義 柱 橋 口 占
范 廷 琥
雲 擁 蜃 樓 橫 兩 岸
日 移 虹 影 印 長 沙
塵 中 誰 是 題 橋 客
拂 袖 歸 來 駟 馬 車
NGHĨA TRỤ KIỀU KHẨU CHIẾM (*)
PHẠM ĐÌNH HỔ
Vân ủng thận lâu hoành lưỡng ngạn
Nhật di hồng ảnh ấn trường sa
Trần trung thuỳ thị đề kiều khách
Phất tụ qui lai tứ mã xa.(**)
Dịch nghĩa ;
NHẨM BÀI THƠ VỀ CẦU NGHĨA TRỤ
PHẠM ĐÌNH HỔ
Mây ôm lầu ảo vắt ngang đôi bờ
Mặt trời dời bóng cầu vồng in lên bãi cát
Trong đám bụi trần ai là khách đề thơ lên cầu
Phất tay áo dong xe tứ mã trở về.
------------------------
(*) Cầu bắc qua sông Nghĩa Trụ ở huyện Văn Giang, Hưng Yên.
(**) Điển tích : Tư Mã Tương Như, đời Hán, thuở hàn vi, khi đi qua cầu
ở phía tây Tràng An có đề vào chân cầu :” Nếu ta không ngồi xe, cưỡi
ngựa thì không trở lại cầu này”.
- PHẠM ĐÌNH HỔ (1768-1839), người Hải Dương, bạn của nữ sĩ HỒ
XUÂN HƯƠNG, đi thi nhiều làn chỉ đỗ Tú Tài. Làm quan đời nhà NGUYEN chức Thừa chỉ Viện Hàn Lâm, Tế Tửu Quốc Tử Giám, Thị giảng Học Sĩ. Có nhiều tác phẩm về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí.
NHẨM BÀI THƠ VỀ CẦU NGHĨA TRỤ
PHẠM ĐÌNH HỔ
Mây ôm lầu ảo ngang sông.
Bãi xa cát trắng cầu vồng bóng soi.
Chân cầu thơ khắc, ai người:
Rong xe tứ mã về chơi cầu này!
Mây ôm lầu ảo vắt ngang sông.
Cát trắng bãi xa bóng cầu vồng.
Thơ khắc chân cầu ai đó tá?
“Quay về bốn ngựa thẳng xe dong!”
POÈME MENTAL SUR LE PONT NGHIA TRU
PHAM DINH HO
Les nues couvrent le palais fictif reliant deux rives.
L’arc-en-ciel jète sur le lais son ombre qui dérive.
Qui a laissé sur le pilier de ce pont son écrit:
“Sans doute sur la carrosse je reviendrai ici!”
ПОЭМА ПРО СЕБЯ О МОСТЕ НГИА ЧУ
ФАМ ДИНЬ ХО
Покрывают мнимый дворец на реке облака.
Набросает свою сень на нанос радуга.
Кто оставил свои стихи на опоре моста,
Которые заявили бодро:
“Повернюсь здесь на тройке несомненно!”
(Вольный перевод)
NGUYỄN CHÂN 28.03.2012
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
經 義 柱 橋 次 原 韻
范 廷 琥
又 從 義 柱 溪 頭 過
鷗 爪 依 依 篆 白 沙
吟 罷 舊 題 還 自 笑
窮 途 猶 自 步 當 車
KINH NGHĨA TRỤ KIỀU THỨ NGUYÊN VẬN
PHAM ĐÌNH HỔ
Hựu tòng Nghĩa Trụ khê đầu quá
Âu trảo y y triện bạch sa
Ngâm bãi cựu đề hoàn tự tiếu
Cùng đồ do tự bộ đương xa.
Dịch nghĩa :
LẠI QUA CẦU NGHĨA TRỤ HOẠ NGUYÊN VẦN
PHẠM ĐÌNH HỔ
Lại theo đầu ngòi Nghĩa Trụ mà đi qua
Móng chim âu rành rành hằn trên cát trắng
Nhẩm câu thơ đề trên cầu khi trước lại cười mình
Cùng đường còn tự bước, đua với xe.
