奉命南行

新進微臣荷特知,
遠將旌節赴南陲。
戎機最係邦家重,
行色多蒙雨露施。
楓陛洪謨憑指授,
沙場新景試詢諮。
孝心更得邀宸照,
洞海邊關讌聚時。

 

Phụng mệnh nam hành

Tân tiến vi thần hạ đặc tri,
Viễn tương tinh tiết phó nam thuỳ.
Nhung cơ tối hệ bang gia trọng,
Hành sắc đa mông vũ lộ thi.
Phong bệ hồng mô bằng chỉ thụ,
Sa trường tân cảnh thí tuân ty.
Hiếu tâm cánh đắc yêu thần chiếu,
Động Hải biên quan yến tụ thì.

 

Dịch nghĩa

Kẻ bề tôi nhỏ mới thăng được đặc biệt biết tới,
Mang cờ tiết đến vùng biên cương phương nam xa.
Quân cơ là việc rất hệ trọng của nước nhà,
Đi đường nhiều khi được thấm nhuần ơn mưa móc.
Mưu lược to lớn nơi thềm phong1 nhờ trên dặn bảo,
Tin lành mới mẻ ở sa trường hãy thử thăm hỏi.
Lòng hiếu may lại được vua xoi xét đến,
Sẽ vui vầy yến tiệc ở cửa ải Động Hải.


Nguyên dẫn: Giữa mùa thu, uỷ viên của Tây Sơn đến trấn Phú Xuân, dâng trình tờ biểu, đồng thời tiến sản vật quý của địa phương, cầu được giao hảo, trong đó có nhiều uẩn khúc khó phân biệt thực giả. Theo chỉ dụ thì phải chọn một quan văn mẫn cán, xứng đáng để sai đi cùng các quan địa phương giải quyết vấn đề ở biên giới. Lúc đó, thân phụ tôi làm việc ở đồn Động Hải, chính phủ định tuyển vào chức đó. Khi trình lên, bề trên đặc biệt đổi tên thân phụ tôi ra tên tôi, lại dụ tôi phải vào để dặn dò công việc, khi nào xong việc phải về triều trình bày, lại được tiện đường về thăm phụ thân, như vậy càng thoả đáng đôi đường. Tôi mới nhận chức Thiêm sai hơn một tháng, nhiều lần được gọi vào hầu để chỉ bảo phương lược. Được trên ban cơm, khen thưởng yên ủi đầy đủ, và truyền xuống để cho các trấn cử quan binh lần lượt bảo vệ nghênh tiếp. Ngày hai bắt đầu ra đi, cả đi lẫn về gần ba tháng, có tập thơ Nam trình tạp vịnh, đại lược như sau: [...]


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]