閶門即事

耕夫召募逐樓船,
春草青青萬頃田。
試上吳門窺郡郭,
清明幾處有新煙。

 

Xương Môn tức sự

Canh phu triệu mộ trục lâu thuyền,
Xuân thảo thanh thanh vạn khoảnh điền.
Thí thướng Ngô Môn khuy quận quách,
Thanh minh kỷ xứ hữu tân yên.

 

Dịch nghĩa

Hàng vạn nông dân bị bắt đi lính,
Hàng vạn cánh đồng ngập cỏ xanh khi xuân đến.
Thử trèo lên cửa thành nhìn ra ngoại ô,
Thanh minh này được mấy nơi có khói mới.


Bài thơ này trong Toàn Đường thi có chép cả trong phần của tác giả Trương Kế và của Liễu Công Quyền 柳公權.

Xương Môn là cửa phía tây Ngô thành của nước Ngô, nay thuộc Tô Châu, do Ngô Hạp Lư cho xây. Hạp Lư đem quân ra khỏi Xương Môn tiến về phía tây đánh nước Sở, nên cửa thành này cũng được gọi là Phá Sở Môn 破楚門. Trương Kế khi lên thành này, nhớ đến chuyện xưa, thời trai tráng nông dân bị bắt đi lính, rất ít nhà có khói lửa thanh minh nên mới tức sự viết bài thơ này.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 2 trang (16 bài trả lời)
[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Danh Đạt

Nông dân phải lính hết rồi,
Xuân về xanh ngập ruộng đồi cỏ hoang.
Ngoài thành lên cửa liếc sang,
Thanh minh hỏi được mấy làng khói bay?

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
15.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phụng Hà

Bắt lính nông dân chở thuyền đầy,
Ruộng xuân muôn khoảnh ngập cỏ lau.
Lên gác Ngô Môn nhìn thành ngoại,
Khói mới thanh minh lác đác bay.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Về bài thơ Xương môn tức sự .

Chữ thảo phiên âm nhầm thành tảo ,  chữ hạng 项 phiên thành khoảnh 頃 , chữ quách 郭   nhầm thành giao  , chữ ái nhầm thành trục  . Thi viện sửa giùm nhé !

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Xương Môn tức sự

閶門即事

耕夫召募逐樓船,
春草青青萬頃田。
試上吳門窺郡郭,
清明幾處有新煙。

張繼  
卷242_20

簫堯『中國詩苑』《全唐詩》卷二百四十二(私人公益全文免費下載)


Xương Môn tức sự
 
Canh phu triệu mộ TRỤC lâu thuyền ,
Xuân thảo thanh thanh vạn KHOẢNH điền .
Thí thượng Ngô Môn khuy quận quách ,
Thanh minh kỷ xứ hữu tân yên .

Trương Kế

XƯƠNG MÔN : cửa phía tây Ngô thành của nước Ngô , do Ngô Hạp Lư cho xây .
Hạp Lư đem quân ra khỏi XƯƠNG MÔN tiến về phía tây đánh nước Sở , cho nên
cửa thành này cũng được gọi là PHÁ SỞ MÔN 破楚门 .

XƯƠNG MÔN cũng được gọi là Ngô Môn , cho nên câu thứ 3 của bài thơ này có
chữ Ngô Môn . Tác giả Trương Kế khi lên XƯƠNG MÔN , nhớ đến chuyện xưa ,
thời trai tráng nông dân bị bắt đi lính , rất ít nhà có khói lửa thanh minh
nên mới tức sự viết bài thơ này .

词语“昌门”的解释汉典zdic.net

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lâm trung Phú

Nông dân phải lính dồn đầy thuyền
Cỏ rậm phủ xanh muôn mảnh điền
Lên cổng Ngô môn nhìn khắp chốn
Thanh Minh ít thấy khói lam viền!

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Vài góp ý về bài thơ Xương Môn tức sự!