LẠI QUA CẦU NGHĨA TRỤ HOẬ NGUYÊN VẦN
PHẠM ĐÌNH HỔ
Lại qua Nghĩa Trụ đầu ngòi
Móng chim vẫn đậm trên doi cát vàng
Nhẩm câu thơ cũ cười khàn
Cùng đường chạy bộ đua quàng với xe!
Nghĩa Trụ đầu sông lại trở về
Dấu chim trên cát vẫn chưa nhoè
Thơ xưa nhẩm lại cười trong bụng
Chạy bộ đường cùng rỡn với xe!
RÉPONSE AU POỀME MENTAL SUR LE PONT NGHIA TRU
PHAM DINH HO
Ici, au pont Nghia Tru on vient de s’en retourner
Les traces des mouettes restent encor sur le sable
On se rémémore aux anciens vers et rit sous cape:
À l’impasse à concourir avec la carrosse on se met!
NGUYỄN CHÂN 29.03.2012
ОТВЕТ НА ПОЭМУ О МОСТЕ НГИА ЧУ
ФАМ ДИНЬ ХО
Хожу опять вдоль этой реки.
Следы чаек на песках ещё видны.
Повторю старые стихи, щутя над собой:
В тупике хочется ещё
Пешком вступить в гонку с тройкой!
NGUYỄN CHÂN 30.03.2012 (Вольный перевод)
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
經 義 柱 橋 次 原 韻
范 廷 琥
又 從 義 柱 溪 頭 過
鷗 爪 依 依 篆 白 沙
吟 罷 舊 題 還 自 笑
窮 途 猶 自 步 當 車
KINH NGHĨA TRỤ KIỀU THỨ NGUYÊN VẬN
PHAM ĐÌNH HỔ
Hựu tòng Nghĩa Trụ khê đầu quá
Âu trảo y y triện bạch sa
Ngâm bãi cựu đề hoàn tự tiếu
Cùng đồ do tự bộ đương xa.
Dịch nghĩa :
LẠI QUA CẦU NGHĨA TRỤ HOẠ NGUYÊN VẦN
PHẠM ĐÌNH HỔ
Lại theo đầu ngòi Nghĩa Trụ mà đi qua
Móng chim âu rành rành hằn trên cát trắng
Nhẩm câu thơ đề trên cầu khi trước lại cười mình
Cùng đường còn tự bước, đua với xe.
LẠI QUA CẦU NGHĨA TRỤ HOẬ NGUYÊN VẦN
PHẠM ĐÌNH HỔ
Lại qua Nghĩa Trụ đầu ngòi
Móng chim vẫn đậm trên doi cát vàng
Nhẩm câu thơ cũ cười khàn
Cùng đường chạy bộ đua quàng với xe!
Nghĩa Trụ đầu sông lại trở về
Dấu chim trên cát vẫn chưa nhoè
Thơ xưa nhẩm lại cười trong bụng
Chạy bộ đường cùng rỡn với xe!
RÉPONSE AU POỀME MENTAL SUR LE PONT NGHIA TRU
PHAM DINH HO
Ici, au pont Nghia Tru on vient de s’en retourner
Les traces des mouettes restent encor sur le sable
On se rémémore aux anciens vers et rit sous cape:
À l’impasse à concourir avec la carrosse on se met!
NGUYỄN CHÂN 29.03.2012
ОТВЕТ НА ПОЭМУ О МОСТЕ НГИА ЧУ
ФАМ ДИНЬ ХО
Хожу опять вдоль этой реки.
Следы чаек на песках ещё видны.
Повторю старые стихи, щутя над собой:
В тупике хочется ещё
Пешком вступить в гонку с тройкой!
