Thơ » Trung Quốc » Trung Đường » Trương Kế
月落烏啼霜滿天,
江楓漁火對愁眠。
姑蘇城外寒山寺,
夜半鐘聲到客船。
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hoả đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Trăng lặn, quạ kêu, sương phủ đầy trời.
Hàng phong bên sông, ngọn đèn thuyền chài ở trước người đang ngủ buồn.
Ngoài thành Cô Tô là chùa Hàn San,
Tiếng chuông lúc nửa đêm vẳng đến thuyền khách.
Trang trong tổng số 8 trang (80 bài trả lời)
[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối
Gửi bởi Vanachi ngày 30/06/2005 23:16
Có 8 người thích
Quạ kêu sương lạnh trăng tà.
Đèn chài giấc muộn la đà bến sông.
Chùa Hàn trầm bổng hồi chuông.
Nửa đêm gọi khách bềnh bồng Cô Tô.
Gửi bởi Vanachi ngày 30/06/2005 23:18
Đã sửa 2 lần, lần cuối bởi Vanachi ngày 27/05/2006 05:34
Có 9 người thích
Quạ kêu, trăng lặn, trời sương,
Lửa chài le lói sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
‡ Trăng tà, tiếng quạ kêu sương,Sách Việt Nam văn chương trích diễm (Lý Văn Hùng, Sài Gòn, 1961) dẫn bản dịch này ghi của Tản Đà, trong đó khác một chữ ở câu đầu:
Lửa ‡ chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
‡ Trăng tà, chiếc quạ kêu sương,Tuy nhiên, Nguyễn Quảng Tuân đã đính chính bản dịch này của Nguyễn Hàm Ninh trên Tạp chí Văn học (số 191, 3-2002) với nội dung như trên.
Lửa ‡ chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Gửi bởi Vanachi ngày 10/02/2006 18:19
Có 2 người thích
Trong bối cảnh thành Trường An chìm trong cơn tao loạn thì nhà thơ Trương Kế, một đại quan tiến sĩ Ngự Sử đài, chẳng kịp theo đoàn hộ giá vương tôn lánh nạn mà đành lưu lạc xuống tận miền Giang Nam trên chiếc thuyền phiêu bạt. Một đêm ghé bến Phong Kiều, động mối u hoài chất chứa, gợi cảm cùng ngoại cảnh thê lương, bức xúc viết nên bài thơ tuyệt diệu, vượt qua cả không gian và thời gian, lưu truyền hậu thế:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiênCuốn Thơ Đường của Trần Trọng San có ghi lại có một truyền thuyết khá lãng mạn về bài này. Một đêm trăng, sư cụ trụ trì chùa Hàn San, cảm hứng nghĩ ra hai câu thơ:
Giang phong ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
Dịch nghĩa:
Trăng lặn, quạ kêu, sương phủ đầy trời
Trong giấc mơ buồn có cây phong ở bến sông và ngọn lửa thuyền chài
Chùa Hàn San ở ngoại thành Cô Tô
Nửa đêm khách đi thuyền tới nghe thấy tiếng chuông chùa ngân vang
Dịch thơ:
Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi
Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co
Con thuyền đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San
(Bản dịch: Tản Đà)
Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lungThao thức mãi trong phòng mà sư cụ không nghĩ ra hai câu tiếp. Tự nhiên có tiếng gõ cửa. Thì ra là chú tiểu cũng trằn trọc vì 2 câu thơ mình mới nghĩ ra:
Bán tự ngân câu bán tự cung
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạnnhưng cũng không làm tiếp được và xin thầy giúp. Nghe xong, sư cụ mừng quá, quỳ xuống tạ Phật. Vì quả thật 2 câu thơ của chú tiểu ăn khớp với 2 câu của sư cụ, thành bài tứ tuyệt mà Trần Trọng San đã dịch như sau:
Bán trầm thuỷ để bán phù không
Mồng ba, mồng bốn, trăng mờLàm xong bài thơ này lúc nửa đêm, sư cụ bảo chú tiểu đánh chuông tạ ơn Phật. Tình cờ đêm hôm đó trên thuyền, thi sĩ Trương Kế cũng không ngủ được vì không nghĩ được câu tiếp cho hai câu “Nguyệt lạc ô đề...” Tự nhiên chuông chùa Hàn San đổ đến, gợi hứng cho thi nhân hoàn tất bài Phong kiều dạ bạc “...Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền...”
