Giới thiệu: CLB Thơ Hán Việt Pháp Anh, thuộc Hội cựu giáo chức Việt nam, thành lập đã gần 20 năm, nhiều thành viên là người cao tuổi. Trang này nhằm giới thiệu các bài viết, bài dịch, sáng tác của thành viên Câu lạc bộ. Vậy xin trân trọng với bạn đọc trong Thi viện và mời cùng tham gia.
Về dịch thơ, đề nghị bạn hãy đọc kỹ hướng dẫn trong chủ đề được đính ở trên cùng của diễn đàn Dịch thơ. Bạn có thể mở chung một chủ đề các tác phẩm thơ dịch của các thành viên CLB. Riêng về các thể tài khác, NT có ý kiến như sau:
-Về bài viết, xin bạn hãy mở chủ đề ở các diễn đàn dành cho thể loại văn xuôi. -Về thơ sáng tác, đề nghị bạn mở chủ đề trong diễn đàn Thơ thành viên-Thơ mới. NT
野菜嫩黃風淡淡, 江花凝碧雨班班。 金光人去無消息, 九曲雲溪朝暮閒。 VŨ LÂM ĐỘNG Lê Liêm
Dã thái nộn hoàng phong đạm đạm Giang hoa ngưng bích vũ ban ban Kim quang nhân khứ vô tiêu tức Cửu khúc vân khê triệu mộ nhàn
ĐỘNG VŨ LÂM Lê Liêm Nguyễn Kinh Quốc dịch
Non mượt rau đồng gió nhẹ đưa Hoa bờ sông biếc giọt mưa thưa Người tiên đi vắng không tin tức. Hôm sớm rỗi nhàn, mây lửng lơ THE VŨ LÂM CAVE Lê Liêm Translated by Nguyễn Kinh Quốc
Winds lightly fly through the glossy young vegetable field. When it drizzles, at the river bank the flowers are bluish green. Faire woman’s absent, there is no news From the morning to the evening the hovering cloud’s free.
.
ĐÁ VÀ VÀNG (Tập I) http://www.thivien.net/forum/%C4%90%C3%A1-v%C3%A0-v%C3%A0ng/topic-IJEW5tEtZVqSYDs_d8FZ5A
TỐNG BIỆT TẢN ĐÀ Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai. Suối tiễn, oanh đưa luống ngậm ngùi. Nửa năm tiên cảnh, Một phút trần ai. Ước cũ, duyên thừa có thế thôi! Đá mòn, rêu nhạt, Nước chảy, huê trôi. Cái hạc bay lên vút tận trời. Trời đất từ đây xa cách mãi. Cửa động, Đầu non, Đường lối cũ, Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi
L'ADIEU Les fleurs de pêcher parsèment l'allée des fées La source et le loriot reconduisent l’amant Qui quitte ce site, plein d’attendrissements. Au bas-monde un pas, fin au semestre à l'Éden. Rien ne reste de la chance et d'ancien serment. Les roches corrodées. Les mousses délavées, Les eaux s’écoulent, charriant les fleurs tombées. La grue s'envole à tire-d'aile au firmament. L'un séparé de l'autre indéfectiblement. Devant la grotte, sur la sente d'autrefois Longeant le versant, le clair de lune errera Mille ans rêveusement et silencieusement.
Я ВАС ЛЮБИЛ (1) ПУШКИН А. С. Я вас любил, любовь ещё, быть может В душе моей угасла не совсем. Но пусть она вас болше не тревожит, Я не хочу печалить вас ничем.
Я вас любил безмолвно, безнадежно, То робостю, то ревностю томим.(2) Я вас любил так искренно, так нежно, Как дай вам бог любимой быть другим. 1829
TÔI ĐÃ YÊU NÀNG PUSHKIN A.C. Tôi đã yêu, nhưng vẫn còn có thể Ngọn lửa tình chưa dễ tắt trong tim. Nhưng tôi thôi, không làm phiền nàng nữa, Không để tình lần lữa quấy rầy ai.
Âm thầm yêu, chẳng mong nàng đáp lại. Lúc e dè, khi hăng hái, khổ nhau.(2) Yêu chân thành, luôn trìu mến trước sau. Người theo nàng tôi cầu Trời phù hộ : Sẽ yêu nàng như từ thuở tôi yêu!
JE VOUS AI AIMÉE POUCHKINE A.S. Je vous ai aimée, pourtant dans mon âme L'amour, peut-être, reste encore en flamme. Qu'il ne vous inquiète plus! C'est mon voeu. Que vous n'en occupiez vous, même un peu!
Sans espoir, je vous aimais en silence. Tantôt le zèle, tantôt la pudeur Nous a causé fréquemment des langueurs.(3) Mon amour pour vous est tendre et sincère. Je supplie Dieu : Un autre soupirant Vous aimerait de pareille manière.
(Adaptation de NGUYỄN CHÂN) 25.02.2010 ---------------------- (1)Tác giả dùng BAC, chứ không TEБЯ, tỏ vẻ tôn trọng, nên tôi không dịch là EM. Tiếng Việt không có từ tương đương. Tôi tạm dịch là nàng, ngôi thứ hai. Đây là Ông viết về tình yêu đối với Anna Ôlênina con một nhà quí tộc, quen biết từ trước, sau những năm bị đi dầy trở về, nhưng không được nàng đáp ứng và gia đình nàng cũng không ưng thuận. (2) Chữ РЕВНОСТЬ đối nghịch với РОБОСТЬ(RỤT RÈ, E THẸN) nên tôi dịch theo nghĩa khác : SỐT SẮNG, NHIỆT TÌNH. Hơn nữa trong bài thơ không chỗ nào nói đến "tình địch" và trong thực tế cũng không có nên không có GHEN TUÔNG. (3) So sánh 2 câu 6 và 7 tiếng Pháp với 2 câu sau, nên chọn 2 câu nào «C'est la pudeur ou le zèle parfois Nous a causé beaucoup de désarrois" ?
NHỚ VỀ THÀNH THĂNG LONG CŨ BÀ HUYỆN THANH QUAN Tạo hoá gây chi cuộc hí trường Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo Nền cũ lâu đài bóng tịch dương Đá vẫn bền gan cùng tuế nguyệt Nước còn chau mặt với tang thương Nghìn năm gương cũ soi kim cổ Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ THANH QUAN HUYỆN DOÃN PHU NHÂN Tạo hoá vi hà triệu hí trường Chí kim nhẫm nhiễm kỉ tinh sương Liễn xa cổ tích điêu thu thảo Lâu các trần cơ diệu tịch dương Thạch dĩ phi can đồng tuế nguyệt Thuỷ do trứu diện đối tang thương Thiên niên cựu kính minh kim cổ Đối cảnh thời nhân dục đoạn trường
REGRETS DE LA VIEILLE CAPITALE THANG LONG LA SOUS-PRÉFÈTE DE THANH QUAN Pourquoi Dieu monte cette scène de badinage Qui se déroule des siècles jusqu’à présent Les herbes étiolées hantent les chemins d’antan Où défilaient tant de chevaux et équipages Les fondements des palais d’autrefois s’étalent Actuellement sous la clarté vespérale Les pierres persistent mois et années durant Les eaux se renfrognent devant ces changements Le miroir du jadis depuis toujours éclaire Sans distinctions les évènements millénaires Oh! Qu’on souffre devant ce spectacle déchirant
QUA ĐÈO NGANG BÀ HUYÊN THANH QUAN Qua đỉnh Đèo Ngang bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. Lom khom dưới núi, tiều vài chú, Lác đác bên sông, rợ mấy nhà.(*) Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.(**) Dừng chân đứng lại : trời, non, nước,(***) Một mảnh tình riêng ta với ta!
QUÁ HOÀNH ĐIÊN THANH QUAN HUYỆN DOÃN PHU NHÂN Bộ đáo Hoành Điên nhật dĩ tà. Thạch xâm thảo thụ, diệp xâm hoa. Phủ thân sơn hạ, tiều tam lưỡng, Sơ lạc giang biên, tục sổ oa. Đỗ vũ hoài bang minh "quốc quốc", Giá cô thương quyến khiếu "gia gia". Hồi đầu, đình bộ : thiên, sơn, thủy, Nhất phiến tư tình, độc tự ta!
AU COL DEO NGANG LA SOUS – PRÉFÈTE DE THANH QUAN On arrive au col Deo Ngang juste au crépuscule. Buissons et pierres, feuilles et fleurs se bousculent. Dans la vallée deux-trois gens cherchent les bûchettes. De loin s'entrevoient quelques gîtes riverains. Se lamente de sa patrie la marouette, Chiale de sa famille le francolin. On s'arrête, monts, eaux et cieux innondent les yeux, Garder sa confidence en soi, seul ce qu'on peut! ------------------ (*)Đã từ lâu người ta tranh lụân mãi "chợ mấy nhà" hay "rợ mấy nhà. "Chợ" thì chẳng ăn nhập gì cả. Còn "rợ" thì bảo là phân biệt chủng tộc, coi thường người dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, cần nhớ đây là vào thời của tác giả. Ngay những năm 1943-1944, ở quê tôi (Thị Cầu-Bắc Ninh), Pháp đưa một số lính người Tây Nguyên ra để "chống Nhật", dân vẫn gọi là "lính Mọi". Hơn nữa nếu là "chợ" thì sao "đối" được với "tiều"? Vì vậy tôi cho"rợ" có lí hơn. (**)" Quốc quốc, gia gia" cũng tranh luận mãi. Quốc quốc thì ổn, nhưng "gia gia", có người cho là "da da" lại có người bảo phải là "đa đa". Riêng tôi cho đây la từ chỉ có nghĩa "đối" với "quốc quốc", vì vậy "gia gia", đúng hơn. "Quốc quốc" là tương thanh nhưng"gia gia" thì không, mà "đa đa" cũng không phải. Nó là chim đa đa, nhưng lại kêu"bắt tép kho cà", còn có tên là con gà gô. (***) Câu 7 các sách xưa nay viết như trên, nhưng khi chuyển ngữ, tôi thấy đã "dừng chân" thì đương nhiên là "đứng lại" rồi, vì vậy trong bản Hán văn, tôi thêm "hồi đầu-ngoảnh lại", còn trong bản Pháp văn tôi chỉ để một chữ "On s'arrête" thôi.
CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ BÀ HUYỆN THANH QUAN Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn. Tiếng ốc xa đưa lẫn trống đồn. Gác mái ngư ông về viễn phố. Gõ sừng mục tử lại cô thôn. Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi, Dặm liễu sương sa khách bước dồn. Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ, Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn !
NHẬT MỘ HOÀI GIA THANH QUAN HUYỆN DOÃN PHU NHÂN Tà dương lãnh tịch phiếm hoàng hôn Giác cổ thanh văn tự viễn đồn, Ngư phủ các nhiêu qui viễn phố, Mục đồng xao giác phục cô thôn. Mai lâm phong động nha phi quyện, Liễu mạch sương thuỳ khách cấp bôn. Nhân tại Chương Đài, nhân lữ thứ, Dữ thuỳ khả dĩ tự hàn ôn !
LE MAL DE LA FAMILLE AU SOIR LA SOUS-PRÉFÈTE DE THANH QUAN Tremblote la faible lueur crépusculaire. Le cor et le tambour du poste font tintouin. Posant la rame le pêcheur gagne un bord lointain, Frappant les cornes le pâtre rentre au hameau solitaire. L'oiseau se débat dans le vent sur la forêt. Le voyageur presse ses pas, longeant les saulées. L'un est en route, mais l'autre est dans leur foyer, Avec qui pourrait-on les peines partager !
TỨC CẢNH CHIỀU THU BÀ HUYỆN THANH QUAN Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa, Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ. Xanh um cổ thụ tròn xoe tán, Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ. Bầu giốc giang sơn say chấp rượu, Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ. Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ, Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ !
THU NHẬT MỘ TỨC CẢNH THANH QUAN HUYỆN DOÃN PHU NHÂN Vũ đả ba tiêu minh phách phách, Tiêu sơ hoạ cảnh xứng gia na. Lục du cổ thụ liên viên tản, Ngân bạch trường lưu bình hoạt xa. Hồ đảo giang sơn châm tửu tuý, Nang trung phong nguyệt mãn thi ca. Ái nhân cảnh dĩ chân kì phủ, Đối thử lãnh tâm khả nại hà!
PAYSAGE DU SOIR D'AUTOMNE LA SOUS- PRÉFÈTE DE THANH QUAN La pluie frappe aux feuilles des bananiers régulièrement. Le Créateur est louable de ce site séduisant. Les feuillages ronds séculaires sont d'un vert foncé. Le fleuve immense et calme reflète un blanc immaculé. Renversons donc la gourde pour un peu nous enivrer. La lune et le vent dans la poche sont un vrai Parnasse. Les hommes, comme ce panorama se met à aimer. Devant ce paysage enchanteur outre personne ne passe.