NGUYỄN CHÂN 30.03.2012 (Вольный перевод)
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
NGHĨA TRỤ KIỀU KHẨU CHIÊM
Phạm đình Hổ
PHIÊN ÂM :
Vân ủng thận lâu hoành lưỡng ngạn
Nhật di hồng ảnh ấn trường sa
Trần trung thùy thị đề kiều khách
Phất tụ quy lai tứ mã xa
DỊCH NGHĨA:
Mây ôm cầu ảo vắt ngang đôi bờ
Mặt trời dời bóng cầu in lên bãi cát
Trong đám bụi trần ai là khách đề thơ lên cầu
Phất tay áo trở về dong xe tứ mã
DỊCH THƠ:
Mây ôm cầu ảo vắt đôi bờ
Trời dịch bóng cầu bãi cát xa
Ai khách bụi trần thơ một áng
Dong xe tứ mã khải hoàn ca
Trịnh Phúc Nguyên dịch thơ
POEME PAS ENCORE ECRIT SUR LE PONT NGHIA TRU
Le pont nuageux illusoire ẹnjambe le fleuve
Le soleil projette son ombre sur le sable
Quel visiteur d’ici-bas y a inscrit le poeme
Je serai de retour en carosse à quatre chevaux
Tr. Trịnh Phúc Nguyên
(/I)(/color)(/size)(/b)(/quote)
Vui buồn ký ức thời quân ngũ
Thanh thản tâm hồn lúc nghỉ hưu
Đường cong cuộc sống dài bao nữa
Vẫn cứ yêu đời chẳng quanh hiu
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
quote]
KINH NGHĨA TRỤ KIỀU THỨ NGUYÊN VẬN
Phạm Đình Hổ
Hựu tòng Nghĩa Trụ khê đầu quá
Âu trào y y triện bạch sa
Ngâm bãi cựu đề hoàn tự tiếu
Cùng đồ do tự bộ đương xa
DỊCH NGHĨA:
Lại theo đầu ngòi Nghĩa Trụ mà đi qua
Móng chim âu dành dành hằn trên cát trắng
Đọc xong câu thơ đề trên cầu khi trước lại cười mình
Cùng đường còn tự bước đua với xe
DỊCH THƠ:
HỌA NGUYÊN VẦN: LẠI QUA CẦU NGHĨA TRỤ
Đầu ngòi Nghĩa trụ lại đi qua
Cát trắng chim âu in móng to
Đọc lại thơ mình thêm tự thẹn
Cùng đường còn bước ruổi theo xe
Trịnh Phúc Nguyên dịch thơ
DE RETOUR EN TRAVERSANT LE PONT NGHIA TRU
(Poème de réplique aux mêmes rimes)
Je traverse le pont à l’embouchure du fleuve
Les griffes de mouettes s’impriment sur le sable
Je me moque de moi-même ,lísant le poème
Acculé à l’impasse,osant rivaliser avec le carosse
Tr. Trịnh phúc Nguyên
[/color][/b][/size][/quote]Vui buồn ký ức thời quân ngũ
Thanh thản tâm hồn lúc nghỉ hưu
Đường cong cuộc sống dài bao nữa
Vẫn cứ yêu đời chẳng quanh hiu
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
PHAN THỊ THANH NHÀN
HƯƠNG THẦM
Cửa sổ hai nhà cuốiphố
Không hiêủ vì sao không khép bao giờ
Đôi bạn ngày xưa học chung một lớp
Cây bưởi sau nhà ngan ngát hương đưa
Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay
Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm
Bên ấy có người ngày mai ra trận
Họ ngồi yên không biết nói chi
Mắt chợt nhìn nhau rồi lại quay đi
Nào ai đã một lần dám nói ?