Nửa dường móc bạc nửa như cung trời
Một bình ngọc trắng chia hai
Nửa chìm đáy nước nửa cài từng không
Nhật mộ đông đường chính lạc triều
Cô bồng bạc xứ vũ tiêu tiêu
Sơ chung dạ hoả Hàn San tự
Ký quá Ngô phong đệ kỷ kiêu
Dịch nghĩa:
Chiều tối bờ đông chính lúc thuỷ triều xuống
Thuyền côi chốn đậu mưa dầm dề
Tiếng chuông thưa, ánh lửa đêm chùa Hàn San
Nhớ đã qua cầu bên cây phong huyện Ngô
Dịch thơ:
Chiều tối thuỷ triều lắng mé đông
Mưa vương lất phất đậu cô bồng
Hàn San ánh lửa chuông thưa thớt
Ngô huyện qua cầu kế ngọn phong
(Bản dịch: NDD)
Phong diệp tiêu tiêu thuỷ dịch khôngĐã nói đến Phong kiều dạ bạc của Trương Kế, không thể không nhắc đến Bạc Tần Hoài của Đỗ Mục. Cả hai bài thơ phác hoạ dưới góc nhìn thi nhân trên con thuyền hững hờ đậu bãi sông. Một bài khi nghe tiếng chuông chùa thanh thoát đưa tới, đã xoa dịu đi nỗi trầm tư muội phiền của kẻ nhất thời bôn tẩu, đang nằm co ro khắc khoải trong khoang thuyền giá lạnh. Còn một bài thì khi nghe khúc hát văng vẳng của cô gái trẻ trên sông vang lên trong khung cảnh đêm khuya tĩnh lặng, mà dường như dấy nên niềm xúc cảm u hoài trong nỗi hận mất nước.
Ly cư thiên lý trướng nan đông
Thập niên cựu ước Giang Nam mộng
Độc thính Hàn San bán dạ chung
Dịch nghĩa:
Lá phong hiu hắt bến nước vắng không
Lìa quê ngìn dặm lòng buồn nhớ khó khuây
Mười năm ước cũ mộng về Giang Nam
Một mình nghe tiếng chuông chùa Hàn San lúc nửa đêm
Bến vắng rào rào trút lá phong
Nhớ quê vạn lý khó khuây lòng
Giang Nam hẹn ước mười năm mộng
Chuông đánh, Hàn San đêm quạnh không
(Bản dịch: NDD)
Bạc Tần HoàiKhói lan phảng phất trên mặt nước, ánh trăng soi bóng trên mặt cát, thuyền nhẹ lững lờ đậu cạnh quán rượu. Cảnh trăng khuya mới tĩnh mịch làm sao. Bỗng bên kia sông vang lên một tiếng hát văng vẳng. Khúc hát trong những buổi yến tiệc vui chơi mà khiến lòng thi nhân chua xót như oán trách ai vô tình khi bồi hồi nghĩ đến nỗi hận mất nước....
Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa
(Đỗ Mục)
Dịch nghĩa:
khói lan toả trên nước lạnh, ánh nguyệt lan trên cát
Buổi đêm đậu thuyền tại bến sông Tần Hoài cạnh quán rượu
Cô gái trẻ không biết đến nỗi hận mất nước
Ở bên kia sông còn hát khúc Hậu Đình Hoa
Tần Hoài: tên con sông từ tỉnh Giang Tô chảy lên phía Bắc vào sông Trường Giang.
Hậu Đình Hoa: tên khúc hát làm trong buổi tiệc của vua Trần Hậu Chủ và Trương Quý Phi thời Nam Bắc triều
Dịch thơ:
Thuyền Đậu Sông Tần Hoài
Khói trùm nước lạnh, trăng lồng cát;
Thuyền đậu Tần Hoài, cạnh tửu gia.
Cô gái không hay buồn nước mất,
Bên sông còn hát Hậu Đình Hoa
(Bản dịch: Trần Trọng San)
Gửi bởi Vanachi ngày 10/02/2006 18:44
Có 2 người thích
Trong chuyến đi Trung Quốc vừa qua, chúng tôi đã có dịp tới thành phố Tô Châu, nơi có ngôi chùa Hàn San nổi tiếng.
Ngôi chùa này được xây dựng từ thời Nam Triều (đầu thế kỷ thứ VI) và đã được đặt tên là Diệu Lợi tự. Về sau chùa được gọi là Phong Kiều tự vì ở gần cầu Phong Kiều. Đến đời nhà Đường vì có hai thiền sư là Hàn San và Thập Đắc đến trụ trì ở đó nên chùa lại được đổi tên là Hàn San tự.
