江都晚泊

長空吹起雨漫漫,
篙手沿流引溯難。
盡日帆檣三十里,
滿江波浪萬重灘。
嵐開遠岸山如畫,
風掠扁舟夏亦寒。
薄暮蕉園聞犬吠,
簑衣村叟閉秦關。

 

Giang Đô vãn bạc

Trường không xuy khởi vũ man man,
Cao thủ duyên lưu dẫn tố nan.
Tận nhật phàm tường tam thập lý,
Mãn giang ba lãng vạn trùng than.
Lam khai viễn ngạn sơn như hoạ,
Phong lược biển chu hạ diệc hàn.
Bạc mộ tiêu viên văn khuyển phệ,
Thoa y thôn tẩu bế Tần quan.

 

Dịch nghĩa

Bầu trời mênh mông, gió thổi tới màn mưa mịt mù,
Tay sào men theo dòng, chống ngược thuyền thật vất vả.
Suốt cả ngày, thuyền chỉ đi được ba mươi dặm,
Sóng dậy đầy sông, muôn trùng ghềnh thác.
Lam khí tan lộ ra nơi bờ xa, núi non như tranh vẽ,
Gió quét con thuyền nhỏ, mùa hè cũng thấy lạnh.
Chiều tà nghe tiếng chó sủa trong vườn chuối,
Thấy ông già trong thôn mặc áo tơi, đóng cửa quan nhà Tần.


Nguyên dẫn: “Thị nhật ngộ vũ, thoan lưu tấn cấp, chu hành tam thập lý” 是日遇雨,湍流迅急,舟行三十里 (Ngày hôm đó gặp trời mưa to, nước chảy xiết, thuyền chỉ đi được 30 dặm).

Giang Đô vốn là một vùng đất rất cổ, có người cư trú khoảng hơn 2500 năm trước công nguyên. Thời Xuân thu thuộc nước Ngô, thời Tần Sở, Hạng Vũ định lập đô tại Quảng Lăng, trông xuống sông nên đặt tên là Giang Đô. Năm 223 trước công nguyên, Tần Thuỷ Hoàng diệt Sở, Giang Đô thuộc huyện Quảng Lăng, nước Tần, nay là một thị xã cấp huyện thuộc thị Dương Châu, tỉnh Giang Tô.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]