Hoa bưởi thơm cho lòng bối rối
Anh không dám xin
Cô gái chẳng dám trao
Chỉ mùi hương đầm ấm thanh tao
Không giấu đươc cứ bay dịu nhẹ
Cô gái như chùm hoa lặng lẽ
Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu
-“Anh vô tình anh chẳng biết điều
Tôi đã đến với anh rồi đấy”…
Rồi theo từng hơi thở của anh
Hương thơm ấy thấm sâu vào lồng ngực
Anh lên đường
Hương sẽ theo đi khắp
Họ chia tay
Vẫn chẳng nói điều gì
Mà hương thầm thơm mãi bước ngươì đi
1969
PHAN THỊ THANH NHÀN
PARFUM CACHÉ
Les fenêtres de deux maisons d’une rue
On ne sait pourquoi,ne sont jamais fermées
Ils étaient deux camarades de même classe
Le pamplemoussier répand sa fragrance.
Cachant une touffe de fleurs dans son mouchoir
La jeune fille hésite,passe chez son voisin
Là,une personne demain s’en ira au front.
Ils restent assis, en silence,sans mot dire
Leurs yeux soudain se cherchent,soudain se détournent
Qui donc oserait jamais prendre la parole?
Cependant,le parfum des fleurs trouble leur coeur.
Il n’ose pas demander
Elle n’ose pas donner
Mais le doux parfum des fleurs,qu’on ne peut cacher
Continue à se répandre autour d’eux
Comme la touffe de fleurs silencieuse,
Elle demande au parfum d épancher son amour:
-Oh!ínsensible que tu es,mon cher ami,
Ne sais –tu pas que je suis venue,me voici!
Dès lors,à chaque souffle qu’il respire
Le parfum pénètre jusqu’au fond de son coeur
Il part
le parfum le suivra partout
Ils se sont quittés
toujours sans mot dire
Mais le parfum caché embaume toujours les pas du partant.
Tr. Trịnh Phúc Nguyên
Vui buồn ký ức thời quân ngũ
Thanh thản tâm hồn lúc nghỉ hưu
Đường cong cuộc sống dài bao nữa
Vẫn cứ yêu đời chẳng quanh hiu
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
寨 頭 春 渡
阮 豸
渡 頭 春 草 綠 如 煙
春 雨 添 來 水 拍 天
野 徑 荒 涼 行 客 少
孤 舟 鎮 日 擱 沙 眠
TRẠI ĐẦU XUÂN ĐỘ
NGUYỄN TRÃI
Độ đầu xuân thảo lục như yên
Xuân vũ thiêm lai thuỷ phách thiên
Dã kính hoang lương hành khách thiểu
Cô chu trấn nhật các sa miên.
Dịch nghĩa :
BẾN ĐÒ XUÂN ĐẦU TRẠI
NGUYỄN TRÃI
Nơi đầu bến đò cỏ xuân xanh như khói
Lại thêm mưa xuân nước vỗ trời
Đường quê hoang vắng ít người qua lại
Một con thuyền lẻ loi suốt ngày ngủ trên bãi cát.
BẾN ĐÒ XUÂN ĐẦU TRẠI
NGUYỄN TRÃI
Xanh rờn đầu bến cỏ xuân,
Lại thêm mưa bụi nước ngân lưng trời.
Đường quê thưa thớt bóng người,
Suốt ngày gối bãi, đò côi ngủ tràn.
Xanh rờn đầu bến cỏ xuân tươi
Mưa bụi đem giăng nước khắp trời.
Khách vắng, đường quê hiu quạnh quá,
Suốt ngày gối bãi ngủ thuyền côi.
LE PRINTEMPS SUR L'EMBARCADERE
AU BOUT DU HAMEAU
NGUYEN TRAI
Les herbes du printemps verdoient sur l'embarcadère.
De la bruine, le ciel parait tout mouillé
Peu de passagers sur le sentier désolé,
Sur la berge ensablée dort la barque solitaire.
ПРИЧАЛ ВБЛИЗИ ХУТОРА ВЕСНОЙ
НГУЕН ЧАЙ
Как дым зеленит вешняя трава на причале
Изморось как будто брызгает воду в небе
Тропинка с заброшенным мостиком безлюдна
Целый день на песках сиротливо спит лодка.