Chùa từ thời đó đến nay đã trải qua nhiều lần trùng tu nên không còn giữ được kiến trúc ban đầu nữa.
Nếu so với các ngôi chùa khác ở Trung Quốc thì chùa Hàn San không có gì đáng kể về mặt kiến trúc nhưng lại rất nổi tiếng nhờ có bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế.
Nguyên văn bài thơ ấy được truyền tụng như sau:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,và đã được khắc vào bia để ở trong chùa.
Giang phong ngư hoả đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Nguyệt lạc Ô Đề sương mãn thiênvà phải hiểu là:
Trăng lặn ở núi Ô Đề (1), trời đầy sương.“Ô Đề” như vậy không còn là tiếng quạ kêu mà đã trở thành một sơn danh vì người ta cho rằng ban đêm không làm gì có tiếng quạ kêu. Nhưng cách hiểu này đã không được ai theo vì các con quạ vẫn có thể bất thường kêu về ban đêm.
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng.Câu 2:
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,Hai câu này cũng gây thắc mắc cho người đọc vì vào lúc nửa đêm làm gì có tiếng chuông chùa.
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Thất niên bất đáo Phong Kiều tựNhà thơ Tôn Địch cũng đời Tống trong bài Phong Kiều đã viết:
Khách chẩm y nhiên bán dạ chung.
(Bảy năm không tới thăm lại chùa Phong Kiều,
Nằm gối đầu ngủ lại ở đất khách nghe tiếng chuông chùa đánh lúc nửa đêm thấy vẫn y như cũ).
Ô đề nguyệt lạc kiều biên tự,Nhà thơ Cố Trọng Anh đời Nguyên trong bài Bạc Xương Môn đã viết:
Ỷ chẩm do văn bán dạ chung.
(Quạ kêu, trăng lặn, cầu ở bên chùa,
Nằm gối đầu ngủ còn nghe thấy tiếng chuông nửa đêm.)
Tây phong chỉ tại Hàn San tự,Nhà thơ Cao Khải đời Minh trong bài Phong Kiều đã viết:
Trường tống chung thanh giảo khách miên.
(Chỉ tại chùa Hàn San mà gió tây
Đưa xa tiếng chuông tới quấy động giấc ngủ của khách.)
Kỷ độ kinh qua ức Trương Kế,Nhà thơ Văn Trưng Minh đời Minh trong bài Phong Kiều đã viết:
Ô đề nguyệt lạc hựu chung thanh.
(Mấy lần qua Phong Kiều đều nhớ Trương Kế,
Quạ kêu, trăng lặn với tiếng chuông nửa đêm.)
Thuỷ minh nhân tĩnh Giang thành cô,Qua các câu thơ ấy, chúng ta thấy các nhà thơ xưa ở Trung Quốc cũng đều nhắc lại cảnh “quạ kêu”, “trăng lặn” và “tiếng chuông nửa đêm” như là những sự việc rất bình thường, không có gì đáng thắc mắc cả.
Y nhiên lạc nguyệt đề sương ô.
(Nước trong, lòng tĩnh, Giang thành vắng,
Trăng lặn, quạ kêu trong sương vẫn y như cũ.)
Quạ kêu, trăng lặn, trời sương,Bài thơ dịch này, trước đây người ta đã nhầm là của Tản Đà, được kể là hay, chỉ tiếc là ông đã bỏ mất chữ giang phong và đã nhầm bến Phong Kiều là bến Cô Tô và cũng chưa diễn đạt được vai trò chủ thể của tiếng chuông chùa Hàn San nhưng nó vẫn được kể là bài dịch hay nhất từ trước đến nay.
Lửa chài le lói sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Gửi bởi Vanachi ngày 10/02/2006 18:45
Có 1 người thích
Gần như, bất cứ ai đam mê thơ cũng đều ước mơ đến những nơi như Hoàng Hạc Lâu ở huyện Vũ Xương thuộc tỉnh Hồ Bắc hay bến Phong Kiều bên Hàn San tự ở Tây huyện thuộc tỉnh Giang Tô... Đó là những địa danh nổi tiếng và tồn tại muôn đời với những bài thơ bất tử được lưu truyền như Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu hay Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế,... Nhưng qua bao nhiêu năm, thường những mơ ước đó vẫn còn y nguyên là ước mơ.
Nhân đọc bài “Đến Hàn San tự để tìm hiểu bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế” của tác giả Nguyễn Quảng Tuân, tôi động lòng lắm, không biết làm sao hơn, đành giở những trang sách cũ, đọc lại bài thơ tuyệt tác này.
