d'une nuance. Rêvant, on s'envole aux féeries sur la grue.
СНОВИДЕНИЕ В ГОРЕ НГУЕН ЧАЙ У пещеры Тхань Ху бамбуков растут тысячи Водопад стремительно бросающийся вниз Напоминает холодное зеркало Вчера ночью под луной небо как воды прозрачно Во сне я улетал на феерию на журавли.
NGẪU THÀNH NGUYỄN TRÃI Thế thượng hoàng lương nhất mộng dư Giác lai vạn sự tổng thành hư Như kim chỉ ái sơn trung trú Kết ốc hoa biên độc cựu thư.
Dịch nghĩa :
NGẪU NHIÊN THÀNH THƠ NGUYỄN TRÃI Đời là kết quả của một giấc mộng kê vàng Tỉnh ra mới biết vạn sự đều hoá thành không cả Như nay chỉ thích ở chốn núi non Làm nhà bên hoa mà đọc sách xưa. ------------------ (*) Có bản chép là 父舊 - phụ thư : sách của cha.
THƠ NGẪU NHIÊN LÀM NGUYỄN TRÃI Đời theo đưổi mộng kê vàng, Tỉnh ra mọi thứ rõ ràng hư không. Nay ta chỉ muốn trong rừng Bên hoa dựng lán vui cùng thơ xưa.
Kê vàng theo mãi mộng trên đời, Tỉnh giấc, tay không rõ mấy mươi. Trong núi, bên hoa, ta chỉ muốn Dựng nhà, đọc sách thuở xưa thôi.
VERS FORTUITS NGUYEN TRAI Au monde on poursuit les rêves de millet jaune. Réveillé, on n'aperçoit que tout est néant. Une baraque à la montagne maintenant Pour lire à côté des fleurs les bouquins, on prône.
СЛУЧАЙНЫЕ ЗАПИСКИ НГУЕН ЧАЙ На свете мечтают о счастливой жизни Проснулись оказалось что всё это ничто Теперь жить в лесу единственное чаяние В домике вблиз цветов читать древние книги.
THÔN XÁ THU CHÂM NGUYỄN TRÃI Mãn giang hà xứ hưởng đông đinh Dạ nguyệt thiên kinh cửu khách tình Nhất chủng Tiêu quan chinh phụ oán Tổng tương li hận nhập thu thanh.
Dịch nghĩa::
MÙA THU Ở QUÁN TRỌ TRONG THÔN NGHE TIẾNG CHÀY ĐẬP VẢI NGUYỄN TRÃI Từ đâu tiếng đập vải thình thịch vang khắp trên sông Làm kinh động lòng khách trú suốt đêm qua Như nỗi oán hận của người vợ có chồng đang ở ngoài quan ải Cả một nỗi hận chia li như thấm vào tiếng thu.
MÙA THU Ở QUÁN TRỌ TRONG THÔN NGHE TIẾNG CHÀY ĐẬP VẢI NGUYỄN TRÃI Thậm thình đập vải trên sông Trăng khuya, đất lạ khách lòng xốn xang Như lời gửi tới Tiêu Quan Của người chinh phụ oán hờn biệt li.
Thậm thình đập vải rộn trên sông Trăng sáng, tha hương khách chạnh lòng Như tiếng oán hờn chinh phụ gửi Tiêu Quan li hận ở bên trong.
LES ÉCHOS DE BATTAGE DES TISSUS EN AUTOMNE NGUYEN TRAI D'où les échos de battage des tissus Sur cette rivière se sont répandus? Au clair de lune le voyageur s'attendrit De la voix d'automne qui retentit Telle la haine que la femme solitaire Du guerrier envoie à la frontỉère.
НОЧЛЕГ У ХУТОРА НА БЕРЕГУ РЕКИ ОСЕНЬЮ НГУЕН ЧАЙ Звучащее на реке эхо молотьбы ткани Под луной растрогают путешественника Осенние звуки как злоба за разлуку Что жена война посылает на границу.