NGUYỄN CHÂN 06.09.2008 (ВП20.05.2012)
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
題 伯 牙 鼓 琴 圖
阮 豸
鐘 期 不 作 鑄 金 難
獨 抱 瑤 琴 對 月 彈
靜 夜 碧 霄 涼 似 水
一 聲 鶴 唳 九 皋 寒
ĐỀ BÁ NHA CỔ CẦM ĐỒ
NGUYỄN TRÃI
Chung kì bất tac chú kim nan
Độc bão dao cầm đối nguyệt đàn
Tĩnh dạ bích tiêu lương tự thuỷ
Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn
Dịch nghĩa ;
VỊNH TRANH “BÁ NHA GẢY ĐÀN”
NGUYỄN TRÁI
Khó đúc tượng vàng để tạo lại một Chung Kì
Một mình ôm đàn ngọc đánh dưới trăng
Đêm nay bầu trời trong xanh tươi mát như nước
Một tiếng hạc kêu lạnh lẽo nơi cảnh chín chằm.
ĐỀ TRANH “BÁ NHA GẢY ĐÀN”
NGUYỄN TRÃI
Chung Kì, khó đúc tượng vàng
Lựa cung, lẻ bạn ôm đàn dưới trăng
Nước, trời đêm lặng, mát trong
Hạc kêu một tiếng giá băng chín chằm
Tượng vàng đổi lại Chug Kì, khó
Lẻ bạn ôm đàn gảy dưới trăng
Đêm lặng, trời xanh trong tựa nước
Hạc kêu một tiếng lạnh muôn chằm.
SUR LE TABLEAU
“BA NHA JOUANT DE LA MUSIQUE”
NGUYEN TRAI
Même un buste en or ne peut remplacer Chung Ki
Solitaire, il joue du luth sous la Reine de nuit.
Nuit calme. L’azur frais reflète l’eau toute entière
Un cri de flamant neuf marécages réfrigère.
О КАРТИНЕ «БА НЯ ИГРАЕТ МУЗЫКУ»
НГУЕН ЧАЙ
Золотым бюстом не заменяется Тюнг Ки
Одиночно под луной друг играет на лютни
Тихая ночь, прохладны воздух и вода
Кричит журавль, девять болот охлаждаются
NGUYỄN CHÂN 26.10.2008 (ВП 24.05.2012)
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
PHẠM TIẾN DUẬT
TRƯỜNG SƠN ĐÔNG-TRƯỜNG SƠN TÂY
Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây
Một dẫy núi mà hai mầu mây
Nơi nắng nơi mưa khí trời cũng khác
Như anh với em,như Nam với Bắc
Như đông với tây một dải rừng liền
Trường Sơn tây anh đi,thương em
Bên ấy mưa nhiều con đường gánh gạo
Muỗi bay rừng già cho dài tay áo
Hết rau rồi ,em có lấy măng không?
Em thương anh bên tây mùa đông
Nước khe cạn bướm bay lèn đá
Biết lòng anh say miền đất lạ
Chắc em lo đường chắn bom thù
Anh lên xe trời đổ cơn mưa
Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ
Em xuống núi nắng về rực rỡ
Cái nhành cây gạt mối riêng tư
Đông sang tây không phải đường thư
Đường chuyển đạn và đường chuyển gạo
Đông Trường Sơn,cô gái “ba sẵn sàng” xanh áo
Tây Trường Sơn bộ đội áo mầu xanh
Từ nơi em gửi đến nơi anh
Những đòan quân trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối dài vô tận
Đông Trường Sơn nối tây Trường Sơn
[/color]]/b][/size]]/i][/quote]
TRƯỜNG SƠN ĐÔNG – TRƯỜNG SƠN TÂY (*)TRUONG SON EST – TRUONG SON OUEST
Nous lions le hamac dans la même forêt
Mais aux deux bouts lointains nous sommes séparés
En cette saison,le chemin au front est beau
A Truong Son Est,languissant,je pense à l’Ouest.