Trương Kế vốn là nhà thơ nổi tiếng của thời Thịnh Đường nhưng người ta quên mất năm sinh và năm mất của ông, chỉ biết ông sinh thời vào khoảng những năm trước và sau 756, niên hiệu Chí Đức, đời Đường Túc Tông. Sinh quán của ông ở Tương Châu, nay thuộc tỉnh Hồ Bắc. Ông là người thông thái, có kiến thức rộng, say mê đàm luận.
Ông đậu tiến sĩ vào năm thứ 12 niên hiệu Thiên Bảo. Ông từng giữ nhiều chức vụ khác nhau, khi mất ông đang làm tài phú ở Hồng Châu. Trương Kế chỉ để lại một tập thơ, trong đó nổi tiếng nhất là bài Phong Kiều dạ bạc, tức là Ban đêm thuyền đậu bến Phong Kiều.
Nhân bài viết của tác giả Nguyễn Quảng Tuân có đặt nhiều nghi vấn về những dữ kiện trong bài thơ này, mà những điểm đó đươc ghi nhận qua nhiều tác phẩm biên khảo văn chương của Trung Quốc. Trong khả năng giới hạn của bài viết này, tôi không thảo luận về những nghi vấn được nêu ra, để đưa đến những kết luận thế này hay thế nọ, hoặc đúng hay sai. Mà mục đích của bài viết này, tôi chỉ xin góp vào một chút dữ kiện để bổ túc mà thôi.
Bài Phong Kiều dạ bạc chỉ vỏn vẹn có bốn câu:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,Nguyên bản bài thơ này bằng chữ Hán không có các dấu phết và dấu chấm ở cuối các câu. Nhưng tuỳ theo ý nghĩa của thơ, các tác giả đời sau đã phân đoạn và ngưng câu để thêm các dấu phết và chấm vào. Sự kiện này hay xảy ra, như trường hợp quyển Đạo Đức Kinh của Lão Tử được viết vào khoảng năm 500 đến 450 trước Tây Lịch. Đạo Đức Kinh được khắc trên các thẻ tre, không có dấu chấm phết, nhưng nhiều tác giả đời sau đã tuỳ theo cách đọc mà phân đoạn khác nhau. Mỗi khi các dấu chấm phết xê dịch thì ý nghĩa trong Đạo Đức Kinh thay đổi rất nhiều, có khi khác hẳn nhau.
Giang phong ngư hoả đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên, (a)Bây giờ tôi ngắt câu và chữ khác đi đôi chút:
(Cách ngắt câu và chữ theo tác giả Trần Trọng San) (1)
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên, (b)
(Cách ngắt câu và chữ theo tác giả Nguyễn Quảng Tuân)
Nguyệt lạc ô đề, sương mãn thiên, (c)Khi đọc, nếu ngắt câu khác nhau ý nghĩa câu thơ có thể khác nhau:
Trăng lặn, quạ kêu, trời đầy sương, (a)Như vậy, tuỳ theo cách ngắt câu, ô đề có thể là địa danh.
Trăng lặn quạ kêu trời đầy sương, (b)
Trăng lặn trên núi Ô Đề, trời đầy sương, (c)
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiênĐến nghi vấn về chữ “sầu miên” trong câu hai:
Giang phong, ngư hoả đối sầu miên. (2)Về địa dư, đất Ngô huyện thuộc tỉnh Giang Tô không có núi nào tên là Sầu Miên. Theo tác giả Nguyễn Quảng Tuân, có lẽ tên chùa là Hàn San, san có nghĩa là sơn, là núi, nên có tác giả đã nghĩ như vậy.
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên,Câu hai, thơ như chậm lại bên hàng cây phong, dưới sông thấp thoáng ánh lửa thuyền chài, đêm buồn dịu lặng, ray rức:
Giang phong, ngư hoả đối sầu miên.Câu ba, thơ sực tỉnh, như dừng lại, ngoài trăng, sương, sông, nước, còn ngôi chùa ẩn hiện trong đêm:
Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự,Câu cuối, thơ ngỡ ngàng trước tiếng chuông chùa ngân vang trong lòng đêm yên lặng, giửa đêm tịch mịch, sương như lung lay, nước như gờn gợn, khách trong thuyền xao xuyến cả tâm hồn:
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.Đã có nhiều tác giả dịch bài thơ Phong Kiều dạ bạc sang tiếng Việt. Bản dịch tiếng Việt qua thể lục bát, theo tác giả Trần Trọng San, bản này của thi sĩ Tản Đà (5), nhưng tác giả Nguyễn Quảng Tuân đã đính chánh, bản dịch đúng ra là của thi sĩ Nguyễn Hàm Ninh, nhưng không thấy dẫn chứng.
Trăng tà, tiếng quạ kêu sương,Bản dịch, theo Nguyễn Quảng Tuân là của Nguyễn Hàm Ninh (7), có vài điểm không giống hẳn như bản trên:
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Quạ kêu, trăng lặn, trời sương,Tôi ghi cả hai bản dịch ra đây để tiện đối chiếu.
Lửa chài le lói sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Ban đêm thuyền đậu bến Phong Kiều (8)Bản dịch của Trần Trọng San, cùng thể, vừa giữ được ý thơ lãng mạn lại vừa giữ được nét cứng cỏi của thất ngôn. Bản dịch, tôi thiết nghĩ đáp được hai yêu cầu của tác giả Nguyễn Quảng Tuân, thứ nhất là Cô Tô là thành luỹ chứ không phải bến và thứ hai là tính chủ động của tiếng chuông chùa ở câu bốn.
Trăng tà, tiếng quạ vẳng sương rơi,
Sầu đượm hàng phong, giấc lửa chài.
Ngoài luỹ Cô Tô, chùa vắng vẻ,
Nửa đêm chuông vẳng đến thuyền ai.
Đêm đậu thuyền ở bến Phong KiềuBản dịch của tác giả Nguyễn Hà không ổn vì:
Tiếng quạ kêu sương, nguyệt cuối trời
Bờ phong sầu hắt lửa thôn chài
Hàn Sơn chuông vẳng Cô Tô lại
Khuya khoắt lay thuyền động giấc ai... (9)
Sơ tam, sơ tứ nguyệt mông lung,Và hai câu tiếp theo của chú tiểu là:
Bán tự ngân câu, bán tự cung.
Nghĩa là:
Mồng ba, mồng bốn, mặt trăng mờ mờ,
Nửa như móc bạc, nửa tựa cái cung.
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn,Tác giả Trần Trọng San có dịch bốn câu thơ trên gồm hai câu của sư cụ và hai câu của chú tiểu:
Bán trầm thuỷ để, bán phù không.
Nghĩa là:
Một chiếc bình ngọc chia làm hai mảnh,
Nửa chìm đáy nước nửa nổi trên trời.
Mồng ba mồng bốn trăng mờ,Dĩ nhiên, chúng ta không thể so sánh hai câu của sư cụ và hai câu của chú tiểu với bốn câu thơ của Trương Kế được. Một bên là những người bình thường với hồn thơ dào dạt, làm được những câu thơ như thế cũng xứng đáng được tán thưởng lắm rồi. Lẽ nào, chúng ta so sánh bài thơ đó với bốn câu thơ của Trương Kế, là người đã nổi tiếng về tài thơ trong thời Thịnh Đường.
Nửa dường móc bạc, nửa như cung trời.
Một bình ngọc trắng chia hai,
Nửa chìm đáy nước, nửa cài từng không. (10)
Gửi bởi Vanachi ngày 27/05/2006 05:33
Có 6 người thích
Trăng tà tiếng quạ vẳng sương rơi
Sầu đượm hàng phong giấc lửa chài
Ngoài lũy Cô Tô chùa vắng vẻ
Nửa đêm chuông vẳng đến thuyền ai.
Gửi bởi Vanachi ngày 27/05/2006 05:33
Có 4 người thích
Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi
Lửa chài, cây bãi đối người nằm co
Con thuyền đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San
Gửi bởi Vanachi ngày 18/03/2007 17:43
Có 4 người thích
Tiếng quạ kêu sương bóng nguyệt mờ
Cầu phong đốm lửa giấc sầu mơ
Hàn Sơn khuất bãi Cô Tô vắng
Đêm điểm hồi chuông khách sững sờ...
Gửi bởi Vanachi ngày 18/03/2007 17:43
Có 2 người thích
Nguyệt tà, quạ lảnh lót kêu sương
Ánh lửa cầu phong vỗ mộng thường
Bến vắng Cô Tô thuyền lẻ bóng
Hàn Sơn rền rĩ khách nghe chuông.
Gửi bởi Vanachi ngày 18/03/2007 17:44
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử ngày 27/06/2020 11:38
Có 2 người thích
Trăng lặn sương bay tiếng quạ buồn,
Chập chờn nước lửa những xui nên.
Hàn Sơn khuya khoắt chuông đâu thỉnh,
Ngoài bến Cô Tô khách đậu thuyền.
Trang trong tổng số 8 trang (80 bài trả lời)
[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối