秋奉特准再入添差知刑番拜命恭紀

新添差即舊添差,
一味慵疏最不才。
政術何曾經琢鍊,
物情猶是素乖崖。
尋常揣分慚初學,
咫尺承霑荷特裁。
遭際幸超常格外,
區區忠赤敢忘懷。

 

Thu phụng đặc chuẩn tái nhập thiêm sai tri hình phiên, bái mệnh cung kỷ

Tân thiêm sai, tức cựu thiêm sai,
Nhất vị dung sơ tối bất tài.
Chính thuật hà tằng kinh trác luyện,
Vật tình do thị tố quai nhai.
Tầm thường suỷ phận tàm sơ học,
Chỉ xích thừa triêm hạ đặc tài.
Tao tế hạnh siêu thường cách ngoại,
Khu khu trung xích cảm vong hoài.

 

Dịch nghĩa

Quan thiêm sai mới cũng là quan thiêm sai cũ,
Vẫn một điệu lười biếng, sơ suất hết sức bất tài.
Về chính sự nào đã được đào luyện,
Với thói đời còn nhiều chỗ ngang trái.
Xét phận mình thẹn nỗi tầm thường mới học,
Nhờ gần tấc gang được ơn trên đặc cách.
Việc gặp gỡ may mắn vượt ra ngoài thường lệ,
Tấm lòng trung nhỏ mọn đâu dám quên.


Nguyên dẫn: Khi đó, tôi đang ở Hàn lâm được vào hầu cận, gặp lúc chức Án sát Kinh Bắc khuyết người. Chính phủ lấy tôi thay Phạm Nguyễn Du coi việc phiên Hình, đưa Phạm Nguyễn Du ra giữ chức quyền Án sát Kinh Bắc.

Phạm Nguyễn Du (1740-1786) tự Hiếu Đức, hiệu Thạch Động, người xã Đặng Điền, huyện Chân Phúc, nay là xã Nghi Thạch, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, đỗ hoàng giáp thịnh khoa Kỷ Hợi (1779), từng làm quan tại triều, sau bổ đi Đốc đồng Nghệ An. Tây Sơn ra Bắc, ông không cộng tác, chạy lên vùng núi huyện Thanh Chương rồi ốm mất. Ông cũng là một tác gia có nhiều đóng góp đặc sắc cho văn học thế kỷ XVIII.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]