Une montagne mais deux couleurs de nuage
Ici-soleil,là-pluie;climats différents
Comme toi et moi,comme le Nord et le Sud
Comme les deux versants d’une même montagne.
Je parcours Truong Son Ouest,compatissant à toi
Là.la pluie inonde le chemin de transport du riz
Dans la forêt vierge, pleine de moustiques
Tu dois rabattre les manches de ta vareuse
Plus de légumes, vas-tu chercher des pousses(**)?
Tu compatis à moi,en hiver ,à l’Ouest
Ruisseaux à sec, papillons survolant les rocs
Tu sais, je m’enivre des terres inconnues
Et certes,tu t’inquiètes pour nos chemins
Coupés par les bombardements des ennemis
Je monte sur le camion, il pleut à verse
L’essuie-glace court,chasse ma nostalgie
Tu descends la montagne, le soleil rayonne
Tu écartes les branches, chasse tes ennuis
Route Est-Ouest n’est pas chemin du courrier
C’est pour transporter des munitions et du riz
À Truong Son Est, la jeune fille “prête à servir”,en vareuse verte
À Truong Son Ouest,le soldat,prêt à combattre, aussi vareuse verte
De ton lieu jusqu’au mien, se succèdent sans fin
Des troupes et des troupes, allant jusqu’au front
Comme des chaines de l’amour,se succédant à l’infini
Et Truong Son Est va rejoindre Truong Son Ouest.
Tr. TRỊNH PHÚC NGUYÊN
NB(*)TRƯỜNG SƠN=longue chaine montagneuse au centre du VietNam
Autrefois ,appelee Cordillere annamitique
(**)pousses= pousses de bambou
Vui buồn ký ức thời quân ngũ
Thanh thản tâm hồn lúc nghỉ hưu
Đường cong cuộc sống dài bao nữa
Vẫn cứ yêu đời chẳng quanh hiu
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
TÚC DIEN HÀ HUYỆN TRỊ
DẠ MỘNG TIÊN THẤT CẢM THÀNH
Phạm Đình Hổ
Khách lộ tương tầm nhược hữu nhân
Hoàng Giang giang thượng thủy liên vân
Tử sinh nhất niệm nguyên phi gián
Trịnh trọng tư quân bội cảm quân
Dịch nghĩa:
NGỦ Ở TRỤ SỞ HUYỆN DIÊN HÀ
ĐÊM MỘNG THẤY NGƯỜI VỢ QUÁ CỐ
Cảm xúc thành thơ
Phạm Đình Hổ
Chốn tha hương tìm nhau như có duyên
Trên sông Hoàng nước liền với mây
Vẫn cho rằng chuyện sinh tử
chẳng ngăn cách được đôi ta
Trân trọng nhớ nàng,càng bội phần thương nàng
ĐÊM MỘNG NHỚ NGƯỜI VỢ QUÁ CỐ
(Nơi trụ sở huyện Diên Hà)
Phạm đình Hổ
Tìm bạn tha hương ấy số duyên
Sông Hoàng bát ngát nước mây liền
Dẫu rằng sống chết không chia cắt
Mộng thấy nàng bên bao nhớ thương…
EN SONGE , SE SOUVENANT DE FEUE L’ÉPOUSE
(Au siege du district Diên Hà )
C’est le destin qui nous unit à l’étranger
Sur le fleuve Jaune,nuages et eaux se confondent
Quoique mort ou vie ne puissent nous séparer
Tant je pense à toi, tant je sens mon coeur serré.
Tr. Trịnh Phúc Nguyên
Vui buồn ký ức thời quân ngũ
Thanh thản tâm hồn lúc nghỉ hưu
Đường cong cuộc sống dài bao nữa
Vẫn cứ yêu đời chẳng quanh hiu
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook