寄舍弟雅軒直講公

湯邑歸驄認舊程,
龐髫相識夾途迎。
文書省約常無事,
風物招邀各有情。
傍岸亭臺憑地勝,
半岩窗几占天成。
閒來亦效公勤行,
時閱芸編課里生。

 

Ký xá đệ Nhã Hiên trực giảng công

Thang ấp quy thông nhận cựu trình,
Bàng thiều tương thức giáp đồ nghinh.
Văn thư tỉnh ước thường vô sự,
Phong vật chiêu yêu các hữu tình.
Bạng ngạn đình đài bằng địa thắng,
Bán nham song kỷ chiếm thiên thành.
Nhàn lai diệc hiệu công cần hạnh,
Thời duyệt vân biên khoá lý sinh.

 

Dịch nghĩa

Vó ngựa về ấp tắm gội, nhận được đường cũ,
Già trẻ quen biết đứng bên đường đón.
Giấy tờ đơn giản, thường rảnh việc,
Phong cảnh đón mời, đều có tình.
Đình đài bên sông, nhờ vào cái đẹp của đất,
Ghế, cửa sổ lưng núi, chiếm được vẻ đẹp của trời.
Rỗi rãi cũng bắt chước nết chăm của ông,
Thường đọc sách và dạy học trò trong làng.


Nhã Hiên (1755-1786) là em trai thứ ba của Phan Huy Ích, lúc nhỏ tên huý là Chuẩn, sau lớn đổi thành Uông, tự Trọng Dương, hiệu Nhã Hiên, lúc thi đỗ đổi tên là Ôn, tên thuỵ là Uyên Hậu Phủ quân, đỗ tiến sĩ thịnh khoa Kỷ Hợi (1779), làm Hàn lâm viện Thị giảng, từng làm các chức Đốc đồng Sơn Tây, Thái Nguyên, Thiêm sai Tri công phiên, tước Mỹ Xuyên hầu.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]