Mình rất đồng ý với bạn kimthoty! Tuy nhiên, có vài điểm cần bàn thêm như sau:

閶門即事
耕夫召募逐樓船,
春草青青萬頃田。
試上吳門窺郡郭,
清明幾處有新烟。

Xương môn tức sự

Canh phu triệu mộ trục lâu thuyền,
Xuân thảo thanh thanh vạn khoảnh điền.
Thí thướng ngô môn khuy quận quách,
Thanh minh kỷ xứ hữu tân yên?


Tên bài thơ: 閶門即事, phiên là “Xương môn tức sự”. Lê Nguyễn Lưu còn phiên là “Xướng môn tức sự” và chú rằng “cũng đọc Xương môn, tên một cửa của thành Tô Châu”.
Dựa vào sách của Nguyễn Danh Đạt, Tiêu Đồng Vĩnh Học xin làm rõ thêm như sau:
1. “Xương môn”: Một cửa thành ở Tô Châu.
2. “Lâu thuyền”: Là thuyền chở lính ngày xưa. “Trục lâu thuyền 逐樓船”: bắt đi lính. Bản chữ Hán của Thi Viện lại chép là “愛樓船, ái lâu thuyền”. Mình thấy cần xem lại chỗ này.
3. Khoảnh 頃, là 100 mẫu. Vậy “萬頃田 vạn khoảnh điền” dịch thành “Hàng vạn cánh đồng” hay “muôn thửa ruộng” là rất hợp lý. Trong khi đó bản chữ Hán của Thi Viện lại chép là “項, hạng”? Mặc dù “hạng” cũng có nghĩa là “to, lớn” nhưng trong các tài liệu của Trung Quốc đều viết là 萬頃田. Có chỗ chú giải là: 農民被召去當兵, 万頃農田旡人耕作 (Nông dân bị triệu khứ đương binh, vạn khoảnh nông điền vô nhân canh tác. Nghĩa là: Nông dân bị bắt làm lính, hàng vạn thửa ruộng không có người canh tác). Đây là lời tố cáo của tác giả bài thơ đối với giai cấp thống trị phong kiến.
4. “Ngô Môn”: chỉ Xương Môn.
5. Trong sách Thơ Đường hai tập chữ “yên” viết là 烟, một số tài liệu của Trung Quốc cũng dùng chữ này. Tất nhiên nó cũng dùng như chữ 煙.

Rất mong sự đóng góp của quý vị thức giả!


Tài liệu tham khảo:
1. Thơ Đường hai tập, Nam Trân giới thiệu, NXB Văn hoá, 1962.
2. Nguyễn Danh Đạt, Bình và chú giải 100 bài thơ Đường hay nhất, NXB Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, 1999.
Trung tình vô hạn bằng thuỳ tố,
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nam Trân

Nhà nông bị bắt xuống thuyền binh,
Ruộng đất bao la cỏ mượt xanh.
Lên gác Ngô môn nhìn khắp quận,
Lơ thơ khói mới tiết thanh minh.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Trung tình vô hạn bằng thuỳ tố,
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu

Thuyền lầu vét lính hết nông dân,
Đồng ruộng xanh um lớp cỏ xuân.
Lên thử Ngô Môn nhìn khắp chốn,
Thanh minh khói mới thấy thưa dần.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Trung tình vô hạn bằng thuỳ tố,
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Cao Bá Vũ

Thuyền quân ních chặt dân cày,
Đồng hoang trải rộng xuân dài cỏ xanh.
Lặng nhìn thôn xóm vắng tanh,
Tìm hương khói mới thanh minh xứ nào?


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Trung tình vô hạn bằng thuỳ tố,
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

sai sót

Xin cảm ơn góp ý của mọi người, mình đã sửa và bổ sung thêm chú thích. Riêng chữ "yên", do font chữ tiếng Trung phồn thể không có 烟 nên mình vẫn giữ nguyên chữ 煙.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời

Trang trong tổng số 2 trang (16 bài trả lời)
[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối